các kích thước
Sự hiểu biết rõ về các giác quan của con người - cách thức và phạm vi hoạt động của chúng - là điều kiện tiên quyết quan trọng cho việc thiết kế và xác định kích thước của tất cả các hình dạng khơng gian ngồi trời và bố trí tồ nhà.
Vì nhìn và nghe có quan hệ với tính chất tồn diện nhất của các hoạt động xã hội ngoài trời - những cuộc tiếp xúc nhìn và nghe - tất nhiên, việc chúng hoạt động như thế nào là một nhân tố quy hoạch cơ bản. Hiểu biết về các giác quan là điều kiện tiên quyết thiết yếu cũng có quan hệ với sự am hiểu tất cả các hình thức khác của thơng tin liên lạc trực tiếp và nhận thức của con người về những điều kiện khơng gian và các kích thước.
Sự vận động của con người được giới hạn bởi thiên nhiên chủ yếu là chuyển động theo phương nằm ngang với tốc độ khoảng 5km/h (3 dặm/h) và bộ máy giác quan cũng thích nghi tốt với điều kiện đó. Các giác quan được định hướng về cơ bản về phía trước mặt và một trong những giác quan phát triển tốt nhất và hữu ích nhất là thị giác thì rõ ràng là theo phương nằm ngang. Thị trường (phần khơng gian mà mắt có thể nhìn bao quát được) theo phương nằm ngang rộng nhiều hơn so với phương thẳng đứng. Nếu người ta nhìn thẳng về phía trước thì có thể thống thấy cái đang diễn ra ở cả hai bên trong phạm vi vòng tròn nằm ngang nhiều nhất là 90o ở mỗi bên.
Thị trường phía dưới hẹp hơn nhiều so với phương nằm ngang và thị trường phía trên cũng hẹp hơn. Thị trường phía trên lại giảm hơn nữa, bởi vì trục nhìn khi đi bộ có hướng chúc xuống khoảng 10o để nhìn thấy nơi người ta đang đi. Người đang đi xuống thì đường phố chẳng trơng thấy gì ngồi tầng trệt của nhà cửa, vỉa hè và những gì đang diễn ra trên khơng gian đường phố.
Vì vậy những sự kiện được nhận thấy phải diễn ra trước mắt khán giả và trên khoảng cùng một độ cao đó, điều này được phản ánh trong thiết kế tất cả các loại không gian của Các giác quan là
xem xét cần thiết trong quy hoạch.
Bộ máy giác quan theo phương chính diện và nằm ngang.
khán giả - nhà hát, rạp chiếu phim, phòng khán giả. Ở nhà hát, vé ngồi trên bancơng giá rẻ hơn, bởi vì khơng thể nhìn thấy các sự kiện diễn ra một cách “chính xác” và sẽ khơng có một ai chấp nhận ngồi ở mức thấp hơn sàn sân khấu. Một ví dụ khác minh hoạ cho sự hạn chế của phương thẳng đứng của thị trường là sự trưng bày hàng hoá ở các siêu thị. Những hàng bình thường dùng trong gia đình được đặt ở dưới tầm mắt, trên các giá gần sàn nhà nhất, trong khi những giá trên đai hẹp ở ngay tầm mắt thì xếp đầy các hàng hố khơng quan trọng, không thiết yếu mà cửa hàng muốn các khách hàng mua một cách hấp tấp.
Ở khắp mọi nơi người ta đi lại và tham gia các hoạt động, họ làm như thế trên những mặt phẳng nằm ngang. Thật khó di chuyển lên hoặc xuống, khó giao lưu khi đi lên hoặc đi xuống và khó nhìn ngước lên hoặc chúc xuống.
Trong cuốn sách The Hidden Dimension (Khía cạnh bị che khuất) [23] của mình, nhà nhân loại học Edward T. Hall đã mô tả những giác quan quan trọng nhất và các chức năng của chúng về những sự tiếp xúc của con người và sự trải nghiệm thế giới bên ngoài. Theo Hall, hai loại cơ quan giác quan, có thể được xác định rõ: cảm nhận từ xa - mắt, tai, mũi - và cảm nhận trực tiếp - da, màng, cơ bắp. Những cảm nhận ấy có các mức độ chuyên biệt khác nhau và có những phạm vi chức năng khác nhau.
Trong bối cảnh hiện nay các cảm nhận từ xa là đặc biệt quan trọng.
Khứu giác ghi nhận sự thay đổi mùi trong tầm rất hạn chế. Chỉ với khoảng cách nhỏ hơn 1m (39 in) nói chung mới có thể cảm nhận được những mùi tương đối nhẹ toả ra từ tóc, da và áo quần của người khác. Hương thơm và những mùi khác hơi nặng hơn có thể nhận thấy ở khoảng cách từ 2 đến 3m (7 đến 10 ft). Ngồi khoảng cách ấy thì con người chỉ có thể nhận thấy những mùi nặng hơn nhiều.
Thính giác có tầm chức năng lớn hơn. Trong khoảng cách đến 7m (23 ft) tai rất có tác dụng. Có thể tiến hành đàm thoại tương đối ít khó khăn trong phạm vi khoảng cách này. Với khoảng cách khoảng 35m (100 ft) vẫn có thể nghe được giảng viên nói, chẳng hạn, và thiết lập trạng thái hỏi - đáp, nhưng không thể tham gia đàm thoại trên thực tế.
Xa hơn 35m (100 ft) thì khả năng nghe người khác bị giảm rất nhiều. Có thể nghe người nói to, nhưng khó hiểu Cảm nhận từ xa và
cảm nhận trực tiếp.
Khứu giác (ngửi).
được người ấy nói gì. Nếu khoảng cách là 1km (5/8 dặm) hoặc xa hơn thì chỉ có thể nghe được tiếng ồn rất to như tiếng ầm ầm của đại bác hoặc tiếng máy bay phản lực bay cao. Thị giác có phạm vi chức năng thậm chí cịn rộng hơn. Có thể trơng thấy những ngơi sao và thường có thể thấy rõ các máy bay mà không thể nghe được tiếng máy bay. Tuy nhiên, cũng giống như các giác quan khác, thị giác cũng có những hạn chế.
Người ta có thể nhìn những người khác và nhận thấy họ ở cách xa từ 1/2 đến 2km (1600 đến 3200 ft), phụ thuộc vào các nhân tố như bối cảnh, hệ thống chiếu sáng và đặc biệt là những người đang được nói đến ở đây có chuyển động hay khơng. Trong khoảng 100m (325 ft) những hình được trơng thấy ở cự li xa hơn sẽ trở thành các con người. Tầm đó có thể được gọi là thị trường xã hội. Một ví dụ về tầm nhìn có ảnh hưởng như thế nào đến cách ứng xử là bãi biển thưa thớt người - nơi các nhóm người tắm biển được phân bố cách nhau khoảng 100m (325 ft). Ở khoảng cách này các nhóm có thể nhận thấy những người khác ở xa hơn dọc theo bãi biển, nhưng không thể thấy được họ là ai và họ đang làm gì. Ở khoảng cách từ 70 đến 100m (250 đến 325 ft) thì bắt đầu có thể xác định một cách chắc chắn giới tính, tuổi tác áng chừng của một người và người đó đang làm gì.
Ở cự li ấy thường có thể nhận ra những người mà người ta biết rõ dựa trên quần áo của họ và cách họ đi lại.
Giới hạn 70 đến 100m (250 đến 325 ft) cũng ảnh hưởng đến tình trạng của khán giả ở những đấu trường thể thao khác nhau như sân bóng đá. Khoảng cách từ chỗ ngồi xa nhất đến giữa sân chẳng hạn thường là 70m (250 ft). Nếu khơng khán giả khơng thể thấy cái gì đang diễn ra.
Không phải khi cự li ngắn hơn đáng kể mới có thể nhận rõ các chi tiết cho phép người ta nhận biết những người khác. Ở cự li khoảng 30m (100 ft), nét mặt, kiểu để tóc và tuổi có thể thấy được và có thể nhận ra người ta gặp khơng thường xuyên. Khi cự li giảm cịn 20 đến 25m (60 đến 80ft) thì đa số người biết tương đối rõ cảm giác và tâm trạng của người khác. Ở điểm này sự gặp gỡ bắt đầu trở nên thực sự thú vị và thích đáng trong bối cảnh xã hội.
Nhà hát là một ví dụ có liên quan. Khoảng cách từ sân khấu đến những chỗ xa nhất của khán phòng trong nhà hát thường là 30 đến 35m (100 đến 115 ft). Ở nhà hát, các cảm giác chủ yếu là có tính chất thơng tin nên thậm chí thơng qua Thị trường xã hội
- 0 đến 100m (0 đến 325 ft). Thị giác (nhìn).
Nhìn-vấnđềkhoảngcách. 80 m (240 ft) 50 m (150 ft) 20 m (60 ft) 7,5 m (25 ft) 2 m (6 ft) 40 cm (14 in.)
Những cự li và sự thông tin liên lạc.
các diễn viên có thể có những ấn tượng thị giác “phóng đại” bằng cách hoá trang và các động tác cường điệu, cũng có những giới hạn nghiêm ngặt để dù xa đến mấy cử toạ cũng ngồi nếu buổi biểu diễn đạt được một cái gì đó.
Ở cự li thậm chí ngắn hơn, khối lượng và cường độ thơng tin cũng tăng lên nhiều vì các giác quan khác bây giờ có thể bắt đầu bổ sung cho thị giác. Ở cự li 1 đến 3m (3 đến 10 ft) mà sự trị chuyện bình thường diễn ra, kinh nghiệm địi hỏi mức độ chi tiết nói chung là cần thiết cho sự tiếp xúc đầy ý nghĩa của con người. Ở cự li cịn ngắn hơn thì những ấn tượng và cảm giác sẽ mạnh hơn nữa.
Tác động qua lại giữa cường độ và cự li của các ấn tượng khối cảm thường có trong thơng tin liên lạc của con người. Những cuộc tiếp xúc gây xúc động mạnh được diễn ra rất gần nhau, 0 đến 1/2m (0 đến 2ft), nơi mà các giác quan làm việc cùng nhau và nơi mà tất cả sắc thái và chi tiết có thể được nhận thấy một cách rõ ràng khi những cuộc tiếp xúc ít mạnh mẽ hơn được diễn ra ở cự li lớn hơn, 1/2 đến 7m (2 đến 20 ft).
Việc sử dụng cự li một cách có ý thức có trong hầu như tất cả các cuộc tiếp xúc. Cự li giữa những người tham dự được giảm bớt nếu sự quan tâm lẫn nhau và cường độ tăng lên. Người ta cùng đi sát nhau hơn hoặc cúi xuống khi ngồi trên ghế của mình. Trạng thái trở nên “gần gũi” hơn, mạnh mẽ hơn.
Trái lại, cự li tăng lên nếu sự quan tâm và cường độ suy yếu. Chẳng hạn, cự li tăng lên khi sự bàn cãi gần đến kết thúc. Nếu một trong số những người tham gia muốn kết thúc cuộc chuyện trò, anh ta sẽ lùi vài bước - “rút khỏi tình thế”.
Hơn nữa, ngơn ngữ có rất nhiều nguồn tham khảo và mối liên hệ giữa cự li và cường độ của sự tiếp xúc. Người ta nói về “tình hữu nghị chặt chẽ”, “người bà con gần”, “mối quan hệ xa”, “khơng để cho mình trở nên q thân mật với ai” hoặc “để ai lánh xa người nào đó”.
Sự thật là cự li thường vừa điều chỉnh sự thân tình và cường độ trong các tình trạng xã hội khác nhau, vừa kiểm tra sự khởi đầu và sự kết thúc những cuộc đàm thoại cá nhân, ngụ ý rằng một khơng gian nào đó là cần thiết cho đàm thoại. Chẳng hạn như thang máy là không gian thực tế không thể dùng được cho việc đàm thoại bình thường. Sự thật cũng như thế đối với sân trước có độ sâu vào phía trong là 1m (3ft). Trong cả hai trường hợp ấy khơng có đường tránh các
Quymơ(kíchthước)nhỏcónghĩanhưnhữngkhơnggianấmcúng,thântình.
Cự li thường bao hàm những mối quan hệ khác nhau giữa người với người. Những cụm từ như “người bạn gần gũi” và “để người này lánh xa người nào đó” cho thấy mức độ thân tình đã đạt được.
Tương tự như thế, các khơng gian nhỏ có xu hướng được nhìn nhận như những khơng gian ấm áp và riêng tư. Kích thước nhỏ cho phép nhìn và nghe được người khác, và trong không gian nhỏ các chi tiết cũng như tổng thể có thể có được niềm vui thích. Trái lại, không gian lớn được coi là không gian lạnh lùng và khơng có tính riêng tư. Nhà cửa và con người đều có vẻ xa cách.
Bên trái: Tồ án London, Perth, miền Tây Australia.
cuộc tiếp xúc không mong muốn hoặc rút lui khỏi những tình trạng khơng mong muốn. Mặt khác, ở nơi mà sân trước q sâu vào phía trong thì sự đàm thoại khơng thể bắt đầu. Các cơng trình khảo sát ở Australia, Canada và Đan Mạch (xem trang 38 và 197) đã chứng tỏ rằng cự li 3¼ m (10 ft) hố ra rất hữu ích trong bối cảnh đặc biệt đó.
Trong cuốn The Hidden Dimension (Khía cạnh bị che khuất) [23] Edward T. Hall đã định rõ nhiều khoảng cách xã hội tức là những khoảng cách theo thơng lệ cho các hình thức thơng tin liên lạc trong lĩnh vực văn hoá của Tây Âu và của Mĩ.
Khoảng cách thân tình (0 đến 45cm tức là 0 đến 1½ ft) là
khoảng cách mà những cảm giác mãnh liệt được biểu lộ: sự âu yếm dịu dàng, sự thoải mái, yêu thương và cả sự giận dữ mạnh mẽ.
Khoảng cách dành riêng cho cá nhân (0,45 đến 1,30m tức
là 1½ đến 4½ ft) là cự li đàm thoại giữa những người bạn thân và gia đình. Ví dụ: Khoảng cách giữa những người trong gia đình quanh bàn ăn.
Khoảng cách xã hội (1,30 đến 3,75m tức là 4½ đến 12ft)
là khoảng cách cho sự đàm thoại bình thường giữa các bạn bè, người quen, hàng xóm láng giềng, người cùng làm việc, v.v. Nhóm Xơfa (sofa) với các ghế bành và bàn cà phê là sự diễn đạt tự nhiên về khoảng cách xã hội.
Cuối cùng, khoảng cách công cộng (hơn 3,75m tức là hơn 12ft) được định rõ là khoảng cách được dùng trong những tình huống theo nghi thức hơn - quanh các nhân vật được công chúng biết rõ hoặc trong tình trạng giảng dạy với thơng tin liên lạc một chiều hay là có ai đó muốn nghe hoặc nhìn một sự kiện nhưng khơng muốn trở thành người có dính líu vào. Mối quan hệ giữa cự li và cường độ, sự liên quan chặt chẽ và sự ấm cúng trong những tình huống tiếp xúc khác nhau có sự tương tự quan trọng trong nhận thức phổ biến về kích thước kiến trúc. Ở các thành phố và những dự án xây dựng có kích thước đơn giản, các đường phố hẹp và những không gian nhỏ, các toà nhà, những chi tiết xây dựng và những người di chuyển đây đó trong các không gian được trải nghiệm ở mức độ chặt chẽ và với cường độ đáng kể. Những thành phố và các không gian này được coi là thân tình, ấm áp và có tính riêng tư.
Ngược lại, những dự án xây dựng với các không gian lớn, các đường phố riêng và các tồ nhà cao thường lạnh lùng và vơ cảm.
Khoảng cách xã hội. Khoảng cách xã hội.
Kích thước nhỏ và lớn.
Tỉlệthànhphốgiaothơngbằngơtơ/tỉlệthànhphốđibộ.
Kích thước của xe ơtơ và đặc biệt là tốc độ chuyển động tạo ra những sự khác nhau lớn giữa thành phố giao thông bằng ôtô và thành phố đi bộ. Để làm cho nhà và tín hiệu giao thơng có thể thấy rõ đối với giao thơng bằng xe, cần có thiết kế thơ và kí hiệu lớn.
Những vật thể và sự kiện phải ở gần tầm mắt để được nhận thấy và thường tầm nhìn bị hạn chế. Một nhân tố quan trọng khác trong việc trải nghiệm là phải có số thời gian hợp lí, trong đó để nhìn và xử lí các ấn tượng thị giác.
Các giác quan hầu hết là được huy động để nhận thấy và xử lí những chi tiết và những ấn tượng có được khi đi bộ và chạy tốc độ 5 đến 15 km/h (3 đến 9 dặm/h). Nếu tốc độ vận Thời gian để
Thờigiantrảinghiệm.
Tốc độ chậm, kích thước nhỏ và xử lí chi tiết một cách cẩn thận có tương quan chặt chẽ với nhau. Trên: Marken, Neder- land.
Bên phải: Copenhagen (Đan Mạch)
động tăng lên thì khả năng nhận rõ chi tiết và xử lí thơng tin xã hội đầy ý nghĩa sẽ giảm xuống nhanh. Minh hoạ cho hiện tượng này có thể thấy được trên xa lộ ở nơi giao thông thường bị tắc nghẽn trên cả hai làn xe khi xảy ra tai nạn ở một làn xe, vì những người lái xe ở làn xe kia giảm tốc độ còn 5 dặm/h để xem cái gì đã xảy ra. Một ví dụ khác là cuộc biểu diễn trượt tuyết mà trong đó những cuộc trượt tuyết đã thay đổi quá nhanh cho đến khi cử toạ yêu cầu nhịp độ chậm hơn để “thấy cái gì đang diễn ra”.
Khi hai người đi bộ theo hướng ngược nhau để gặp nhau trong khoảng 30 giây, đi từ lúc họ trông thấy hoặc nhận ra nhau đến khi họ gặp nhau. Trong suốt cả thời gian đó, khối lượng thơng tin và mức độ chi tiết nhận biết được sẽ tăng lên dần dần, cho mỗi người có đủ thời gian để phản ứng tình huống. Nếu thời gian phản ứng ấy giảm tới hạn thì khả năng nhận thấy và đối phó lại tình huống sẽ biến mất như trong trường hợp xe ôtô qua nhanh trên đường.