CHƯƠNG 1 : Giới thiệu nghiên cứu
2.3 Các nghiên cứu trước có liên quan
2.3.1 Nghiên cứu của Supavititpatana và cộng sự (2012) về ý định hoạt động
thể chất của các bà mẹ mang thai tại Thái Lan
Supavititpatana và cộng sự (2012) đã sử dụng mơ hình TPB của Ajzen (1991) để kiểm tra các yếu tố ảnh hưởng đến ý định hoạt động thể chất của phụ nữ mang thai trong giai đoạn thứ hai của thai kỳ tại Thái Lan. Mẫu được lấy ngẫu nhiên, tên của các đối tượng tiềm năng thu được từ các y tá trưởng của hai bệnh viện khám thai chọn. Tiêu chí nhận vào là phụ nữ người Thái mang thai khỏe mạnh, từ 18 tuổi trở lên và có một thai kỳ độ tuổi từ 16 đến 25 tuần. Nghiên cứu đã được kiểm tra qua 272 phụ nữ mang thai tham gia một trong hai bệnh viện khám thai ở miền bắc Thái Lan. Mối quan hệ lý thuyết giữa thái độ, chuẩn chủ quan, nhận thức hành vi kiểm soát và ý định hoạt động thể chất. Các khái niệm quan trọng được định nghĩa như sau:
Thái độ là mức độ mà các bà mẹ mang thai đánh giá sự thuận lợi hay bất lợi
của việc thực hiện hoạt động thể chất. Đối với các bà mẹ, những người có niềm tin mạnh mẽ đối với các kết quả tích cực của việc thực hiện hoạt động thể chất (như cải thiện sức khỏe, cơng viêc nặng nhọc ít hơn và kiểm sốt trọng lượng tốt hơn), có xu hướng tham gia vào hoạt động thể chất trong thời gian mang thai của họ. Ngược lại, các bà mẹ tin rằng việc thực hiện hoạt động thể chất có thể gây hại cho cơ thể hoặc bào thai của họ, có xu hướng giảm hoặc ngừng tham gia hoạt động thể chất trong thời kỳ mang thai của họ. Do đó, những bà mẹ với một thái độ tích cực hơn đối với hoạt động thể chất có mức độ cao hơn về ý định tham gia vào hành vi hoạt động thể chất so với những bà mẹ có thái độ tiêu cực đối với hoạt động thể chất.
Chuẩn chủ quan là nhận thức của bà mẹ về những mong đợi tiêu chuẩn của
những người quan trọng đối với họ trong việc thực hiện hoạt động thể chất của họ. Họ cân nhắc liệu những cá nhân nhóm cụ thể nghĩ rằng họ nên hay không nên tham gia vào hoạt động thể chất, và họ sử dụng thông tin này để đi quyết định lựa chọn
của mình. Do vậy, những bà mẹ có thể có ý định tham gia vào hoạt động thể chất khi họ tin rằng những người ảnh hưởng quan trọng đối với họ (như chồng, mẹ, nhân viên y tế) muốn họ thực hiện hành vi này. Ngược lại, nếu các bà mẹ tin rằng những người ảnh hưởng quan trọng đối với họ không muốn họ thực hiện hoạt động thể chất, họ sẽ khơng có ý định tham gia vào hành vi này.
Kiểm soát hành vi cảm nhận được dự đoán bằng niềm tin kiểm soát. Niềm
tin kiểm soát được phát triển từ đánh giá của những bà mẹ mang thai liệu việc thực hiện hoạt động thể chất có thể là khó khăn hay dễ dàng và từ năng lực nhận thức của họ về những cơ hội hay ng̀n lực sẵn có cho việc thực hiện hành vi. Điều đó có nghĩa, một số bà mẹ tin rằng các nhân tố chắc chắn (như giới hạn thể chất, mệt mỏi và sợ làm tổn hại đến bản thân hoặc bào thai của họ) sẽ cản trở hoạt động thể chất, trong khi những bà mẹ khác tin rằng việc thực hiện hoạt động thể chất sẽ cải thiện sức khỏe của họ do đó, họ dễ dàng tham gia vào các hoạt động thể chất trong thời kỳ mang thai.
Ý định: là mức độ sẵn sàng hoặc nỗ lực mà mỗi bà mẹ sẽ bỏ ra để thực hiện
hành vi hoạt động thể chất.
Trong nghiên cứu, Supavititpatana và cộng sự (2012) đã sử dụng mơ hình giả thuyết có bảy biến, bao gờm:
a/ Các biến đo lường gián tiếp:
TBB: Niềm tin về hành vi (Gián tiếp của thái độ);
TNM: Niềm tin của các tiêu chuẩn (Gián tiếp của chuẩn chủ quan); TCP: Niềm tin điều khiển (gián tiếp của kiểm soát hành vi cảm nhận); b/ Các biến đo lường trực tiếp:
ATT: Thái độ;
SN: Chuẩn chủ quan;
PBC: Kiểm soát hành vi cảm nhận; c/ Biến phụ thuộc:
(Nguồn: Supavititpatana và cộng sự (2012).
(Nguồn: Supavititpatana và cộng sự, 2012)
Hình 2.3: Mơ hình các yếu tố tác động đến ý định hoạt động thể chất của các bà mẹ mang thai tại Thái Lan.
Kết quả nghiên cứu của Supavititpatana và cộng sự (2012) cho thấy rằng:
- Tất cả các biện pháp đo lường trực tiếp (thái độ đối với hoạt động thể chất, chuẩn chủ quan và kiểm soát hành vi cảm nhận) và tất cả các biện pháp gián tiếp (thái độ gián tiếp, chuẩn chủ quan gián tiếp, kiểm soát hành vi cảm nhận gián tiếp) các cặp tương ứng có tương quan với nhau.
- Ngoài ra, tất cả các biện pháp trực tiếp và gián tiếp có mối tương quan tích cực với ý định để thực hiện các hoạt động thể chất. Các kết quả nghiên cứu chứng minh rằng cả các biện pháp trực tiếp và các biện pháp gián tiếp có ảnh hưởng đến ý định hoạt động thể chất. Tuy nhiên, kể từ khi khơng có một liên kết trực tiếp giữa các biện pháp gián tiếp và hoạt động thể chất ý định, các biện pháp trực tiếp dường như có ảnh hưởng nhiều đến mục đích hoạt động thể chất hơn so với tất cả các biện pháp gián tiếp. Biện pháp đo lường gián tiếp ảnh hưởng trực tiếp đến các biện pháp đo lường trực tiếp đến ý định hoạt động thể chất.
- Các kết quả nghiên cứu cho thấy các phụ nữ mang thai người Thái đã có một ý định mạnh mẽ để tham gia vào các hoạt động thể chất khi họ: đánh giá nó một cách tích cực (thái độ); sự tin tưởng của những người quan trọng (ví dụ, người chờng, mẹ
ATT PBC SN INT H.1 H.2 H.5 TBB TCP TNM
Đo lường gián tiếp Đo lường trực tiếp
H.3
H.4
và bác sĩ/điều dưỡng) mong muốn cho họ tham gia vào các hành vi (chỉ tiêu chủ quan); và, cảm nhận nó được kiểm sốt của họ (đã kiểm soát hành vi cảm nhận).