Quản lý hành chính nhà nƣớc cũng là một dạng quản lý nhà nƣớc, vì vậy Quản lý Nhà nƣớc có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, quản lý nhà nƣớc mang tính quyền lực đặc biệt, tính tổ chức chặt chẽ và tính mệnh lệnh đơn phƣơng của Nhà nƣớc.
- Hoạt động Quản lý nhà nƣớc mang tính quyền lực nhà nƣớc, tính quyền lực là đặc điểm để phân biệt quản lý nhà nƣớc với các dạng quản lý xã hội khác.
- Quyền lực đặc biệt là quyền lực Nhà nƣớc, do chủ thể quản lý nhà nƣớc sử dụng chủ yếu để tác động ra bên ngoài cơ quan nhà nƣớc, mang tính bắt buộc phải thi hành. Trong trƣờng hợp cần thiết, chủ thể quản lý nhà nƣớc có thể sử dụng các biện pháp cƣỡng chế thi hành.
- Tính tổ chức chặt chẽ đƣợc thể hiện ở một số mặt sau:
Hệ thống cơ quan quản lý nhà nƣớc đƣợc tổ chức một cách thông suốt từ Trung ƣơng đến cơ sở, thể hiện tính thứ bậc hành chính chặt chẽ trong tổ chức và hoạt động của nội bộ cơ quan trong toàn bộ hệ thống.
Các cơ quan quản lý nhà nƣớc hoạt động trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo quy định của pháp luật. Nếu hoạt động không đúng phạm vi quy định là một trong những hành vi làm ảnh hƣởng tiêu cực đến tổ chức.
Trong quá trình hoạt động các cơ quan Nhà nƣớc phải đảm bảo thực hiện đúng các mối quan hệ: trên, dƣới, ngang, dọc theo quy định của pháp luật.
Cơ quan nhà nƣớc hoạt động theo quy chế, dựa vào quy chế mẫu của Chính phủ.
- Tính mệnh lệnh đơn phƣơng đƣợc thể hiện:
Tính mệnh lệnh đơn phƣơng xuất phát từ đặc trƣng quan hệ giữa chủ thể và khách thể quản lý nhà nƣớc: “quyền năng - phục tùng”. Đặc trƣng này thể hiện sự không bình đẳng giữa chủ thể và khách thể quản lý hành chính nhà nƣớc. Sự không bình đẳng đƣợc thể hiện:
Chủ thể quản lý nhà nƣớc đơn phƣơng ban hành các mệnh lệnh cá biệt đặt ra các quy định bắt buộc đối với bên kia, buộc bên kia phải phục tùng, đồng thời kiểm tra việc thực hiện các mệnh lệnh, quy định ấy.
Căn cứ vào quy định của pháp luật để đáp ứng hoặc bác bỏ yêu cầu, kiến nghị khách thể quản lý. Trong trƣờng hợp này quyền quyết định vẫn thuộc về ý chí của ngƣời hoặc cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền. Vì vậy, nếu có sự trùng hợp về ý chí của hai bên thì đó cũng không phải là sự thỏa thuận ý chí.
Chủ thể quản lý nhà nƣớc có thể áp dụng các biện pháp cƣỡng chế hành chính.
Trƣớc khi ban hành các quyết định quản lý nhà nƣớc có liên quan trực tiếp đến lợi ích hợp pháp của khách thể quản lý nhà nƣớc, chủ thể ban hành phải tham khảo ý kiến của khách thể. Tham khảo ý kiến không phải là sự thỏa thuận ý chí.
Thứ hai, quản lý nhà nƣớc có mục tiêu chiến lƣợc, có chƣơng trình, kế hoạch để thực hiện mục tiêu.
Mục tiêu là cái đích mà chủ thể cần phải đạt đƣợc ở một thời điểm nhất định, mục tiêu là chức năng cơ bản đầu tiên, là căn cứ để chủ thể đƣa ra các hình thức và phƣơng pháp quản lý thích hợp. Mục tiêu của quản lý nhà nƣớc là mục tiêu tổng hợp bao gồm: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, ngoại giao. Tùy thuộc vào phạm vi quản lý nhà nƣớc của các chủ thể mà xác định mục tiêu cụ thể nhằm thực hiện mục tiêu chung của nhà nƣớc. Mục tiêu đƣợc xác định phải mang tính khách quan, khoa học, khả thi. Để thực hiện mục tiêu cần phải vạch rõ lộ trình, chƣơng trình, kế hoạch cụ thể, sát với thực trạng kinh tế - xã hội, hợp với đối tƣợng quản lý.
Thứ ba, quản lý nhà nƣớc có tính chủ động, sáng tạo, linh hoạt trong điều hành, phối hợp hoạt động, phát huy sức mạnh tổng hợp để tổ chức và phát triển các lĩnh vực của đời sống xã hội, của cuộc sống con ngƣời trong phạm vi quản lý đƣợc phân cấp, phân công theo đúng thẩm quyền, theo đúng nguyên tắc tập trung dân chủ.
Chủ động trong quản lý nhà nƣớc là việc chủ thể luôn luôn ở trong trạng thái làm chủ đƣợc hoạt động của mình, không để các tình thế khác chi phối.
Sáng tạo là việc chủ thể có những ý tƣởng, tƣ duy mới, phƣơng pháp làm việc mới với năng suất, chất lƣợng, hiệu quả cao hơn, tốt hơn so với tƣ duy, phƣơng pháp cũ.
Linh hoạt là việc của chủ thể quản lý nhà nƣớc ban hành quyết định hành chính, thực hiện hành vi hành chính, xử lý tình huống hành chính nhanh nhạy, phù hợp thực tế, nhƣng không trái với quy định của pháp luật.
Thứ tƣ, quản lý nhà nƣớc có tính liên tục và tƣơng đối ổn định trong tổ chức và hoạt động.
Tính liên tục trong quản lý nhà nƣớc xuất phát từ hoạt động liên tục của khách thể quản lý hành chính nhà nƣớc, xuất phát từ quy trình quản lý nhà nƣớc nói chung và quy trình ban hành, tổ chức thực hiện kiểm tra việc thực hiện quyết định quản lý hành chính nhà nƣớc nói riêng.
Tính liên tục cần phải bảo đảm tính kế thừa về nguồn nhân lực và trách nhiệm pháp lý, đạo lý trong quản lý nhà nƣớc.
Tính tƣơng đối trong quản lý nhà nƣớc trƣớc hết phải ổn định về tổ chức bộ máy và nhân sự, về chủ trƣơng, chính sách… không nên thay đổi liên tục, làm xáo trộn, rối loạn trong quản lý. Vì vậy, chủ thể quản lý nhà nƣớc phải bình tĩnh, sáng suốt, thận trọng khi đƣa ra các quyết định có liên quan đến tính ổn định về tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ quan nhà nƣớc.
Thứ năm, quản lý nhà nƣớc có tính chuyên môn hóa và nghề nghiệp.
Tính chuyên môn hóa trong quản lý nhà nƣớc xuất phát từ phân công lao động quản lý nhà nƣớc. Mỗi bộ phận trong cơ quan, mỗi cán bộ công chức trong từng bộ phận đƣợc phân công đảm nhiệm những nhiệm vụ cụ thể phù hợp với chuyên môn mà cán bộ công chức ấy đào tạo. Quản lý nhà nƣớc là một nghề mang tính tổng hợp, phức tạp, sáng tạo. Vì vậy, cán bộ công chức làm công tác quản lý hành chính nhà nƣớc chẳng những có kiến thức chuyên môn sâu mà còn phải có kiến thức sâu rộng trên nhiều lĩnh vực.
1.3. Hiệu quả quản lý nhà nƣớc của Ngân hàng Nhà nƣớc đối với hoạt động của Quỹ tín dụng nhân dân
Cũng nhƣ hoạt động quản lý nhà nƣớc nói chung, hoạt động quản lý Nhà nƣớc đối với QTDND là một quá trình tác động liên tục, có định hƣớng, có tổ chức của Ngân hàng Nhà nƣớc tới các hoạt động tiền tệ và ngân hàng của các QTDND để
đạt đƣợc mục tiêu cuối cùng là ổn định tiền tệ, góp phần tăng trƣởng kinh tế và giải quyết việc làm.
Trong mối quan hệ này, chủ thể quản lý là Ngân hàng Nhà nƣớc, với vai trò là Ngân hàng Trung ƣơng và là cơ quan ngang Bộ của Chính phủ, có thể tác động tới đối tƣợng bị quản lý thông qua những kế hoạch, chƣơng trình, chính sách, biện pháp và những quyết định hành chính khác, nhƣ sau:
- Về chủ thể quản lý (NHNN)
Ngân hàng Nhà nƣớc có trách nhiệm và quyền hạn chủ chốt trong việc quản lý, giám sát hoạt động của các Quỹ tín dụng nhân dân với mục tiêu góp phần bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh, bền vững của hệ thống QTDND; duy trì và nâng cao lòng tin của công chúng đối với hệ thống các QTDND; bảo đảm việc chấp hành chính sách, pháp luật về tiền tệ và ngân hàng.
- Về cơ chế (cơ chế quản lý đối với đơn vị kinh tế tập thể)
Nhà nƣớc thống nhất quản lý hoạt động của QTDND, xây dựng hệ thống QTDND đủ sức đáp ứng nhu cầu vốn và dịch vụ cho các thành viên của QTDND, góp phần thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, bảo đảm an toàn hệ thống QTDND, bảo vệ lợi ích hợp pháp của ngƣời gửi tiền.
Nhà nƣớc bảo hộ quyền sở hữu, quyền và lợi ích hợp pháp khác trong hoạt động của QTDND nhằm tạo điều kiện cho các thành viên tƣơng trợ nhau trong sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và cải thiện đời sống.
Nói chung, Nhà nƣớc quản lý QTDND thông qua một cơ chế chặt chẽ, cơ chế đó đƣợc tạo thành bởi các yếu tố nhƣ: hệ thống các nguyên tắc quản lý; hệ thống các công cụ quản lý.
- Về môi trƣờng hoạt động
Đối với từng loại hình doanh nghiệp thì không có cái khó khăn của đơn vị nào giống với đơn vị nào, nhƣng trong một lĩnh vực hoạt động nào đó nó có những khó khăn cũng gần tƣơng tự nhau. Cụ thể trong lĩnh vực tín dụng ngân hàng thì đó
là các khó khăn về huy động vốn, lãi suất, chất lƣợng tín dụng suy giảm, khả năng thanh khoản. Đối với QTDND, là một đơn vị thuộc thành phần kinh tế tập thể, hợp tác xã, hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng thì chắc chắn các khó khăn trên cũng không thể tránh khỏi. Cùng hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng, nhƣng so với các ngân hàng thƣơng mại thì QTDND có quy mô nhỏ hơn nhiều, trong đó điểm khác nhau cơ bản là đơn vị chỉ hoạt động trong một địa bàn nhất định và hoạt động có tính chất trong nội bộ thành viên mà thôi.
Do hoạt động trong một môi trƣờng cùng là thành viên với nhau nên những ngƣời có vốn lúc chƣa sử dụng thì gửi vào Quỹ tín dụng với hình thức tiền gửi tiết kiệm hoặc góp vốn cổ phần và những thành viên cần vốn cho sản xuất kinh doanh hoặc tiêu dùng thì vay lại với lãi suất hợp lý để đầu tƣ phát triển tránh các trƣờng hợp phải vay tín dụng đen. Nhƣ vậy Quỹ đã thể hiện đƣợc vai trò sự kết nối giữa các thành viên trong cộng đồng. Chính điều này làm cho hoạt động của Quỹ luôn ổn định, trừ những lúc có biến động lớn nhƣ lãi suất tăng nhanh, biến động thị trƣờng vàng làm cho nhu cầu vốn tại thời điểm tăng, Quỹ mới vay lại NHHTX để đáp ứng nhu cầu vốn của thành viên và khi ổn định thì Quỹ hoàn trả lại, thậm chí hiện nay Quỹ còn gửi vốn lại NHHTX.
- Nội dung quản lý nhà nƣớc của Ngân hàng Nhà nƣớc đối với Quỹ tín dụng nhân dân
Về mặt quản lý Nhà nƣớc, Quốc hội đã ban hành Luật Các TCTD, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 48/2001/NĐ-CP ngày 13/08/2001 “Về tổ chức và hoạt động của Quỹ tín dụng nhân dân” và Nghị định số 69/2005/NĐ-CP ngày 26/5/2005 sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định 48/2001/NĐ-CP. Căn cứ vào Quyết định số 1692/QĐ-NHNN ngày 08/8/2017 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nƣớc quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nƣớc chi nhánh tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ƣơng thì NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố là cơ quan thực hiện chức năng QLNN về chuyên môn, nghiệp vụ
đối với các QTDND trên địa bàn tỉnh, nội dung của quản lý nhà nƣớc Ngân hàng Nhà nƣớc đối với hệ thống QTDND cụ thể nhƣ sau:
Thứ nhất, NHNN chịu trách nhiệm trƣớc Chính phủ thực hiện việc quản lý nhà nƣớc về tổ chức, hoạt động của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nƣớc ngoài. Nhƣ vậy, NHNN là cơ quan quản lý về mặt Nhà nƣớc đối với các TCTD nói chung và hoạt động của QTDND nói riêng, đó là quá trình tác động liên tục, có định hƣớng, có tổ chức của NHNN lên các hoạt động của QTDND, nhằm mục tiêu cuối cùng là tạo sự ổn định, an toàn, hiệu quả trong hoạt động.
NHNN là cơ quan duy nhất thực hiện chức năng quản lý nhà nƣớc đối với các QTDND, mà hiện nay chức năng này do Cơ quan thanh tra, giám sát Ngân hàng đảm nhận và hệ thống ngành dọc gồm 63 NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ƣơng.
Thứ hai, nghiên cứu, xây dựng mục tiêu chiến lƣợc, quy hoạch, kế hoạch định hƣớng phát triển Quỹ tín dụng nhân dân trong phạm vi cả nƣớc; chỉ đạo và hƣớng dẫn các Quỹ tín dụng nhân dân thực hiện.
Thứ ba, xây dựng, ban hành và hƣớng dẫn việc thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về tổ chức và hoạt động của QTDND.
Đối với ngành Ngân hàng luôn có cơ chế, chính sách và hƣớng dẫn riêng rất cụ thể phù hợp với quy mô hoạt động và từng giai đoạn phát triển của hệ thống QTDND. Trên cơ sở các quy định của Luật Các Tổ chức tín dụng, và qua nghiên cứu, tham khảo các chuẩn mực và thông lệ quốc tế tốt nhất về quản trị, giám sát ngân hàng, NHNN Việt Nam đã xây dựng và trình Chính phủ ban hành Nghị định số 141/2006/NĐ-CP ngày 22/11/2006 về ban hành danh mục vốn pháp định của các Tổ chức tín dụng, trong đó có quy định vốn pháp định đối với hệ thống QTDND; Nghị định số 48/2001/NĐ-CP, Nghị định 69/2005/NĐ-CP quy định về "Tổ chức và hoạt động của Quỹ tín dụng nhân dân". Đồng thời NHNN cũng đã ban hành các văn bản hƣớng dẫn nhƣ Thông tƣ số 04/2015/TT-NHNN ngày 31/3/2015 quy định về Quỹ tín dụng nhân dân, Thông tƣ số 23/2018/TT-NHNN ngày 14/9/2018 quy định
về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân; Thông tƣ số 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nƣớc ngoài đối với khách hàng; Thông tƣ số 32/2015/TT-NHNN ngày 31/12/2015 quy định các giới hạn, tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của quỹ tín dụng nhân dân... Cho đến nay, trong lĩnh vực Ngân hàng, về cơ bản Quỹ tín dụng nhân dân đã đƣợc bình đẳng trong hoạt động và chấp hành pháp luật nhƣ các ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác.
Bên cạnh đó, công tác phổ biến, triển khai văn bản cũng đƣợc NHNN hết sức quan tâm. Thực hiện nhiệm vụ đƣợc giao, các NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố chịu trách nhiệm tổ chức phổ biến và kiểm tra việc thực hiện văn bản quy phạm pháp luật tại các tỉnh, thành phố trực thuộc. Thông qua nhiều hình thức nhƣ sao chụp văn bản, tổ chức hội nghị, tập huấn, truyền tin… Hệ thống văn bản pháp luật của ngành, của nhà nƣớc đã đƣợc truyền tải một cách rõ ràng và đầy đủ tới các QTDND trong cả nƣớc, qua đó giúp cán bộ tại các QTDND hiểu và nâng cao có ý thức chấp hành pháp luật, đƣa hoạt động của quỹ đi đúng hành lang pháp lý, hoạt động an toàn, lành mạnh và hiệu quả. Đồng thời, NHNN Chi nhánh cũng là đơn vị làm đầu mối tham mƣu cho UBND tỉnh, thành phố xây dựng, ban hành các văn bản về hoạt động của QTDND.
Thứ tƣ, cấp, thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động của Quỹ tín dụng nhân dân.
Theo quy định tại Điều 4 Thông tƣ số 04/2015/TT-NHNN ngày 31/3/2015 đã quy định rõ vai trò quản lý Nhà nƣớc đối với các Quỹ tín dụng nhân dân. Theo đó, Thống đốc NHNN Việt Nam ủy quyền cho Giám đốc NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ƣơng ra quyết định cấp, thu hồi giấy phép và chấp thuận việc mở, chấm dứt hoạt động phòng giao dịch, điểm giao dịch và việc chia, tách, hợp nhất, sáp nhập của các Quỹ tín dụng nhân dân trên địa bàn tỉnh, thành phố.
Thực hiện chức năng, nhiệm vụ đƣợc giao, công tác cấp giấy phép luôn đƣợc tiến hành thận trọng. Theo đó, chỉ tiến hành cấp giấy phép sau khi đã xác minh
những điều kiện về năng lực, trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ lãnh đạo quỹ, năng lực tài chính cũng nhƣ điều kiện phù hợp với thực tế tại địa bàn. Trong đó, đặc