Các hoạt động chủ yếu của Quỹ tín dụng nhân dân

Một phần của tài liệu (LUẬN văn THẠC sĩ) hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước đối với hoạt động của quỹ tín dụng nhân dân trên địa bàn tỉnh bình thuận (Trang 25)

Đến thời điểm hiện nay, thực hiện Luật Các TCTD, các QTDND đã có khá nhiều các hoạt động nghiệp vụ trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, ngân hàng. Cụ thể các hoạt động nghiệp vụ này đƣợc quy định tại Điều 118, Luật các TCTD năm 2010, bao gồm:

- Huy động góp vốn điều lệ: để thành lập QTDND, các thành viên QTDND phải tham gia góp vốn, đảm bảo tổng mức vốn góp phải cao hơn hoặc bằng vốn pháp định. Tùy theo khả năng, từng thành viên mà có mức vốn góp ban đầu khác nhau nhƣng không đƣợc thấp hơn mức vốn tối thiểu hoặc cao hơn mức tối đa do Điều lệ QTDND quy định phù hợp với quy định của pháp luật. Ngoài ra, để đáp ứng nhu cầu phát triển Quỹ và tăng cƣờng ý thức, trách nhiệm thành viên trong việc xây dựng Quỹ, ngồi vốn góp ban đầu, hàng năm các thành viên bổ sung mức vốn góp nhất định theo quy định tại Thơng tƣ số 04/2015/TT-NHNN.

- Huy động vốn của thành viên và các cá nhân khác dƣới hình thức nhận tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm. Cũng giống nhƣ các NHTM, điểm khác biệt cơ bản so với các loại hình doanh nghiệp khác là nguồn vốn hoạt động của QTDND dựa vào nguồn huy động tiền gửi của khách hàng là chủ yếu, thƣờng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn hoạt động của Quỹ. Để huy động đƣợc nguồn tiền nhàn rỗi, nhất là nguồn vốn của thành viên với cơ cấu kỳ hạn hợp lý trong môi trƣờng cạnh tranh, bên cạnh việc đẩy mạnh công tác tuyên truyền vận động, tạo điều kiện thuận lợi trong giao dịch, sử dụng công cụ lãi suất linh hoạt, các QTDND cũng phải sử dụng các hình thức huy động khác nhau để đáp ứng nhu cầu của ngƣời gửi tiền nhƣ: (i) huy động tiền gửi không kỳ hạn; (ii) huy động tiền

gửi có kỳ hạn; (iii) huy động tiền gửi tiết kiệm của dân cƣ: đây là nguồn thƣờng chiếm tỷ trọng lớn trong hoạt động huy động vốn của QTDND; (iv) Huy động vốn dƣới hình thức vay vốn từ tổ chức liên kết của mình để mở rộng tín dụng, đáp ứng nhu cầu vốn của thành viên hoặc khi gặp khó khăn về an tồn chi trả, trong đó: NHHTX là một tổ chức liên kết của các QTDND, có chức năng điều hịa vốn giữa các QTDND với nhau, từ nơi thừa đến nơi thiếu; Quỹ an toàn chi trả cho vay khi QTDND gặp khó khăn về tài chính do mất an tồn chi trả; và trong trƣờng hợp đặc biệt, QTDND đƣợc vay từ nguồn vốn vay đặc biệt của NHNN. Ngồi ra, QTDND có thể tiếp nhận vốn ủy thác cho vay của chính phủ, tổ chức, cá nhân trong và ngồi nƣớc.

- Hoạt động tín dụng: cũng giống nhƣ các NHTM khác, việc huy động vốn là nhằm mục đích để tạo nguồn vốn cho vay và thực hiện các dịch vụ ngân hàng khác. Để có cơ sở thu hồi nợ và đem lại lợi ích cho thành viên, bằng các biện pháp nghiệp vụ của mình, QTDND xem xét cho vay - chuyển tải đến các thành viên biết cách sử dụng vốn một cách có hiệu quả. Khi đó, QTDND đã chuyển giao cho thành viên, khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian thỏa thuận nhất định với nguyên tắc hoàn trả gốc và lãi. Tùy theo nhu cầu ngƣời vay và khả năng nguồn vốn, QTDND đáp ứng với quy mô, thời hạn và cách thức khác nhau. Việc ấn định thời hạn trả nợ của một món vay cụ thể của QTDND đƣợc ấn định trên cơ sở chu kỳ sản xuất kinh doanh và khả năng trả nợ bằng nguồn thu nhập khác nếu có của thành viên. Quỹ có thể cho vay ngắn, trung hoặc dài hạn với mức lãi suất theo nguyên tắc thời hạn vay càng dài, lãi suất cho vay càng cao.

Do hoạt động tín dụng ln hàm chứa nhiều loại rủi ro, hồ sơ đơn giản và mang tính phức tạp, khi xem xét quyết định cho vay, ngoài việc tuân thủ các quy định về bảo đảm an toàn trong hoạt động mà pháp luật quy định và áp dụng các biện pháp phân tán, chia sẻ rủi ro, QTDND thƣờng lấy tiêu chí hiệu quả và tính khả thi của phƣơng án sản xuất kinh doanh của ngƣời vay vốn để quyết định. Đồng thời, để nâng cao trách nhiệm ngƣời sử dụng vốn vay cũng nhƣ có cơ sở xử lý thu hồi nợ

vay khi rủi ro xảy ra, thông thƣờng các QTDND cũng quan tâm đến việc áp dụng các biện pháp bảo đảm tiền vay nhƣ thế chấp, cầm cố, bảo lãnh…

- Các hoạt động khác: bên cạnh các hoạt động trên, QTDND còn đƣợc thực hiện các dịch vụ về thanh toán và ngân quỹ, các nghiệp vụ thu hộ, chi hộ cho các thành viên; chuyển tiền; đầu tƣ góp vốn thành lập các tổ chức liên kết khác trong hệ thống QTDND; cung ứng dịch vụ tƣ vấn về tài chính, ngân hàng cho thành viên; nhận ủy thác và làm đại lý một số lĩnh vực liên quan đến hoạt động ngân hàng theo quy định của pháp luật.

1.2. Cơ sở về quản lý nhà nƣớc của Ngân hàng Nhà nƣớc đối với hoạt động của Quỹ tín dụng nhân dân

1.2.1. Khái niệm về quản lý nhà nƣớc

Quản lý trong xã hội nói chung là quá trình điều hành các hoạt động nhằm tác động một cách có tổ chức và định hƣớng của chủ thể quản lý vào một đối tƣợng nhất định để điều chỉnh các quá trình xã hội và hành vi của con ngƣời, nhằm duy trì tính ổn định và phát triển của đối tƣợng theo những mục tiêu đã định.

Quản lý nhà nƣớc là một dạng quản lý xã hội đặc biệt, mang tính quyền lực nhà nƣớc và sử dụng pháp luật nhà nƣớc để điều chỉnh hành vi hoạt động của con ngƣời trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội do các cơ quan trong bộ máy nhà nƣớc thực hiện, nhằm thỏa mãn nhu cầu hợp pháp của con ngƣời, duy trì sự ổn định và phát triển của xã hội. Trong hoạt động quản lý nhà nƣớc, vấn đề kết hợp các yếu tố của hoạt động quản lý là rất phức tạp, địi hỏi các nhà quản lý phải có năng lực cao với sự hỗ trợ của các phƣơng tiện công nghệ hiện đại.

Khái niệm quản lý nhà nƣớc theo nghĩa rộng: là hoạt động tổ chức, điều hành của cả bộ máy nhà nƣớc, nghĩa là bao hàm cả sự tác động, tổ chức của quyền lực nhà nƣớc trên các phƣơng diện lập pháp hành pháp và tƣ pháp.

Theo nghĩa hẹp, quản lý nhà nƣớc chủ yếu là quá trình tổ chức, điều hành của hệ thống cơ quan hành chính nhà nƣớc đối với các q trình xã hội và hành vi

hoạt động của con ngƣời theo pháp luật nhằm đạt đƣợc những mục tiêu yêu cầu nhiệm vụ quản lý nhà nƣớc. Đồng thời, các cơ quan nhà nƣớc nói chung cịn thực hiện các hoạt động có tính chất chấp hành, điều hành, tính chất hành chính nhà nƣớc nhằm xây dựng tổ chức bộ máy và củng cố chế độ cơng tác nội bộ của mình. Chẳng hạn ra quyết định thành lập, chia tách, sát nhập các đơn vị tổ chức thuộc bộ máy của mình; đề bạt, khen thƣởng, kỷ luật cán bộ, công chức, ban hành quy chế làm việc nội bộ...

Cũng nhƣ hoạt động quản lý nhà nƣớc nói chung, hoạt động quản lý Nhà nƣớc đối với Quỹ tín dụng nhân dân là một quá trình tác động liên tục, có định hƣớng, có tổ chức của Ngân hàng Nhà nƣớc tới các hoạt động tiền tệ và ngân hàng của các QTDND để đạt đƣợc mục tiêu cuối cùng là ổn định tiền tệ, góp phần tăng trƣởng kinh tế và giải quyết việc làm.

Trong mối quan hệ này, chủ thể quản lý là Ngân hàng Nhà nƣớc, với vai trò là Ngân hàng trung ƣơng và cơ quan thuộc Chính phủ, có thể tác động tới đối tƣợng bị quản lý thơng qua những kế hoạch, chƣơng trình, chính sách, biện pháp và những quyết định hành chính khác.

1.2.2. Đặc điểm của quản lý nhà nƣớc

Quản lý hành chính nhà nƣớc cũng là một dạng quản lý nhà nƣớc, vì vậy Quản lý Nhà nƣớc có những đặc điểm sau:

Thứ nhất, quản lý nhà nƣớc mang tính quyền lực đặc biệt, tính tổ chức chặt chẽ và tính mệnh lệnh đơn phƣơng của Nhà nƣớc.

- Hoạt động Quản lý nhà nƣớc mang tính quyền lực nhà nƣớc, tính quyền lực là đặc điểm để phân biệt quản lý nhà nƣớc với các dạng quản lý xã hội khác.

- Quyền lực đặc biệt là quyền lực Nhà nƣớc, do chủ thể quản lý nhà nƣớc sử dụng chủ yếu để tác động ra bên ngồi cơ quan nhà nƣớc, mang tính bắt buộc phải thi hành. Trong trƣờng hợp cần thiết, chủ thể quản lý nhà nƣớc có thể sử dụng các biện pháp cƣỡng chế thi hành.

- Tính tổ chức chặt chẽ đƣợc thể hiện ở một số mặt sau:

Hệ thống cơ quan quản lý nhà nƣớc đƣợc tổ chức một cách thông suốt từ Trung ƣơng đến cơ sở, thể hiện tính thứ bậc hành chính chặt chẽ trong tổ chức và hoạt động của nội bộ cơ quan trong toàn bộ hệ thống.

Các cơ quan quản lý nhà nƣớc hoạt động trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo quy định của pháp luật. Nếu hoạt động không đúng phạm vi quy định là một trong những hành vi làm ảnh hƣởng tiêu cực đến tổ chức.

Trong quá trình hoạt động các cơ quan Nhà nƣớc phải đảm bảo thực hiện đúng các mối quan hệ: trên, dƣới, ngang, dọc theo quy định của pháp luật.

Cơ quan nhà nƣớc hoạt động theo quy chế, dựa vào quy chế mẫu của Chính phủ.

- Tính mệnh lệnh đơn phƣơng đƣợc thể hiện:

Tính mệnh lệnh đơn phƣơng xuất phát từ đặc trƣng quan hệ giữa chủ thể và khách thể quản lý nhà nƣớc: “quyền năng - phục tùng”. Đặc trƣng này thể hiện sự khơng bình đẳng giữa chủ thể và khách thể quản lý hành chính nhà nƣớc. Sự khơng bình đẳng đƣợc thể hiện:

Chủ thể quản lý nhà nƣớc đơn phƣơng ban hành các mệnh lệnh cá biệt đặt ra các quy định bắt buộc đối với bên kia, buộc bên kia phải phục tùng, đồng thời kiểm tra việc thực hiện các mệnh lệnh, quy định ấy.

Căn cứ vào quy định của pháp luật để đáp ứng hoặc bác bỏ yêu cầu, kiến nghị khách thể quản lý. Trong trƣờng hợp này quyền quyết định vẫn thuộc về ý chí của ngƣời hoặc cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền. Vì vậy, nếu có sự trùng hợp về ý chí của hai bên thì đó cũng khơng phải là sự thỏa thuận ý chí.

Chủ thể quản lý nhà nƣớc có thể áp dụng các biện pháp cƣỡng chế hành chính.

Trƣớc khi ban hành các quyết định quản lý nhà nƣớc có liên quan trực tiếp đến lợi ích hợp pháp của khách thể quản lý nhà nƣớc, chủ thể ban hành phải tham khảo ý kiến của khách thể. Tham khảo ý kiến khơng phải là sự thỏa thuận ý chí.

Thứ hai, quản lý nhà nƣớc có mục tiêu chiến lƣợc, có chƣơng trình, kế hoạch để thực hiện mục tiêu.

Mục tiêu là cái đích mà chủ thể cần phải đạt đƣợc ở một thời điểm nhất định, mục tiêu là chức năng cơ bản đầu tiên, là căn cứ để chủ thể đƣa ra các hình thức và phƣơng pháp quản lý thích hợp. Mục tiêu của quản lý nhà nƣớc là mục tiêu tổng hợp bao gồm: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phịng, an ninh, ngoại giao. Tùy thuộc vào phạm vi quản lý nhà nƣớc của các chủ thể mà xác định mục tiêu cụ thể nhằm thực hiện mục tiêu chung của nhà nƣớc. Mục tiêu đƣợc xác định phải mang tính khách quan, khoa học, khả thi. Để thực hiện mục tiêu cần phải vạch rõ lộ trình, chƣơng trình, kế hoạch cụ thể, sát với thực trạng kinh tế - xã hội, hợp với đối tƣợng quản lý.

Thứ ba, quản lý nhà nƣớc có tính chủ động, sáng tạo, linh hoạt trong điều hành, phối hợp hoạt động, phát huy sức mạnh tổng hợp để tổ chức và phát triển các lĩnh vực của đời sống xã hội, của cuộc sống con ngƣời trong phạm vi quản lý đƣợc phân cấp, phân công theo đúng thẩm quyền, theo đúng nguyên tắc tập trung dân chủ.

Chủ động trong quản lý nhà nƣớc là việc chủ thể luôn luôn ở trong trạng thái làm chủ đƣợc hoạt động của mình, khơng để các tình thế khác chi phối.

Sáng tạo là việc chủ thể có những ý tƣởng, tƣ duy mới, phƣơng pháp làm việc mới với năng suất, chất lƣợng, hiệu quả cao hơn, tốt hơn so với tƣ duy, phƣơng pháp cũ.

Linh hoạt là việc của chủ thể quản lý nhà nƣớc ban hành quyết định hành chính, thực hiện hành vi hành chính, xử lý tình huống hành chính nhanh nhạy, phù hợp thực tế, nhƣng khơng trái với quy định của pháp luật.

Thứ tƣ, quản lý nhà nƣớc có tính liên tục và tƣơng đối ổn định trong tổ chức và hoạt động.

Tính liên tục trong quản lý nhà nƣớc xuất phát từ hoạt động liên tục của khách thể quản lý hành chính nhà nƣớc, xuất phát từ quy trình quản lý nhà nƣớc nói chung và quy trình ban hành, tổ chức thực hiện kiểm tra việc thực hiện quyết định quản lý hành chính nhà nƣớc nói riêng.

Tính liên tục cần phải bảo đảm tính kế thừa về nguồn nhân lực và trách nhiệm pháp lý, đạo lý trong quản lý nhà nƣớc.

Tính tƣơng đối trong quản lý nhà nƣớc trƣớc hết phải ổn định về tổ chức bộ máy và nhân sự, về chủ trƣơng, chính sách… khơng nên thay đổi liên tục, làm xáo trộn, rối loạn trong quản lý. Vì vậy, chủ thể quản lý nhà nƣớc phải bình tĩnh, sáng suốt, thận trọng khi đƣa ra các quyết định có liên quan đến tính ổn định về tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ quan nhà nƣớc.

Thứ năm, quản lý nhà nƣớc có tính chun mơn hóa và nghề nghiệp.

Tính chun mơn hóa trong quản lý nhà nƣớc xuất phát từ phân công lao động quản lý nhà nƣớc. Mỗi bộ phận trong cơ quan, mỗi cán bộ công chức trong từng bộ phận đƣợc phân công đảm nhiệm những nhiệm vụ cụ thể phù hợp với chuyên môn mà cán bộ công chức ấy đào tạo. Quản lý nhà nƣớc là một nghề mang tính tổng hợp, phức tạp, sáng tạo. Vì vậy, cán bộ công chức làm công tác quản lý hành chính nhà nƣớc chẳng những có kiến thức chun mơn sâu mà cịn phải có kiến thức sâu rộng trên nhiều lĩnh vực.

1.3. Hiệu quả quản lý nhà nƣớc của Ngân hàng Nhà nƣớc đối với hoạt động của Quỹ tín dụng nhân dân

Cũng nhƣ hoạt động quản lý nhà nƣớc nói chung, hoạt động quản lý Nhà nƣớc đối với QTDND là một quá trình tác động liên tục, có định hƣớng, có tổ chức của Ngân hàng Nhà nƣớc tới các hoạt động tiền tệ và ngân hàng của các QTDND để

đạt đƣợc mục tiêu cuối cùng là ổn định tiền tệ, góp phần tăng trƣởng kinh tế và giải quyết việc làm.

Trong mối quan hệ này, chủ thể quản lý là Ngân hàng Nhà nƣớc, với vai trò là Ngân hàng Trung ƣơng và là cơ quan ngang Bộ của Chính phủ, có thể tác động tới đối tƣợng bị quản lý thông qua những kế hoạch, chƣơng trình, chính sách, biện pháp và những quyết định hành chính khác, nhƣ sau:

- Về chủ thể quản lý (NHNN)

Ngân hàng Nhà nƣớc có trách nhiệm và quyền hạn chủ chốt trong việc quản lý, giám sát hoạt động của các Quỹ tín dụng nhân dân với mục tiêu góp phần bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh, bền vững của hệ thống QTDND; duy trì và nâng cao lịng tin của công chúng đối với hệ thống các QTDND; bảo đảm việc chấp hành chính sách, pháp luật về tiền tệ và ngân hàng.

- Về cơ chế (cơ chế quản lý đối với đơn vị kinh tế tập thể)

Nhà nƣớc thống nhất quản lý hoạt động của QTDND, xây dựng hệ thống QTDND đủ sức đáp ứng nhu cầu vốn và dịch vụ cho các thành viên của QTDND, góp phần thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, bảo đảm an toàn hệ thống QTDND,

Một phần của tài liệu (LUẬN văn THẠC sĩ) hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước đối với hoạt động của quỹ tín dụng nhân dân trên địa bàn tỉnh bình thuận (Trang 25)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(103 trang)