Ngôn ngữ tả thực hình tượng nhân vật Nguyễn Ái Quốc Hồ Chí Minh

Một phần của tài liệu (LUẬN văn THẠC sĩ) hình tượng nguyễn ái quốc hồ chí minh trong tiểu thuyết trông vời cố quốc của hoàng quảng uyên (Trang 83 - 91)

7. Bố cục của luận văn

3.2. Ngôn ngữ nghệ thuật trong xây dựng hình tượng Nguyễn Ái Quốc Hồ

3.2.1. Ngôn ngữ tả thực hình tượng nhân vật Nguyễn Ái Quốc Hồ Chí Minh

Hồ Chí Minh là chiến sỹ cách mạng vĩ đại, là nhà chính trị xuất sắc nhưng bên cạnh con người tài ba đó, Hồ Chí Minh cũng là con người bình thường như bao con người khác. Khi miêu tả con người đời thường của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh, nhà văn Hoàng Quảng Uyên dùng ngôn ngữ tả thực để xây dựng hình tượng nhân vật. Trong Trông vời cố quốc, ngôn ngữ tả thực chiếm một

dung lượng rất lớn.

Đây là cảm giác của Nguyễn Tất Thành lần đầu đi thăm Sài Gòn và được ăn kem “Một hôm, Tư Lê, người bạn sống ở Xóm Cầu Rạch Bầu rủ anh đi thăm thú Sài Gòn. Lạ lẫm và choáng ngợp trước những ngôi nhà cao tầng, những dẫy nhà dài, những tiệm cà phê có đèn điện sáng trưng, những nhà chớp bóng, những cỗ xe và máy nước…và cả kem nữa, lần đầu tiên Tất Thành được người bạn mời ăn kem, một cảm giác mát lạnh chạy khắp cơ thể giữa trưa nắng Sài Gòn…” [65, tr. 13]. Qua chi tiết này, người thanh niên Nguyễn Tất Thành hiện lên gần gũi, bình dị như bao người khác khi lần đầu tiên được tiếp xúc với “thế giới văn minh”.

Khi xây dựng hình tượng nhân vật bằng ngôn ngữ tả thực, Hoàng Quảng Uyên đã phải tìm rất nhiều tư liệu lịch sử liên quan đến Nguyễn Ái Quốc Hồ

Chí Minh trong giai đoạn 1911 đến 1941, nhất là qua các bài viết, hồi ký của những người được gặp, hoạt động với Nguyễn Ái Quốc thời kỳ này. Trong tiểu thuyết Trông vời cố quốc, có nhiều đoạn tác giả gần như “sao chép” nguyên

văn từ những bài viết của những người đã hoạt động với Bác kể về kỉ niệm với Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh trong thời gian từ 1911 đến 1941.

Trước hết, đó là những chi tiết tả thực ngoại hình nhân vật Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh, trong cuốn Hồ Chí Minh – Sự hội tụ tinh hoa tư tưởng

đạo đức nhân loại (xuất bản 2007) trích đăng bài viết bác sĩ Ca-Mi la ri be

(sinh năm 1895, tham gia hoạt động cách mạng ở Pháp sau chiến tranh thế giới thứ nhất, cựu nghị sỹ và ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản An –giê- ri) Phát

hành báo “Người cùng khổ” có đoạn miêu tả ngoại hình Nguyễn Ái Quốc “Tôi

hoạt động cách mạng ở vùng Pari dưới bí danh là La ri… một hôm Lô dơ ray, phụ trách Ban Thuộc địa giao tôi công tác thường xuyên giúp đỡ một đồng chí người Việt Nam là Nguyễn Ái Quốc và phát hành báo “Người cùng khổ”… Tôi còn nhớ rất rõ hình dáng đồng chí Nguyễn Ái Quốc lúc bấy giờ… đồng chí Nguyễn vóc người cao hơn nhưng hơi gầy, với đôi gò má cao, đôi mắt rất thông minh, giọng nói ấm, ăn mặc hết sức giản dị, đầu thường đội mũ phớt và mặc trên người bộ âu phục đã cũ…” [56, tr. 576]. Trong bài báo Một buổi sáng màu xuân 1924 của Géc –ma – nét- tô (Italia) viết “Mátxcơva tháng giêng năm

1924. Giữa mùa đông nước Nga, khí trời lạnh dưới 40 độ không, Lênin vừa mất được mấy hôm. Sáng hôm ấy tại phòng chúng tôi, phóng số 8 khách sạn Lux có tiếng gõ cửa nhẹ. Một thanh niên gầy gò, đầu đội cát két, mình mặc chiếc áo mỏng mùa thu, tay xách một va ly bé tí, bước vào và nói:

- Tôi là Nguyễn Ái Quốc, người Việt Nam, vừa từ Pari đến…” [56. Tr.593]. Trong bài Hồ Chí Minh- Một con người, một dân tộc, một thời đại,

một sự nghiệp của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng kể về lần đầu được gặp

Nguyễn Ái Quốc thật cảm động “Tôi bắt đầu gặp Hồ Chí Minh là qua một tấm ảnh. Hồi đó, tôi học năm thứ tư thành chung ở trường Quốc học Huế. Một hôm

tôi được xem ảnh của một người còn trẻ, đội mũ phớt tròn, là kiểu mũ thường dùng bấy giờ ở châu Âu. Con người trong ảnh toát ra sức hấp dẫn lạ lùng” [69, tr. 32]. Dựa vào những chi tiết miêu tả ngoại hình trong các bài viết của những người đã cùng hoạt động với Nguyễn Ái Quốc khi Người ở nước ngoài, Hoàng Quảng Uyên đã miêu tả ngoại hình nhân vật Nguyễn Ái Quốc trong tiểu thuyết

Trông vời cố quốc với ngôn ngữ tả thực qua điểm nhìn của những nhân vật

khác: Đó là điểm nhìn của thuyền trưởng tàu Đô đốc Latusơ Têrêvin “ngươi thanh niên dong dỏng, đôi mắt sáng” [65, tr. 18]. Đó là cảm nhận của luật sư Lôdơbai khi gặp Nguyễn Ái Quốc trong nhà lao ở Hồng Kông “Trước mắt Lôdơbai là một thanh niên Châu Á gầy gò, da mặt tái xanh nhưng vẻ cương nghị, trầm tĩnh, sự thông minh trong từng câu nói bằng giọng tiếng Anh chuẩn cùng đôi mắt sáng tinh anh làm cho luật sư thật sự xúc động...” [65, tr.446]. Đó là qua con mắt của Dương Hoài Nam “so với bức ảnh Nguyễn Ái Quốc đội mũ phớt mà Hải Triều cho xem gần hai chục năm trước thì người ở ngoài đời linh hoạt và sắc sảo hơn nhiều, chỉ có phần gầy hơn, khắc khổ hơn” [65, tr. 539]. Và đây là Hoàng Sâm, Lê Quảng Ba cảm nhận “… một người đàn ông trạc năm mươi tuổi, gày gò, mắt sáng vẫn ngồi chờ. Ánh sáng từ ngọn đèn dầu hắt lên vẻ đăm chiêu, sốt ruột…” [65, tr. 595]…Có thể thấy, khi miêu tả ngoại hình của nhân vật, tác giả lại tập trung vào một số chi tiết, đó là “dáng người”, “ánh mắt”, “giọng nói”…. Qua phương diện ngoại hình, nhà văn muốn khắc họa Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh có ngoại hình khắc khổ, nhưng luôn ung dung tự tại, để lại ấn tượng sâu đậm với người khác dù chỉ qua một lần được gặp.

Ngôn ngữ tả thực, còn được nhà văn sử dụng miêu tả công việc nặng nhọc, vất vả mà Nguyễn Ái Quốc đã trải quan trong quá trình hoạt động cách mạng. Đó là khi Văn Ba làm phụ bếp trên tàu Đô đốc Latusơ Têrêvin “suốt ngày từ 4 giờ sáng đến đến 9 giờ tối người Văn Ba đẫm mồ hôi, mình đầy bụt than, tóc bết hơi nước nhiều bụi bẩn...” [65, tr.25]. Đó là hình ảnh người thanh niên phải làm việc trong điều kiện vô cùng khắc nghiệt ở nước Anh “… cào

tuyết, đó là một công việc rất khó và cực nhọc. Mình mẩy đầy mồ hôi mà chân tay thì tê cóng… chàng lao công trẻ, thân hình gày gò, mảnh mai, nước da mai mái…” [65, tr.50].

Khi miêu tả điều kiện sống kham khổ, vất vả, đạm bạc của Nguyễn Ái Quốc ở Pari (Pháp) những năm 1920, trong Trông vời cố quốc tác giả viết

Chương sáu Người cùng khổ: “Nguyễn Ái Quốc rời nhà số 6 Vilađê Gô lơ banh ngày 14/7/1921, chuyển đến nơi ở mới, nhà số 9 ngõ Công poanh. Căn phòng trọ ở trên tầng ba, hình vuông mỗi cạnh 3m. Chiếc giường nhỏ kê sát tường, đầu giường có cái tủ đựng quần áo, một chiếc bàn cũ kỹ kê sát góc trong, cạnh giường… Nguyễn ở số 9 ngõ Công poanh khá chật vật. Thu nhập kinh tế ít dần, giá cả đắt đỏ nên ăn uống kham khổ. Thường thì buổi sáng anh nấu cơm trong một cái sanh nhỏ bằng sắt tây, trên một bếp dầu nhỏ với một con cá mắm hoặc một ít thịt. Anh ăn một nửa, một nửa để đến chiều. Có khi cả ngày anh chỉ ăn một miếng bánh mì với một miếng pho mát. Mùa đông lạnh, mỗi buổi sáng trước khi đi làm anh để một viên gạch vào bếp lò của chủ nhà, chiều về anh lấy viên gạch ra, bọc nó vào những tờ báo cũ, để xuống nệm nằm cho đỡ rét…” [65, tr. 123]. Có thể nói khi viết đoạn văn trên, tác giả Trông vời cố quốc đã

đọc bài viết Trong ngõ nhỏ Công – Poanh của Giam – mô in trong cuốn Hồ Chí Minh – Sự hội tụ tinh hoa đạo đức nhân loại (Giam – Mô sinh năm 1907,

là con dâu cụ quả phụ Giam – mô là chủ chính có nhà số 9, ngõ Công – poanh, Pari cho thuê trong những năm 1920 khi đồng chí Nguyễn Ái Quốc đến trọ nhà cụ). Cụ thể bài viết của Giam – mô có đoạn “trong số những người ở trọ nhà tôi có một thanh niên châu Á… Anh ở tầng gác hai. Buồng anh mỗi bề 3 mét nhìn xuống ngõ… Buồng nhỏ, kê vẻn vẹn một cái giường, một cái bàn và một cái tủ… Có lần tôi vào buồng anh để thay đồ trải giường cho anh thì gặp anh đang ngồi ăn cơm. Tôi thấy tay anh cầm bát cơm, tay cầm đũa. Anh nấu cơm lấy bằng cái bếp cồn để ở góc buồng… Anh ở ngăn nắp, trật tự, không làm ẫm ĩ bao giờ và mẹ chồng tôi suốt mấy năm trời anh ở trọ không than phiền một câu

nào về anh. Gia đình tôi đều nhận xét anh là người lịch sự, biết điều, đứng đắn và là một thanh niên nước ngoài rất nghèo…” [56, tr. 556]. Việc dùng ngôn ngữ tả thực, đã giúp người đọc hình dung được cuộc sống của người thanh niên yêu nước Nguyễn Ái Quốc trong những năm ở trời Âu vất vả như thế nào, qua đó càng cảm phục nghị lực của Bác!

Trong cuốn Hồ Chí Minh - Toàn tập, tập 10, trang 26 ghi lại lời kể của Bác về sự kiện được đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về các vấn đề dân tộc

và thuộc địa của Lênin như sau “Luận cương của Lê nin làm cho tôi rất cảm động,

phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: “ Hỡi đồng bào bị đọa đầy đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta”.

Dựa vào chi tiết này, nhà văn đã viết Chương năm Ánh sáng Luận cương ghi lại chân thực sự kiện Nguyễn Ái Quốc đọc bản Luận cương của Lênin “Trong căn phòng nhỏ nhà số 6, phố Vilađê Gôbơranh, Nguyễn Ái Quốc say sưa đọc bài viết của Lênin với 12 luận điểm đề cập đến những vấn đề cơ bản như quyền bình đẳng thực sự giữa các dân tộc, nhiệm vụ của các Đảng Cộng sản khi giải quyết vấn đề dân tộc và thuộc địa… Lênin đã chỉ ra cho các dân tộc thuộc địa phụ thuộc và các nước chậm phát triển con đường để giải phóng dân tộc mình, đó là con đường cách mạng vô sản, con đường của cách mạng Tháng Mười Nga… Nguyễn Ái Quốc đọc đi đọc lại nhiều lần bản Luận cương. Anh thực sự xúc động, phấn khởi, sáng tỏ nhiều điều. Nhiều đoạn anh đọc to lên với niềm hứng khởi lớn. Anh muốn chia sẻ, anh muốn reo lên: “Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta” [65, tr.95-96]

Không những vậy, những đoạn miêu tả nội tâm, tác giả cũng cố gắng dùng ngôn ngữ tả thực để người đọc có cái nhìn chân thực nhất về Nguyễn Ái Quốc trong từng hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Chẳng hạn, trong chương mười bảy

Trần Phú chủ trì (do bị ảnh hưởng của tư tưởng tả khuynh của Quốc tế Cộng sản) nên Nguyễn Ái Quốc bị hội nghị “phê bình” nặng nề. Nhà văn miêu tả tâm trạng Nguyễn Ái Quốc bằng những ngôn ngữ tả thực “Nguyễn ngồi nghe vẻ điềm tĩnh, khiêm tốn và tôn trọng những ý kiến phát biểu, anh hầu như không phát biểu, tranh luận dù nhiều vấn đề anh không đồng ý và thấy đó là sự chệch hướng cần nắn chỉnh… Nguyễn hiểu rằng, không thể “đả thông” và làm chuyển hướng nhận thức của Trần Phú và các đại biểu tham dự Hội nghị ngay được khi những nhận thức ấy mà “tập thể” cho là duy nhất đúng, còn lại là sai” [65, tr. 412]. Rồi những suy nghĩ rất thật, rất con người đời thường của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh cũng được tác giả khắc họa bằng ngôn ngữ tả thực. Đây là lời tâm sự của Nguyễn Ái Quốc với nữ đồng chí Vêra Vasiliêva – công tác trong Quốc tế Cộng sản: “Và Vêra Vasiliêva, Nguyễn mang ơn người phụ nữ Nga thẳng thắn, chân tình, người đồng chí hết lòng vì sự nghiệp cách mạng, vì lý tưởng cộng sản, một người lãnh đạo mẫu mực, có uy tín trong ban lãnh đạo Ban Phương Đông Quốc tế Cộng sản, đó là chỗ dựa tinh thần cho Nguyễn trong những lúc sóng gió nổi lên ầm ào, nhiều khi nếu không có Vêra, Nguyễn đã buông xuôi, đã bị xô ngã...” [65, tr. 501].

Có thể nói, dưới bút pháp của ngôn ngữ tả thực, hình tượng nhân vật lãnh tụ cách mạng, chiến sỹ cộng sản quốc tế hiện lên thật gần gũi, chân thật, đời thường: Bởi lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh trước hết là con người bình thường như bao con người khác!

3.2.2. Ngôn ngữ ước lệ tượng trưng và liên tưởng so sánh để khắc họa hình tượng lãnh tụ cách mạng, chiến sỹ cộng sản quốc tế

Khi miêu tả mục đích thực sự của các nước đế quốc thắng trận trong chiến tranh thế giới thứ nhất khi tổ chức hội nghị Véc xây – Pháp năm 1919, tác giả đã để Nguyễn Ái Quốc nhận xét “Vấn đề quyền tự quyết của các dân tộc mà Uyn Xơn đưa ra trong tuyên bố 14 điểm hào nhoáng, mỹ miều thực ra chỉ là cái bánh vẽ để Mỹ lừa dối các dân tộc bị áp bức, một chiêu trò để các nước tham

gia hội nghị phải chia lợi cho nước Mỹ nhiều hơn” [65, tr. 84]. Hay sự kiện “Bản Yêu sách của nhân dân An Nam” được gửi tới Hội nghị Véc xây được ví “như một tiếng bom nổ giữa nghị trường, là tiếng sấm báo mùa xuân…” [65, tr. 84].

Ngày 17/6/1924, Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ V khai mạc tại nhà hát lớn Mátxcơva, Nguyễn Ái Quốc tham dự và có phát biểu tại Đại hội. Nguyễn Ái Quốc đã phê phán các Đảng Cộng sản ở các nước chính quốc thờ ơ, lãng quên việc tuyên tuyền, ủng hộ, giúp đỡ phong trào cách mạng các nước thuộc địa, Nguyễn đã dùng những từ ngữ mang tính ước lệ để nói về sự “lãng quên” này: “Các đồng chí thứ lỗi về sự mạnh bạo của tôi, nhưng tôi có thể nói với các đồng chí rằng, sau khi nghe các lời phát biểu của các đồng chí ở chính quốc, tôi có cảm tưởng là các đồng chí ấy muốn đánh chết rắn đằng đuôi. Tất cả các đồng chí biết rằng, hiện nay nọc độc và sức sống của con rắn độc tư bản chủ nghĩa đang tập trung ở các nước thuộc địa hơn là ở chính quốc. Các thuộc địa cung cấp nguyên liệu cho các nhà máy, các thuộc địa cung cấp binh lính cho quân đội của chủ nghĩa đế quốc…Thế mà các đồng chí khi nói về cách mạng, các đồng chí lại khinh thường thuộc địa…” [65, tr. 202-203]. Nguyễn Ái Quốc dùng hình ảnh “muốn đánh chết rắn đằng đuôi” để liên tưởng đến việc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân đế quốc chỉ tập trung ở tại các nước chính quốc mà không quan tâm đến các nước thuộc địa. Đó là sự thiếu sót lớn. Hình ảnh Nguyễn Ái Quốc đưa ra vừa giầu sức liên tưởng độc đáo vừa gần gũi dễ hiểu.

Trước khi về nước trực tiếp chỉ đạo cách mạng, Nguyễn Ái Quốc tổ chức một lớp huấn luyện ngắn ngày tại một thôn nhỏ - Nặm Quang (Trung Quốc) sát biên giới Việt Trung cho những thanh niên cách mạng chuẩn bị về nước hoạt động. Tác giả đã sử dụng rất nhiều từ ngữ mang tính ước lệ tượng trưng để miêu tả thiên nhiên, con người và tâm trạng phấn chấn của các chiến sỹ cách mạng chuẩn bị được đặt chân lên mảnh đất mẹ thân yêu: “Nậm Quang là một ngôi làng nhỏ của người Nùng Giang, có mươi nóc nhà, nằm lọt trong một thung lũng hẹp.

Nhà sàn, mái lợp rạ. Những đám ruộng ngoài làng hẹp, mấp mô… Những đám rẫy thì rất dốc, đất bạc mầu. Nhà hẹp, đất hẹp nhưng lòng người không hẹp. Đến Nặm Quang, ông Cụ lập tức cho người đi báo cho Lê Quảng Ba dẫn anh em về Nặm Quang tập trung. Dương Hoài Nam (Võ Nguyên Giáp) cũng từ Tịnh Tây về… Tất cả họp mặt vui vẻ, phấn khởi. Năm mươi người, năm mươi chiến sỹ cách mạng Việt Nam tụ nghĩa ở một ngôi làng nhỏ của Trung Quốc, sát biên giới Việt Trung,

Một phần của tài liệu (LUẬN văn THẠC sĩ) hình tượng nguyễn ái quốc hồ chí minh trong tiểu thuyết trông vời cố quốc của hoàng quảng uyên (Trang 83 - 91)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(109 trang)