PTS. Nguyễn Thị Oanh
Ngay sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời, Đảng và Nhà nước ta đã quyết định bảo tồn, giữ gìn lâu dài nơi ở và làm việc của Người tại Phủ Chủ tịch (nay gọi là Khu di tích Phủ Chủ tịch). Đây là di tích nguyên gốc đặc biệt quan trọng trực thuộc Bộ Văn hóa - Thông tin cùng 6 bảo tàng quốc gia khác. Khu di tích Phủ Chủ tịch là nơi Bác đã sống và làm việc lâu nhất trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình (15 năm, từ 19/12/1954 đến 2/9/1969). Khu di tích nằm trong một góc vườn Bách Thảo cũ, rộng 14 ha bao gồm nhiều nhà di tích, vườn cây, ao cá... được chia làm 3 khu (A, B, C).
Khu C: Bao gồm nhà tiếp khách của Thủ tướng Chính phủ và ngôi nhà 3 tầng của các thành viên Chính phủ làm việc.
Khu B: Gồm nhà tiếp khách Phủ Chủ tịch và sân vườn xung quanh. Đây là ngôi nhà được kiến trúc theo kiểu Pháp, do những người công nhân Việt Nam xây dựng vào đầu thế kỷ 20 (1900 - 1906). Ngôi nhà có 4 tầng gồm 36 căn phòng. Mỗi phòng được trang trí nội thất theo kiểu mỗi triều đại vua nước Pháp do vậy rất sang trọng. Sau khi hòa bình lập lại (1954) từ Việt Bắc trở về thủ đô Hà Nội, các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta mời Bác về sống và làm việc tại đây, song Người đã từ chối mà dành ngôi nhà này làm nơi tiếp khách quốc tế và trong nước; nhiều đoàn nguyên thủ quốc gia được Bác mời nghỉ tại đây. Tại nơi đây Bác đã hội đàm, ký tuyên bố chung, tiếp đại sứ các nước trình quốc thư, trả lời phỏng vấn các nhà báo, họp Hội đồng chính phủ; tiếp các đoàn khách công nhân, nông dân, thanh thiếu niên, phụ nữ, Việt kiều... Những lời thơ chúc mừng năm mới; và lời kêu gọi chống Mỹ cứu nước, chân lý "không có gì quý hơn độc lập tự do" của Bác... cũng được ghi âm tại đây.
Từ khi Bác qua đời đây vẫn là nơi làm việc của Chủ tịch nước và là nơi đón tiếp khách quốc tế cũng như trong nước của Nhà nước ta. Nhiều hoạt động trọng đại của Đảng và Nhà nước ta vẫn diễn ra tại đây.
Khu A: Gồm một số di tích sau:
Ngôi nhà Bác ở từ 1954: Từ chối không ở trong ngôi nhà của Toàn
quyền Đông Dương cũ, Người chọn cho mình một ngôi nhà nhỏ vốn trước đây là chỗ ở của một công nhân điện. Các đồng chí phục vụ sửa làm 3 phòng: phòng làm việc, phòng ngủ, phòng ăn. Người ở đây từ 19/12/1954 đến tháng 5/1958 chuyển sang sống và làm việc ở nhà
sàn, song hàng ngày Người vẫn trở về đây ăn cơm, làm vệ sinh cá nhân, khám sức khỏe... Nơi đây còn lưu giữ nhiều kỷ vật quý biểu lộ tình cảm của bạn bè quốc tế đối với Người. Đó là một số quà tặng của các nguyên thủ quốc gia Liên Xô, Nhật... trong đó có: chiếc bàn tròn của đồng chí Phi Đen Cát Xtơ Rô - Cu Ba, tượng khuất Nguyên của Trung Quốc...
Chính tại nơi đây Người đã ngày đêm suy nghĩ, đề ra những đường lối hàn gắn vết thương chiến tranh, cải tạo kinh tế ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam, mở rộng quan hệ ngoại giao với các nước bạn.
Căn phòng họp Bộ Chính trị: Tại đây, Bộ Chính trị đã ra nhiều quyết định quan trọng chỉ đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ trong đó có quyết định nổi dậy Mậu Thân (1968).
Ga ra ô tô: Gồm có 2 xe ô tô. Xe Pobeda là quà tặng của Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô. Người sử dụng xe này đi thăm các nơi ở Việt Nam. Xe PEUGEOT 404 do một Việt kiều ở Tân Đảo gửi biếu Người dùng và thời gian cuối đời.
Nhà bếp: Tại đây Bác thường dùng cơm cùng Thủ tướng Phạm Văn Đồng.
Ngôi nhà sàn: Đây là ngôi nhà Bác đã sống và làm việc từ dịp sinh nhật Người năm 1958 đến 17/8/1969. Ngôi nhà làm theo gợi ý và phác thảo của Người. Đây không những là một di tích lịch sử mà còn là một di tích kiến trúc mang đậm đà bản sắc dân tộc.
Tầng dưới nhà sàn là nơi Người thường làm việc vào mùa hè, tiếp khách thân mật và hàng tuần họp Bộ Chính trị quyết định nhiều vấn đề quan trọng của Cách mạng Việt Nam; xây dựng đường lối kinh tế ở miền Bắc làm hậu phương vững chắc cho cách mạng giải phóng miền Nam, đường lối quân sự, đường lối ngoại giao tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của bạn bè quốc tế cho cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc. Tại đây ngày 10/5/1965 Bác đã bắt đầu viết bản di chúc lịch sử. Từ đó hàng năm từ (10/5 đến 19/5) Người đều xem và sửa lại để có bản di chúc cuối cùng vào năm 1969 để lại cho chúng ta ngày nay. Chính Người đã căn dặn làm hành lang xung quanh và dãy ghế băng dài xung quanh nhà cùng bể cá vàng để các cháu ngồi quây quần bên Bác mỗi khi các cháu đến thăm.
Tầng trên gồm 2 căn phòng nhỏ. Mỗi phòng khoảng 10m2 là phòng làm việc về mùa đông và phòng ngủ của Bác. Phòng làm việc cũng là nơi Người tiếp thân mật nhiều đoàn khách quý trong và ngoài nước. Người thường tự tay soạn thảo văn kiện qua máy chữ nhỏ. Tủ sách gồm nhiều sách của các lãnh tụ trên thế giới và sách của Việt Nam, trong đó còn lưu lại nhiều bút tích của Người. Phòng ngủ thật đơn sơ giản dị như bao gia đình Việt Nam khác, chiếc chiếu mộc, chiếc quạt lá cọ, chiếc mũ vải đã theo Người đi thăm nhiều nơi trên thế giới cùng mọi miền của Tổ quốc và chiếc ra-đi-ô của Việt kiều ở Thái Lan gửi biếu người năm 1959...
Căn hầm phòng không: Tại đây còn lưu giữ kẻng phòng không, mũ sắt Bác đã từng đội mỗi khi xuống hầm, các máy điện thoại chiếc thì nối với Bộ Chính trị, chiếc thì nối với quân đội. Bác đã trực tiếp chỉ đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ và xây dựng miền Bắc XHCN. Nhìn những kỷ vật một thời gắn với khí thế hào hùng của dân tộc, khách tham quan trong và ngoài nước hiểu được sự vĩ đại của vị cha già của quân đội nhân dân Việt Nam, của dân tộc Việt Nam.
Ao cá: Thời Pháp thuộc, đây là ao tù nước đọng cho hươu nai ở vườn bách thú xuống uống nước. Khi về ở đây Người cho các đồng chí phục vụ và bảo vệ làm ao nuôi cá. Ao cá rộng 3.300m2. Trong ao, Người nuôi nhiều loại cá: chép, rô phi, trắm cỏ, mè, trôi... Chiều chiều sau giờ làm việc Người thường ra bờ ao vỗ tay gọi cá về cho chúng ăn. Người thường tặng cá giống cho các hợp tác xã nông nghiệp để phát triển phong trào nuôi cá nước ngọt cải thiện bữa ăn cho người nông dân.
Từ khi Bác qua đời tới nay Khu di tích vẫn tặng cá giống cho các nơi. Hằng ngày khách tham quan vẫn tới đây, bên bờ ao cá, thay Bác vỗ tay gọi cá về cho ăn.
Vườn cây di tích: Vườn cây rộng khoảng 6, 7 ha hết sức quý hiếm với trên 40 mảng cây cỏ. Trong đó có hàng ngàn cây lớn nhỏ thuộc hàng trăm loài thực vật khác nhau. Theo điều tra bước đầu hệ thực vật trong vườn rất đa dạng, có cây thân gỗ lớn, nhỏ, cây bụi, thảm cỏ, dây leo ký sinh, phụ sinh, cây hoang dại... Vườn cây gồm 232 loài thuộc 81 họ, 42 bộ. Trong đó nhóm cây ăn quả có 34 loài, nhóm cây quý hiếm có 52 loài, nhóm cây di tích có 18 loài, nhóm cây cảnh khác có 63 loài. Đây là vườn cây quý hiếm được bảo vệ và còn lưu giữ với nhiều loài cây có tuổi thọ hàng trăm năm, có ý nghĩa quan trọng về mặt khoa học và xã hội. Vườn hội tụ cây quý của nhiều miền trong cả nước. Có những cây đồng bào miền Nam gửi ra biếu Bác từ hồi miền Nam chưa được giải phóng như cây vú sữa Bác đã chăm bón hàng ngày. Những cây di tích là bằng chứng sinh động cho tình cảm của Người đối với đồng bào miền Nam, với các cháu thiếu nhi, tình cảm của nhân dân cả nước đối với Bác kính yêu. Đồng thời nơi đây cũng minh chứng cho tình hữu nghị lâu đời giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân thế giới.
Ngôi nhà 67: Nơi Người dưỡng bệnh và qua đời: năm 1966 máy bay Mỹ thay đổi cách đánh, từ xa bắn rốc két và thả bom bi vào Thủ đô. Do vậy, nhiều lần Bộ Chính trị xin phép Bác cho làm nhà khác để bảo đảm an toàn cho Bác, song Người từ chối, Người nói trong khi nhân dân chưa có đủ nhà ở, Bác đã có nhà sàn và có hầm rồi. Nhân một lần Bác đi công tác ở Trung Quốc một tháng, Bộ Chính trị đã quyết định làm ngôi nhà này để Người ở. Khi về, Người đã từ chối và để dành làm nơi họp Bộ Chính trị. Chỉ tới ngày 17-8-1969 theo yêu cầu của bác sĩ, Bác mới về đây dưỡng bệnh. Nơi đây đã chứng kiến tình cảm của Người dành cho đồng bào, đồng chí miền Nam, đồng bào bị bão lụt, phụ nữ và các cháu thiếu nhi. Đồng thời cũng chứng kiến sự quan tâm đặc biệt của các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước, của tập thể y bác sĩ Việt Nam, Trung Quốc đã ngày đêm chăm sóc tìm mọi phương thuốc để cứu chữa Người. Nhưng vì tuổi cao và bệnh tim cũ tái phát, Người đã ra đi đúng 9 giờ 47 phút ngày 2-9-1969, ngày mà cách đây 24 năm Bác đã đọc tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nhà nước của chúng ta.
Từ khi Bác qua đời tới nay, Khu di tích Phủ Chủ tịch đã đón tiếp khoảng hơn 19 triệu lượt khách trong và ngoài nước tới thăm, trong đó có hàng ngàn đoàn cấp cao là nguyên thủ quốc gia của 150 nước và các tổ chức quốc tế thuộc nhiều dân tộc, nhiều màu da.
Trong công tác truyền thống giáo dục, Khu di tích Phủ Chủ tịch đã có nhiều hình thức hoạt động phong phú như: trực tiếp hướng dẫn, giới thiệu khách tham quan đến các điểm trong khu di tích; tổ chức cắm trại sinh hoạt đoàn đội, kết nạp đội viên, đoàn viên, đảng viên mới... Đi nói chuyện ở các địa phương về cuộc đời và tư tưởng của Người; viết nhiều bài báo, tạp chí, kết hợp với đài truyền hình và đài tiếng nói Việt Nam làm nhiều chương trình tuyên truyền về những hoạt động của Khu di tích Phủ Chủ tịch. Hình thức hướng dẫn tham quan theo đoàn từng điểm di tích là có hiệu quả nhất và thực sự gây xúc động đối với khách tham quan. Hàng ngàn tài liệu hiện vật gốc đang trưng bày trong các nhà di tích, trở thành vốn quý, là di sản vô giá của dân tộc. Khách tham quan được tận mắt chứng kiến các di tích gốc, họ hiểu sâu sắc hơn về cuộc sống đời thường vô cùng giản dị, về đạo đức cách mạng của Người. Người thường căn dặn cán bộ đảng viên phải cần, kiệm, liêm, chính, trí công vô tư và chính Người là một tấm gương sáng. Thăm nhà Bác, được các hướng dẫn viên kể những câu chuyện sinh động, khách tham quan còn học tập được ở Bác những bài học quý. Đó là tình yêu lao động, yêu thiên nhiên cây cỏ hoa lá như yêu chính con người vậy. Thăm nhà Bác, khách tham quan còn thấy Người là tấm gương sáng cho chúng ta đặc biệt là thế hệ trẻ Việt Nam ngày nay về việc học ngoại ngữ. Người biết nhiều ngoại ngữ và có thể nói thành thạo các thứ tiếng: Trung, Pháp, Anh, Nga, Yý, Thái Lan. Người còn nêu lên một tấm gương sáng về tính kiên trì rèn luyện thân thể, tập thể dục hàng ngày.
Từ lâu nơi đây đã trở thành trường học lớn cho cán bộ đảng viên, cho mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ Việt Nam trong việc rèn luyện đạo đức tác phong, xây dựng con người mới theo gương Bác Hồ, Khu di tích Phủ Chủ tịch thật sự trở thành di sản văn hóa vô giá của dân tộc.