Khu căn cứ kháng chiến của Tỉnh ủy Kiến Phong

Một phần của tài liệu Tài liệu Di tích lịch sử văn hóa ppt (Trang 80 - 81)

Khu căn cứ kháng chiến của Tỉnh ủy Kiến Phong

Khu căn cứ kháng chiến của Tỉnh ủy Kiến Phong. Ơở xã Mỹ Tho - Mỹ Hiệp, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.

Từ Trung tâm thị xã Cao Lãnh lộ 30 đến trung tâm huyện Cao Lãnh và đi tiếp đến ủy ban Nhân dân xã Mỹ Long theo con rạch ngã cái rẽ vào cắt ngang kênh Xáng Hội đồng Tường, vào rạch Xẻo Quýt cách khoảng 2 km.

Xẻo Quýt nằm trên ngọn rạch Xẻo Quýt thuộc 2 xã Mỹ Long và Mỹ Hiệp. Đây là một vùng đồng trống trải, khi trước chỉ có cỏ, lác và lơ thơ một ít tràm, gáo, trâm bầu theo ven kênh rạch. Là một vùng đất thấp, hơn nửa năm bị nước ngập, mùa mưa đất sét trơn trượt, đường bộ không có, đi lại rất khó khăn, đường sông chỉ có con rạch Xẻo Quýt mùa khô thì khô cạn, nhiều tháng nước bị phèn và thúi, lục bình và cỏ thường đóng bít lòng rạch, đi lại không thuận tiện. Do hoang dại quanh năm nên nhiều muỗi và đỉa. Nói đến mảnh đất Xẻo Quýt là nói đến khu căn cứ cách mạng. Hiệp định Giơ-ne-vơ ký kết nhưng đế quốc Mỹ tìm mọi cách hất cẳng Pháp ra khỏi Miền Nam để phá hoại Hiệp định. Lúc này Tỉnh ủy phải ở trong dân "Căn cứ chính trị". Từ năm 1958 căn cứ chuyển vào Đồng Tháp Mười vì lúc này lực lượng vũ trang đã mạnh.

Sau chiến thắng Gò Quảng Cung ngày 26/9/1959 ở xã Phú Hiệp - huyện Tam Nông ngày nay) Tỉnh ủy quyết định trụ lại Xẻo Quýt và lấy nơi này làm căn cứ cách mạng liên tục cho đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng 30/4/1975. Sau khi trụ lại Xẻo Quýt, Tỉnh ủy phát động phong trào trồng cây gây rừng, xây dựng và bảo vệ căn cứ. Đồng chí Huỳnh Xuân trưởng đội bảo vệ căn cứ chịu trách nhiệm chính. Địa hình ban đầu chỉ có đưng, lác... việc sinh hoạt và làm việc trong Cà Rèm nhưng Tỉnh ủy kiên trì bám trụ lãnh đạo cuộc kháng chiến. Những vệt tràm, gáo, trâm bầu do cán bộ, chiến sĩ, nhân dân ươm trồng dần dần bám dễ vươn lên song song đó là những tuyến công sự, hầm trú ẩn ngày càng vững chắc, kiên cố. Nếu lấy căn cứ thường trực Tỉnh ủy làm tâm thì xung quanh, cách 1 cây số đường chim bay đến là một hệ thống hơn 10 đồn bót lớn nhỏ của địch bao bọc thành một vòng tròn khép kín. Phía trong (vùng kinh 1) mới vùng "Tự do túc sự" còn ở tại vùng Xẻo Quýt là bãi bắn tập của trực thăng của địch nên chúng đánh phá rất ác liệt. Những năm 1964 -1965 vùng này là "Trường bắn" của các loại trực thăng địch ngày đêm từng bầy đến bắn phá, các cuộc càn quét bằng trực thăng đổ quân, kết hợp xe P113, mùa nước có cả thuyền bay, liên miên xảy ra. Các loại trực thăng chiến đấu nhất là loại trực thăng trinh sát, trực thăng chiến đấu có hỏa tiễn rất nguy hiểm cứ tới tìm dấu vết ăn ở của ta để bắn phá, máy bay khu trục, phản lực thường đến dội bom. Pháo địch từ chi khu Kiến Văn ngày đêm bắn vào bừa bãi. Cối và đạn thẳng từ đồn Ngã Cái, đồn Chín Cui cứ bắn đại bác vào. B52 đã nhiều lần đến rải thảm bom lên căn cứ.

Suốt thời gian 1960 - 1975 các cơ quan của tỉnh sống trong lòng dân với sự che chở và đùm bọc đã hoạt động sát nách và xen kẽ với địch để giành dật từng tấc đất của quê hương. Tỉnh ủy cùng với các cơ quan trực thuộc, văn thư, giao liên, cơ yếu, điện đài dân vận mặt trận, cơ công, các cơ quan ban ngành như Tỉnh đội, Quân y, Quân giới, Ban An ninh, Ban Tuyên huấn, cơ quan Hậu cần tỉnh, Dân chính tỉnh, Dân y tỉnh, Bưu điện tỉnh vẫn bám trụ ở vùng này. Trong thời kỳ địch mở chiến dịch và những trận tiến công quyết liệt để bình định miền Nam, do điều kiện cực kỳ khó khăn của cách mạng, các tỉnh ủy của tỉnh khác phải sơ tán sang tận vùng biên giới Campuchia nhưng Tỉnh ủy và các ngành tỉnh Kiến Phong (nay là Đồng Tháp) vẫn bám trụ ở đây, vẫn đóng chốt ở "Căn cứ địa nhân tâm" được lòng dân che chở. Trong hoàn cảnh khó khăn của cách mạng như vậy nên các cán bộ lãnh đạo của Tỉnh ủy phải kiên trì nhẫn nại chịu đựng khó khăn mới duy trì được cách sinh hoạt và đảm bảo được thời giam làm việc. Từ 3- 4 giờ sáng thì nếu ăn đến khoảng 6 giờ phải dấu hết các đồ đạc, từ 3-4 giờ chiều mới trở lại căn cứ tổ chức nấu ăn để tối làm việc. Để bảo vệ an toàn cho vùng giải phóng, anh em du kích đêm đêm xuất phát luồn sâu vào vùng địch trừ khử ác ôn, Việt gian. Hỗ trợ cho bà con nổi dậy phá kìm kẹp mở rộng vùng giải phóng. Các đội du kích cơ quan chặn đánh các cuộc càn quét, bắn rơi máy bay, đốt cháy xe tăng địch,

đơn vị C279 (đơn vị bảo vệ Tỉnh ủy) và địa phương quân Kiến Văn ở Kinh Hội đồng Tường, Rạch Bà Lương, Rạch Xẻo Quýt đầu ngoài. Đã ngày đêm chiến đấu chống kẻ thù bảo vệ khu căn cứ cách mạng. Bà con nhân dân xã Mỹ Hiệp, vùng giải phóng để bảo vệ căn cứ đã học tập cắm hàng rào, phá lựu đạn, cắm chông trên đồng ruộng để ngăn chặn các đợt càn quét của địch, bảo vệ cho các cơ quan quân y, dân y, yên ổn chăm sóc chiến thương, cơ quan y dược chế tạo cung cấp thuốc men, công binh xưởng chế tạo vũ khí chiến đấu.

Việc tồn tại của Tỉnh ủy và căn cứ Xẻo Quýt ta dựa vào các yếu tố :

1- Dùng nhân dân bảo vệ: Nhân dân xã Mỹ Hiệp và các vùng giải phóng đã giữ bí mật với địch, che mắt địch, dùng lý lẽ đánh lạc hướng địch. Nhân dân làm tai mắt cho ta trong phòng gian bảo mật, phát hiện bọn công an, đo thám đường dài hay tại chỗ, thông báo tin tức địch cho quân ta. Nhân dân cung cấp cho ta mọi thứ nhu cầu cần thiết cho sinh sống và công tác như gạo, đường, thuốc men giấy mực, máy đánh chữ... Nhân dân đấu tranh chính trị. Đây là yếu tố số một khẳng định căn cứ Tỉnh ủy ở Xẻo Quýt là căn cứ địa nhân tâm.

2- Dùng thế du kích chiến tranh, ta đã phát động trồng cây gây rừng, cải tạo địa hình, bảo vệ không để cháy đồng mùa khô, đào chướng chống xe B113, đánh những "bãi chết". "bãi sống" bằng chông, ngù, rào rập, lựu đạn... Đây là "Lực lượng bảo vệ" có tính chất sống còn đối với ta, Không có nó không thể ngăn chặn được việc càn quét, lùng sục của địch.

3- Mọi yếu tố cực kỳ quan trọng là ý chí sắt đá sống chết quyết bám đất, bám chiến trường để hoạt động của Tỉnh ủy. Đồng Tháp có biên giới dài 52 km với Camphuchia, cơ quan Tỉnh ủy có thể dời lên đất Camphuchia để an toàn (như 1 số tỉnh ủy khác), những điểm đáng kể để Đảng bộ và quân dân Đồng Tháp tự hào là "Tỉnh ủy Kiến Phong" (sau là Sa Đéc và nay là Đồng Tháp) đã bám trụ ở Xẻo Quýt suốt thời kỳ chống Mỹ đặc biệt là giai đoạn địch bình định ác liệt nhất cho đến ngày giải phóng 30/4/1975. Tỉnh ủy Kiến Phong đã bám trụ ở đó vững chắc như một chốt thép, là thoi nam châm gắn bó, tập hợp các cơ quan ngành tỉnh, huyện quanh mình, là điểm tựa của niềm tin đối với cán bộ, nhân dân như hải đăng đối với người đi biển ban đêm. Nhờ bám chặt chiến trường, Tỉnh ủy Kiến Phong đã nắm chắc tình hình địa phương, lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời góp phần quan trọng vào thắng lợi của nhân dân tỉnh nhà, trong quá trình lãnh đạo Tỉnh ủy Kiến Phong đã vận dụng sáng tạo linh hoạt đường lối chủ trương của Đảng vào hoàn cảnh thực tế của tỉnh nhà, có thể nói đấy là thời kỳ gian khổ nhất và cũng là vẻ vang nhất của Tỉnh ủy Kiến Phong. Cũng là nơi trung tâm chỉ đạo Tổng Công kích, Tổng khởi nghĩa giải phóng tỉnh của Tỉnh ủy Sa Đéc 30/4/1975.

4- Nghệ thuật kiến trúc và những di vật phụ: khu căn cứ kháng chiến Xẻo Quýt là di tích cách mạng trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước. Do tính chất ác liệt của cuộc chiến tranh nên phải sống làm việc và sinh hoạt trong các công sự hầm trú ẩn, các căn nhà tre, tràm lợp đưng, lá, nylon, vạc tre, xuồng.

5- Tình trạng hiện nay và tổ chức bảo quản: Sau khi trụ lại điểm Xẻo Quýt và xây dựng mới nơi đây thành căn cứ để hoạt động cách mạng cho đến ngày giải phóng đất nước 1975, về cơ bản toàn bộ các công sự, hầm trú ẩn... đều nguyên vẹn hiện trạng của nó.

Từ ngày giải phóng 30/4/1975 cho đến nay do có ý thức sẵn Tỉnh ủy Đồng Tháp đã cử một đội công an túc trực ngày đêm tại căn cứ để bảo vệ không để đồng bào đến phá cây cối phá hoang (trong điểm ở) để làm ruộng, không đào phá các nơi ăn ở, hoạt động như nền hội trường, nền nhà ở làm việc, công sự, lối đi lại v.v.. nhờ đó căn cứ cơ bản được giữ gìn. Tuy nhiên, do sự phát triển của thiên nhiên nên căn cứ có nhiều biến dạng.

Một phần của tài liệu Tài liệu Di tích lịch sử văn hóa ppt (Trang 80 - 81)

Tải bản đầy đủ (DOC)

(125 trang)
w