Lí thuyết liên văn bản của chủ nghĩa cấu trúc: Genette và Riffaterre

Một phần của tài liệu Liên văn bản trong sáng tác nguyễn huy thiệp (Trang 26 - 28)

5. Cấu trúc luận án

2.1. Lí thuyết liên văn bản của chủ nghĩa cấu trúc: Genette và Riffaterre

Chủ nghĩa cấu trúc (Structuralism) hình thành từ đầu thế kỉ XX cho đến những năm 40. Sự hình thành của chủ nghĩa cấu trúc bắt nguồn từ ngôn ngữ học cấu trúc của F.Saussure, chủ nghĩa hình thức Nga, chủ nghĩa cấu trúc Séc rồi sau đó vươn sang các lĩnh vực khác như nhân chủng học cấu trúc của C.L. Strauss, ký hiệu học và phê bình văn học…Theo Trịnh Bá Đĩnh, chủ nghĩa cấu trúc có tham vọng muốn khám phá các quy luật, các nguyên tắc, các hệ thống chi phối hoạt động xã hội, văn hóa của con người, kể cả các lĩnh vực tinh thần tế nhị, bí ẩn như văn học, tâm lý học một cách thật khách quan, khoa học, “có thể khảo sát, định vị các kết quả thu được” [47, tr9]. Dựa vào tư tưởng của Saussure về ngôn ngữ học, đặc biệt là mối quan hệ giữa ngôn ngữ/lời nói, trong đó lời nói thuộc về cái cảm tính bị chi phối bởi ngôn ngữ là một cấu trúc trừu tượng, các nhà cấu trúc luận tin rằng các hiện tượng cảm tính mà ta nhìn thấy được chỉ là dấu vết của các tổ chức nằm dưới bề sâu. Tổ chức bề sâu này được quan niệm là một cấu trúc, có vai trò chi phối những yếu tố bề mặt, như

ngôn ngữ chi phối lời nói. Về mặt phương pháp, cấu trúc luận đòi hỏi phân tích đến những yếu tố không thể phân chia được của đối tượng, tìm kiếm các mối liên hệ giữa các yếu tố đó để xác lập một cấu trúc có vai trò chi phối toàn bộ đối tượng. Sự phân

tích tác phẩm văn học theo hướng cấu trúc chính là đi tìm mối quan hệ giữa lớp ngôn ngữ xác thựclớp ngôn ngữ tượng trưng của VB. Lớp ngôn ngữ tượng trưng được hiểu là những nguyên tắc chìm, không hiển thị, được tạo nên bởi các cặp đối lập có khả năng chi phối lớp ngôn ngữ xác thực có thể cảm nhận được bằng kinh nghiệm cảm tính [xem 47]. Đối với các nhà cấu trúc luận, nhà văn không phải chịu trách nhiệm đối với những ý đồ tư tưởng cũng như sự biểu hiện những ý đồ đó vì về bản chất, anh ta bị điều khiển bởi những cấu trúc, những quy phạm và nguyên tắc tổ hợp văn học vốn là sản phẩm của tâm trí cộng đồng. Ở đây, nhà văn không đóng vai trò là người duy nhất mang lại ý nghĩa cho VB. Ý nghĩa VB nảy sinh, thành tạo là do sự tương tác giữa các cặp đối lập trong cấu trúc VB. Nhà phê bình, nghiên cứu văn học chú ý đến từng tác phẩm riêng lẻ không phải để tìm kiếm những ý nghĩa mang tính cá nhân, khám phá cái đơn nhất độc đáo của nó mà xem mỗi VB cụ thể ấy như là những dẫn chứng qua đó truy tìm những cấu trúc chìm ẩn, những nguyên tắc, quy luật, tổ hợp không hiện diện cảm tính nhưng lại chi phối việc sinh thành VB cụ thể ấy. Chẳng hạn, với các nhà cấu trúc luận, việc nghiên cứu thần thoại không dừng ở việc khám phá những truyện cụ thể, đơn nhất mà thông qua hàng loạt truyện thần thoại, họ lần tìm một truyện thần thoại siêu nghiệm, từ đó có thể chỉ ra quy luật sinh thành của những truyện thần thoại cụ thể. V.Propp nghiên cứu 100 truyện cổ tích thần kỳ Nga, phát hiện trong nó có những yếu tố biến đổi và những yếu tố bất biến. Cái biến đổi là nhân vật và vật bản, cái không biến đổi là hành động và chức năng. Cả thảy có 31 chức năng như vậy. Mỗi truyện cổ tích cụ thể đều là biến thể của chuỗi chức năng trên đây, mặc dù không phải ở truyện nào cũng xuất hiện đầy đủ toàn bộ các chức năng. Do đó, ở một góc độ nhất định, trung tâm chú ý của chủ nghĩa cấu trúc chính là các mối quan hệ. Đó là mối quan hệ giữa các cặp đối lập trong cấu trúc trừu tượng: cao/thấp, sống/chết, đực/cái, tự nhiên/văn hóa, vận động/đứng im, bên ngoài/bên trong, mở/khép, thiện/ác, tội ác/trừng phạt…Các cặp đối lập này hình thành từ vô thức tập thể, truyền thống văn hóa của một cộng đồng nhất định tạo thành cấu trúc bề sâu của VB. Bài thơ Núi Đôi (Vũ Cao), Màu tím hoa sim (Hữu Loan) dựa trên một cấu trúc đối lập giữa sống/chết, còn/mất. Đọc Lão Hạc (Nam Cao), có những chi tiết như lão Hạc bán chó, bán vườn, ăn sung luộc; thằng con lão thất tình, đi phu để lão bơ vơ một mình, chuyện lão Hạc xin bả chó và chết một cách thương tâm…là những biểu hiện của cấu trúc sống/chết: người cha chết để nhường quyền sống cho con. Dựa vào cấu trúc này ta thấy lão Hạc không phải là kẻ gàn dở, dốt nát, ngu muội mà là một người cha thương con hết mực. Đọc Trong rừng trúc (Akutagawa) ta thấy lớp ngôn ngữ xác thực là câu chuyện về một vụ án mạng: cả người chồng, người vợ, tên

cướp đều tự nhận mình là thủ phạm giết người, đều có những lý lẽ riêng cho hành động của mình. Nhưng ý nghĩa sâu sắc của VB nằm ở cấu trúc đối lập: niềm tin và chân lý. Những mối quan hệ như vậy đã kết nối cấu trúc VB với cấu trúc văn hóa – tinh thần của xã hội.

Từ nửa sau những năm 1960, nhất là sau sự kiện Paris 1968, chủ nghĩa cấu trúc bị đả phá dữ dội bởi thế hệ các nhà lí luận phê bình như R.Barthes, J.Derrida, J.Kristeva…Những nhân vật này ra sức chống lại tư tưởng cấu trúc luận, phủ nhận sự biểu nghĩa ổn định của cấu trúc. Rõ ràng những cặp đối lập là cấu trúc của sự sống, nhưng không vế nào trong cấu trúc cặp đối lập tồn tại trong trạng thái đơn ứng, biệt lập: trong sự sống chứa đựng mầm mống của sự chết, trong người nam chứa đựng tính nữ, trong bóng tối chứa đựng ánh sáng…Barthes và Derrida thay thế cặp đối lập trứ danh của Saussure, CBĐ/CĐBĐ, bằng cặp CBĐ/CBĐ. Kristeva đề xuất tính LVB nhằm thay thế cho tính ổn định, khép kín, biệt lập của VB. Đối với Kristeva, mỗi VB là một “bức khảm các trích dẫn”. Đối với Barthes, mỗi VB là “một tấm lụa, được dệt từ vô số trung tâm văn hóa khác nhau”, ý nghĩa của nó là “đa bội”, “không thể tính đếm”. Tính đa bội của ý nghĩa phụ thuộc vào sự tương tác giữa tác giả và độc giả cũng như giữa các VB với nhau chứ không phải là kết quả của mối quan hệ cặp đối lập làm nảy sinh nghĩa như các nhà cấu trúc luận quan niệm. Theo đó, mỗi VB văn học không bao giờ tồn tại độc lập, tự trị mà là sản phẩm của vô số những mã, những diễn ngôn và VB trước đó. Lúc này, chủ nghĩa cấu trúc đã bị vượt qua hoặc chuyển hướng sang lĩnh vực trần thuật học. Tiếp nhận những quan niệm mới của các nhà giải cấu trúc trên đây, nhưng G.Genette và M.Riffaterre vẫn kiên kì lập trường cấu trúc luận, và trên lập trường ấy, họ đã có những đóng góp rất lớn trong việc phát triển lí thuyết LVB. Những quan niệm của họ hình thành một lối đi riêng, được G.Allen gọi là “tính LVB từ quan điểm của các nhà thi học cấu trúc” [201, tr98].

Một phần của tài liệu Liên văn bản trong sáng tác nguyễn huy thiệp (Trang 26 - 28)

Tải bản đầy đủ (DOC)

(170 trang)
w