Các hạt pha phân tán thường cĩ dạng hình cầu vì với hình dạng này sẽ làm giảm tối thiểu diện tích tiếp xúc bất lợi về mặt động lực học giữa hai pha dầu và nước. Để thay đổi hình dạng hoặc làm tăng diện tích tiếp xúc của chúng với pha liên tục thì địi hỏi phải cung cấp một năng lượng ∆E tỉ lệ với diện tích ∆A và sức căng bề mặt γ (γ từ khoảng 12 đến 25 dyn.cm−1 đối với phần lớn các bề mặt liên pha dầu – nước). Lực đĩng vai trị giữ các giọt phân tán duy trì hình dạng cầu được định nghĩa bởi áp suất laplace (Laplace pressure) ký hiệu là ∆PL. Lực này xuyên qua bề mặt giữa hai pha dầu – nước hướng về tâm của giọt nhỏ. Vì thế ở đây cĩ một áp suất bên trong lớn hơn áp suất bên ngồi nĩ và:
∆PL = 4
d
γ
Ơû đây γ là sức căng bề mặt, d là đường kính giọt phân tán. Vì thế để phá vỡ các giọt nhỏ cần dùng một lực lớn hơn lực căng mặt ngồi (Walstra, 1983, 1996b, 2003a). Phương trình trên cho ta biết áp suất cần để phá vỡ giọt phân tán tỉ lệ thuận với sức căng mặt ngồi và tỉ lệ nghịch với bán kính giọt phân tán. Điều này cũng đồng nghĩa rằng các gradient áp suất mãnh liệt được phát sinh trong quá trình đồng hĩa phải lớn hơn lực căng mặt ngồi giữ các giọt phân tán lại với nhau. Chẳng hạn, áp suất laplace của một giọt nhỏ đường kính 1µm, cĩ sức căng bề mặt là 0.01 Nm
1
− , áp suất Laplace khoảng 40 kPa thì gradien áp suất cần thiết đi ngang qua giọt phân tán là 40 x 109 Pa.m−1. Gradient áp suất này quá lớn, khơng thể tạo ra được bởi các thiết bị khuấy, trộn đơn giản. Thay vào đĩ, những thiết bị đồng hĩa được thiết kế đặc biệt phục vụ cho sản xuất hệ nhũ tương với kích thước nhỏ.