Các quy định về việc đề nghị xem xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm

Một phần của tài liệu Giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự việt nam (Trang 35 - 39)

7. Kết cấu của luận văn

2.1.1. Các quy định về việc đề nghị xem xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm

Điều 284 BLTTDS năm 2011 quy định về việc phát hiện và đề nghị xem xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật như sau:

1. Trong thời hạn một năm, kể từ ngày bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật, nếu phát hiện vi phạm pháp luật trong bản án, quyết định đó thì đương sự có quyền đề nghị bằng văn bản với những người có quyền kháng nghị quy định tạo Điều 285 BLTTDS để xem xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.

2. Trường hợp Tòa án, VKS hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức khác phát hiện có vi phạm pháp luật trong bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật thì phải thông báo bằng văn bản cho người có thẩm quyền kháng nghị quy định tại Điều 285 của BLTTDS.

Như vậy, theo quy định tại Điều 248 BLTTDS thì các chủ thể có quyền đề nghị người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm theo quy định của BLTTDS không chỉ là đương sự trong vụ án mà còn có Tòa án, Viện kiểm sát, các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác.

Về thời hạn mà đương sự được đề nghị người có thẩm quyền xem xét bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực theo thủ tục giám đốc thẩm là trong thời hạn một năm kể từ ngày bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật, việc quy định thời hạn đó với khoảng thời gian cụ thể là khác biệt lớn so với quy định trước đây tại BLTTDS năm 2004. Mục đích của việc rút ngắn thời gian đề nghị là nhằm đảm bảo tính ổn định của bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật và hạn chế thời gian mà đương sự có quyền đề nghị bằng văn bản với người có thẩm quyền kháng nghị. Tuy nhiên, tại khoản 2 Điều 284 BLTTDS lại không hạn chế về thời gian thông báo bằng văn bản theo thủ tục giám đốc thẩm của Tòa án, VKS hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức khác là không phù hợp về mặt lý luận và không phù hợp với nguyên tắc về quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự. Bởi vì, bản án, quyết định nếu có vi phạm pháp luật thì ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của đương sự, nhưng quyền đề nghị xem xét lại bản án, quyết định của họ lại bị khống chế trong thời hạn 1 năm, trong khi những cá nhân, tổ chức khác lại

không bị hạn chế về thời hạn. Việc quy định như vậy sẽ tạo ra khe hở trong hoạt động tư pháp, là lỗ hổng tạo ra các tiêu cực trong hoạt động tố tụng.

Trước đây BLTTDS năm 2004 không quy định riêng về thời hạn đề nghị xem xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật mà tại Điều 288 BLTTDS chỉ quy định chung về thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm là 3 năm kể từ ngày bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Do đó, thời hạn nộp đơn khiếu nại của đương sự được xác định là 3 năm kể từ ngày bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật.

Mặc dù thời gian để đương sự nộp đơn khiếu nại chỉ được giới hạn trong thời hạn là 1 năm kể từ ngày bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật nhưng BLTTDS cũng có quy định mở hơn về thời hạn như: Trong trường hợp đặc biệt, thời hạn kháng nghị được kéo dài thêm 2 năm kể từ ngày hết thời hạn kháng nghị trong các trường hợp sau:

a) Đương sự đã có đơn đề nghị theo quy định tại khoản 1 Điều 284 của Bộ luật tố tụng dân sự và sau khi hết thời hạn kháng nghị theo quy định tại khoản 1 Điều 288 mà đương sự vẫn tiếp tục có đơn đề nghị;

b) Bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật có vi phạm pháp luật theo quy định tại Điều 283 Bộ luật tố tụng dân sự, xâm phạm nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, của người thứ ba, xâm phạm lợi ích của Nhà nước và phải kháng nghị để khắc phục sai lầm trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật đó [27].

Việc quy định mở về thời hạn như trên nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, lợi ích của Nhà nước, nhưng cũng có quan điểm cho rằng việc quy định thời hạn dài như trên không đảm bảo được tính ổn định đối với các bản án, quyết định của Tòa án, không có điểm dừng cho việc giải quyết một tranh chấp dân sự.

Các quy định của BLTTDS năm 2004 về việc phát hiện kháng nghị giám đốc thẩm được xây dựng trên quan niệm việc phát hiện vi phạm pháp luật là quyền của đương sự, cho nên khi phát hiện vi phạm pháp luật thì đương sự chỉ cần thông báo cho người có thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm mà không cần phải làm đơn khiếu nại và nộp các chứng cứ, tài liệu kèm theo. Tuy nhiên, xuất phát từ thực tiễn giám đốc thẩm dân sự tại Việt Nam, nhằm khắc phục việc kháng nghị tràn lan, thiếu căn cứ và để thuận lợi cho việc xem xét để quyết định kháng nghị giám đốc thẩm, Điều 284a BLTTDS năm 2011 đã quy định về nội dung và hình thức đơn đề nghị xem xét bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm. Theo đó, đơn đề nghị phải có các nội dung chính như ngày, tháng, năm làm đơn đề nghị; tên, địa chỉ của người đề nghị, tên bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm; lý do đề nghị, yêu cầu của người đề nghị; người đề nghị là cá nhân phải ký tên hoặc điểm chỉ, người đề nghị là cơ quan, tổ chức thì người đại diện của cơ quan, tổ chức đó phải ký tên và đóng dấu vào phần cuối đơn. Ngoài ra, người đề nghị phải gửi kèm theo đơn bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho những yêu cầu của mình là có căn cứ. Đơn đề nghị và tài liệu, chứng cứ được gửi cho người có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.

Trước đây tại PLTTGQCVADS và BLTTDS năm 2004 đều không có quy định về cơ chế ràng buộc trách nhiệm, minh bạch hóa việc xét đơn khiếu nại nhằm tránh sự lạm quyền của người có thẩm quyền kháng nghị. Do vậy, quyền đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm của đương sự có thể không được đảm bảo thực hiện, trên thực tế BLTTDS năm 2011 đã khắc phục hạn chế này bằng quy định bổ sung tại Điều 284b về thủ tục nhận và xem xét đơn đề nghị xem xét bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm. Theo đó, Tòa án, VKS nhận đơn đề nghị do đương sự nộp trực tiếp tại Tòa án, VKS hoặc gửi qua bưu điện và phải ghi vào sổ nhận đơn.

Ngày gửi đơn được tính từ ngày đương sự nộp đơn tại Tòa án, VKS hoặc

ngày có dấu bưu điện nơi gửi. Tòa án, VKS nhận đơn đề nghị phải cấp giấy xác nhận đã nhận đơn cho đương sự. Người có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm có trách nhiệm phân công cán bộ tiến hành nghiên cứu đơn, hồ sơ vụ án, báo cáo người có quyền kháng nghị xem xét, quyết định. Trường hợp không kháng nghị thì thông báo bằng văn bản cho đương sự biết.

Cùng với việc quy định thời hạn mà các chủ thể có quyền đề nghị xem xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm thì BLTTDS năm 2011 còn quy định thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm là 3 năm, kể từ ngày bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Như vậy, so với BLTTDS năm 2004 đã có sự tách bạch giữa thời hạn mà các chủ thể được quyền đề nghị xem xét lại bản án, quyết định với thời hạn mà các chủ thể có quyền kháng nghị giám đốc thẩm, việc quy định thời hạn kháng nghị là là 3 năm kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, nhằm tạo điều kiện cho những người có thẩm quyền kháng nghị có một khoảng thời gian dài hơn để xem xét, giải quyết đơn khiếu nại của đương sự. Về lý thuyết, việc quy định thời hạn dài như vậy nhằm đảm bảo quyền lợi cho đương sự, nhưng thực tế phát sinh nhiều vướng mắc liên quan đến thời hạn kháng nghị được quy định tương đối dài. Trong đó đặc biệt là vấn đề thi hành những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Ngay sau khi bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật thì người được thi hành án nhanh chóng yêu cầu thi hành bản án, quyết định, tài sản sau khi được thi hành án đã bán cho nhiều người khác dẫn đến việc khi xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm lại sẽ phát sinh thêm nhiều vấn đề mới, nhiều tranh chấp nảy sinh từ việc thi hành án bản án, quyết định bị kháng nghị.

Một phần của tài liệu Giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự việt nam (Trang 35 - 39)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(109 trang)