4.1.1. Mục tiêu đa dạng hoá sản phẩm.
Với mục tiêu công ty đã đặt ra việc đa dạng hoá sản phẩm thực sự là cần thiết. Đa dạng hoá sản phẩm của công ty theo hai hướng:
Trên cơ sở sản phẩm hiện có chỉ cải tiến một số chi tiết, tăng tính năng tác dụng cho một số loại sản phẩm cho phù hợp hơn với các nhóm đối tượng tiêu dùng. Từ đó có thể mở rộng, phát triển thị trường đồng thời tạo ra nguồn sản phẩm thay thế những sản phẩm đã lỗi thời, không còn phù hợp nữa và là điều kiện để tăng thị phần của công ty. Do vậy, cần phải tăng cường công tác nghiên cứu, tìm tòi, để đưa ra những mẫu mới có kiểu dáng ngày càng đẹp, kích cỡ phù hợp và đa dạng.
Tăng chủng loại sản phẩm là một giải pháp đạt hiệu quả kinh tế tốt:chi phí không lớn vì không phải trang bị mới lại từ đầu mà có thể dựa vào công nghệ hiện có , công nhân không cần đào tạo lại từ đầu mà chỉ cần hướng dẫn thêm một số công đoạn mới, chia sẻ rủi ro.
4.1.2. Biện pháp thực hiện.
Việc đa dạng hoá sản phẩm của công ty có thể thực hiện theo hướng sau:
Đa dạng chủng loại sản phẩm
Căn cứ vào đặc điểm của thị trường hiện tại công ty có thể thực hiện theo một số hướng sau:
Thứ nhất, đa dạng hoá sản phẩm là cần thiết,Công ty nên đa dạng hoá một cách chọn lọc, tránh dàn trải quá nhiều sẽ gây khó khăn trong công tác quản lý, theo dõi thị trường. Bên cạnh đó, cần phải có một bộ phận chuyên trách việc nghiên cứu mẫu mã, chọn lựa và để quyết định đưa sản phẩm loại nào, kích thước ra sao, tính năng như thế nào cho hiệu quả với từng thời điểm, từng vùng thị trường.
Xây dựng đội ngũ các nhân viên thiết kế sản phẩm có khả năng sáng tạo, hiểu rõ đặc tính của sản phẩm. Công ty cũng có thể thuê các chuyên gia về thiết kế trong và ngoài nước.
Thứ hai, đa dạng hoá nhưng phải gắn với việc tạo được sản phẩm có tính chất truyền thống, mang tính đặc trưng của nhãn hiệu THÀNH ĐỨC
Thứ ba, Công ty nên chú ý đến đoạn thị trường có thu nhập cao để có chính sách sản phẩm cho phù hợp tăng khả năng thu được siêu lợi nhuận từ đó có thể giành thắng lợi trong cuộc cạnh tranh gay go, quyết liệt với các sản phẩm nhập khẩu và đặc biệt dần dần làm thay đổi quan niệm của người Việt Nam về sự so sánh giữa hàng ngoại với hàng sản xuất trong nước.
Thứ tư, đa dạng hoá sản phẩm phải gắn với việc tạo ra sản phẩm đủ điều kiện thâm nhập vào thị trường khu vực, thế giới.
4.2. Hạ giá thành sản phẩm
Ngày nay, đôi khi người ta định giá sản phẩm không căn cứ trên cơ sở giá thành sản phẩm mà dự trên thời cơ, cơ hội trên thị trường. Nhưng về cơ bản, giá thành vẫn là cơ sở quan trọng để định giá. Nếu như sản phẩm muốn có giá bán trên thị trường thấp đảm bảo cho việc cạnh tranh về giá thì hạ giá thành sản phẩm là điều hết sức cần thiết và phải tìm mọi cách để thực.
Giá thành của sản phẩm bao gồm các chi phí trực tiếp: chi phí nguyên vật liệu, chi phí nhân công trực tiếp; các chi phí gián tiếp như chi phí phân xưởng, chi phí bán hàng, chi phí khấu hao tài sản cố định,… Do vậy, muốn hạ giá thành sản phẩm cần phải tiết kiệm các khoản chi phí đó như giảm chi phí nguyên vật liệu, giảm các chi phí về khấu hao máy móc thiết bị, giảm chi phí gián tiếp,..
Giảm chi phí nguyên vật liệu:
Nguyên vật liệu sản xuất sản phẩm của công ty đa phần từ các tỉnh thành trong cả nước. Đây là một điều kiện thuận lợi để có thể giảm được chi phí nhiều hơn so với nhập khẩu từ nước ngoài.
Các biện pháp cắt giảm chi phí nguyên vật liệu bao gồm:
- Xây dựng định mức tiêu hao nguyên vật liệu, đây là một việc làm tất yếu đối với bất kỳ một doanh nghiệp sản xuất nào. Tương ứng với mỗi điều kiện sản xuất nhất định sẽ có một hệ thống định mức sử dụng nguyên vật liệu phù hợp.
- Khi điều kiện sản xuất thay đổi thì định mức cũng phải thay đổi theo.
Để các phân xưởng sản xuất quan tâm đến việc tiết kiệm nguyên vật liệu trước hết công ty phải rà soát lại các định mức tiêu hao nguyên vật liệu đối với từng loại sản phẩm và điều chỉnh lại các chỉ tiêu này cho phù hợp.
Nhưng trong thực tế các phân xưởng trong quá trình thực hiện còn dễ dãi và định mức giao phần nào chưa sát thực tế. Chính vì vậy, việc điều chỉnh mức tiêu hao nguyên vật liệu là một việc làm cần thiết và thường xuyên.
- Trong công tác thu mua nguyên vật liệu cố gắng mua tận gốc, giảm thiểu việc mua qua các khâu trung gian để giảm chi phí ở các khâu trung gian nhằm giảm giá mua nguyên vật liệu.
- Bên cạnh đó, phải đẩy mạnh việc nghiên cứu các nguyên vật liệu thay thế vật liệu truyền thống với giá cả hợp lý hơn.
Giảm chi phí cố định.
Theo lý thuyết chung, chi phí cố định gồm: chi phí sử dụng máy móc thiết bị, chi phí khấu hao tài sản cố định,… Để giảm các khoản chi phí này Công ty cần phải thực hiện các biện pháp sau:
- Tăng công suất cua rdây truyền sản xuất. Bên cạnh việc tăng sản lượng sản xuất Công ty cần đẩy mạnh các biện pháp tiêu thụ sản phẩm để mang lại hiệu quả cho việc sản xuất kinh doanh. Luôn chủ dộng tiếp cận với thị trường trong và ngoài nước để tạo mẫu phù hợp với thị thị hiếu khách hàng.
- Đối với những loại tài sản cố định thừa, không cần dùng công ty cần có chính sách chuyển nhượng hay bán. Thanh ly tài sản đã khấu hao hết, không dùng để thu hồi,…Bảo quản tố tài sản cố định để giảm chi phí sữa chữa.
Giảm chi phí gián tiếp.
Do nhân sự trong các phòng ban của công ty nhiều, nên việc chi phí cho hệ thống này là tương đối lớn. Do vậy, việc cắt giảm chi phí tại các bộ phận này là rất cần thiết để góp phần hạ giá thành sản phẩm. Công ty nên thực hiện khoán chi phí cho các phòng bna tự hoạch định chi phí, cân đối thu chi, chia lương cho các cán bộ. Việc khoán này sẽ giúp công ty giảm được những khoản chi lãng phí đồng thời phát huy khả năng của từng bộ phận.
4.3. Nâng cao công tác quản lý chất lượng.
Chất lượng sản phẩm là tiêu chuẩn tổng hợp của tất cả các thuộc tính của sản phẩm thoã mãn nhu cầu của khách hàng. Việc nâng cao chất lượng sản phẩm cũng chính là nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty.
Chất lượng sản phẩm gắn liền với chất lượng quản lý, do vậy nâng cao chất lượng sản phẩm đồng nghĩa với việc tăng cường công tác quản lý chất lượng.
Do đặc điểm của công ty là vừa sản xuất vừa kinh doanh các sản phẩm nội thất nên việc nâng cao chất lượng sản phẩm cũng phải được cả hai khâu sản xuất và tiêu thụ đồng thời thực hiện.
Trong sản xuất.
Việc nâng cao chất lượng sản sản phẩm được coi là vị trí hàng đầu do vậy, việc tăng cường quản lý quy trình công nghệ sản xuất, tiết kiệm tối đa chi phí tiêu hao nguyên vật liệu trong sản xuất, hạ giá thành sản phẩm thực sự quan trọng. Để làm được điều này công ty cần thực hiện các biện pháp như:
- Thực hiện quy trình quản lý chất lượng ISO 9000 trong tất cả các công đoạn sản xuất. Đặt các điều kiện giao nhận sản phẩm tại các phân xưởng, cán bộ quản lý phải chịu trách nhiệm về chất lượng sản phẩm của bộ phận mình.
- Tại khâu nguyên vật liệu đầu vào: Dựa trên tiêu chuẩn đã được phê chuẩn theo hệ thống chất lượng cần kiểm tra chặt chẽ 100% nguyên vật liệu đầu vào, không để lọt sản phẩm xấu, chưa đúng thời hạn đưa vào sản xuất.
- Quản lý máy móc, thiết bị: Phòng kỹ thuật phối hợp với phòng kế hoạch và các bộ phận khác hàng tháng có kế hoạch kiểm tra định kỳ, bảo dưỡng máy móc, thiết bị, dự trữ phụ tùng thay thế. Xử lý kịp thời các sự cố có thể xảy ra. Đảm bảo cho máy móc luôn mới, vận hành tốt, hoạt động có hiệu quả.
- Tổ chức chặt chẽ từng bộ phận, thực hiện tiết kiệm tối đa nguyên vật liệu, xây dựng chế độ khoán vật tư cho từng bộ phận.
- Thành lập ban chỉ đạo các phong trào phát huy, cải tiến kỹ thuật tập hợp có khen thưởng động viên những cá nhân có sáng kiến cải tạo thành phong trào phát huy sáng kiến ở mỗi bộ phận để nhìn nhận và giải quyết những tồn tại trong sản xuất.
Trong tiêu thụ.
Giữ vững thị trường trong nước, mở rộng mạng lưới tiêu thụ các đại lý và cửa hàng mới trong nước. Xây dựng chiến lươc cụ thể với tỷ trọng từ 15 đến 20% trong tổng doanh thu cua rcông ty đến năm 2010.
Để đạt được mục tiêu đó cần có biện pháp như:
- Thành lập,bồi dưỡng, nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ marketing của công ty để có thể nắm bắt, tuyên truyền mọi thông tin từ thị trường một cách nhanh nhất, chính xác nhất góp phần vào điều tiết kế hoạch về: Số lượng, chủng loại, mẫu mã,… giúp bộ phận sản xuất có thể đáp ứng được mọi yêu cầu của thị trường một cách nhanh chóng, chính xác, tận dụng cơ hội kinh doanh.
- Xây dựng kế hoạch khoán doanh thu cho từng miền, từng vùng để gắn liền với quyền lợi các cán bộ tiêu thụ trong chế độ khoán, thưởng phạt để tăng kích thích tính tích cực chủ động của cán bộ tiêu thụ.
- Nâng cao hơn nữa vai trò, trách nhiệm của cán bộ, công nhân kiểm tra kiểm soát sản phẩm, yêu cầu không để hàng xấu, hỏng, kém chất lượng lọt ra ngoài thị trường. Các sản phẩm trước khi xuất xưởng phải được kiểm tra 100% về: Chất lượng, bao bì, tem nhãn, đóng gói, … và đóng dấu đã kiểm tra của bộ phận kiểm tra chất lượng. Có hình thức xử lý nghiêm khắc với công nhân hay cán bộ thiếu trách nhiệm làm sai quy trình kiểm tra.
- Sử dụng các hình thức quảng cáo trên tivi, báo chí, trên các web, hội nghị khách hàng, bán hàng qua mạng,… Áp dụng chính sách giá cả, khuyến mại mềm mại, linh hoạt trong công tác tiêu thụ phù hợp với từng thời kỳ.
- Đối với công tác xuất khẩu: Để đạt được mục tiêu đề ra CB CNV bộ phận xuất nhập khẩu cần được tuyển dụng, đầu tư và hoàn thiện. Các cán bộ cần được phân công theo dõi chi tiết từng thương vụ, từng thị trường.
Việc đàm phán, chuẩn bị hàng cho chào mẫu, giới thiệu sản phẩm, chào giá tiến tới ký hợp đồng thương mại, lập kế hoạch sản xuất và giao hàng, theo dõi đôn đốc sản xuất, bao gói hàng sản xuất, thanh toán nợ nần... đều phải được cán bộ chuyên trách làm một cách thận trọng và có bài bản.