Hình tượng “Mẫu”

Một phần của tài liệu CẢM HỨNG TÔN GIÁO TRONG THƠ MAI VĂN PHẤN (Trang 67 - 70)

Cảm hứng tôn giáo chi phối nhãn quan của người nghệ sĩ khi xây dựng những hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng tôn giáo. Với những hiểu biết sâu rộng về nhiều loại hình tôn giáo khác nhau, không chỉ với những tôn giáo ngoại lai mà cả tôn giáo của dân tộc đã tạo cái nhìn đa năng, biện chứng của người nghệ sĩ khi xây dựng hình tượng. Chính điều này đã khiến cho thế giới thơ ca Mai Văn Phấn tuy giàu sắc màu hiện đại nhưng vẫn đậm chất thuần Việt.

Ở Việt Nam, tín ngưỡng thờ Mẫu là tín ngưỡng mang đậm chất bản địa và nguyên thuỷ. Bởi vì tín ngưỡng thờ Mẫu có nguồn gốc sâu xa từ chế độ mẫu hệ, trong đó người mẹ, người vợ giữ vị trí quan trọng trong gia đình. Do vậy, trong cuộc sống hàng ngày cũng như trong văn chương nghệ thuật thì chữ “Mẫu”, chữ “Mẹ”, chữ “Cái” vẫn giữ nguyên giá trị như nó vốn có cho đến bây giờ. Cũng từ đó, hình ảnh “Mẫu” đi vào thơ Mai Văn Phấn cũng rất tự nhiên dưới góc nhìn được nghệ thuật hóa. Bằng sự khéo léo, nhà thơ đã rất tinh tế khi nhìn nhận “Mẫu” cũng là một sự biểu hiện của Đấng – Toàn – Năng. Mai Văn Phấn đã tìm ra sợi dây gắn kết, gần gũi giữa các tôn giáo khác nhau. Trong thế giới tâm linh, tất cả các tôn giáo đều dễ dàng có sự gặp gỡ. Chính vì thế, hình tượng về tôn giáo không phải sự

phản ánh đơn nhất mà được đặt trong các mối quan hệ tương thích. Ví như, sự thâm nhập và ảnh hưởng lẫn nhau giữa đạo Phật và tín ngưỡng thờ Mẫu theo khuynh hướng dân gian hóa là điều dễ hiểu bởi lẽ, đó là tín ngưỡng dân dã của người dân, cùng hướng về cái từ bi bác ái, tinh thần cộng đồng, khuyến thiện trừ ác vốn là nền tảng trong nguyên tắc ứng xử của xã hội cổ truyền. Hai thứ tín ngưỡng này bổ sung cho nhau đáp ứng nhu cầu tâm linh của người nông dân: Theo Phật để tu nhân tích đức cho đời, kiếp sau được lên cõi Niết Bàn để cuộc sống tươi sáng hơn, tự do hơn, còn theo đạo Mẫu là mong được sự phù hộ độ trì đem lại sức khỏe, tài lộc, may mắn cho đời sống thường ngày. Hình tượng “Mẫu” đã tạo nên không khí gần gũi, sự gắn kết trong tâm hồn mỗi người . Và tinh thần ấy đã được Mai Văn Phấn thể hiện độc đáo trong thơ

Dưới nhãn quan của người nghệ sĩ, “Mẫu” là khởi nguồn của mọi sự sống trên thế gian, là Đấng Sáng Thế đầy quyền năng, là nguyên nhân của quy luật sinh tồn. Chỉ bằng một trường đoạn kí ức “Cửa Mẫu” mà những siêu nghiệm trong cấu trúc bề sâu đạt đến độ nhuần nhuyễn trong nghệ thuật xây dựng hình tượng. Hình tượng “Mẫu” là biểu trưng của cảnh khai thiên lập địa. Vũ trụ lúc ấy tối tăm mù mịt, là một khối hỗn độn vô hướng của nước, lửa và những sinh vật bán khai. Giữa buổi hồng hoang ấy, bà mẹ hoài thai sinh ra đứa con mang dáng dấp Con Người. Hình tượng “con” ở đây còn bao hàm cả khái niệm vũ trụ (ánh trăng, mây mù, mưa nguồn chớp bể, bóng đêm, vầng mặt trời, đáy nước, đàn chim, con nòng nọc, lá mầm…). “Cửa Mẫu” không có thời gian, không gian cụ thể mà là những khái niệm giả định, được đo đếm bằng những đại lượng “ảo” do chính “Mẫu”, một thứ totem siêu hình không thể cắt nghĩa rõ ràng được, quy định. “Mẫu” mang trong mình sức mạnh bản năng của “Đấng sinh thành” : Mẫu nâng niu con ánh trăng/ Tiếng

chuyền cành, tiếng hú/ Da thịt con yêu trải sâu đêm tối / Dựng tầng mây mưa nguồn. “Cửa Mẫu” có 9 khúc, mỗi khúc đều được gắn với những hiện tượng,

những quy luật trong nhận thức vạn vật tương thông. Mỗi khúc vừa hé mở lại vừa khép kín những bí mật của vũ trụ, lúc thì như là sự giải thích, lúc lại như những câu sấm truyền tối nghĩa bằng thủ pháp ẩn dụ. Và, chính qua các khúc ấy góp phần hoàn thiện vẻ đẹp của hình tượng thiêng liêng. Có thể nói,“Cửa Mẫu” là một cố gắng tự khám phá thế giới tâm hồn, tìm vào tầng vô thức khám phá bí mật của Tạo Hóa. “Cửa Mẫu” không giải thích mà chỉ nêu hiện tượng cùng mối quan hệ rất bình thường của các quan hệ ấy. Có vẻ như, khi viết “Cửa Mẫu”, Mai Văn Phấn đang trong trạng thái “lên đồng”. Tác giả đã hóa thân thành một chủ thể hoàn toàn khác, có khả năng cảm thấy, nhìn thấy những thứ mà người trần mắt thịt bất lực. Ngôn ngữ “Cửa Mẫu” dồn nén, trơn tru, kéo dài thành những trường đoạn với hàng loạt câu ngắn phảng phất loại ca từ chầu văn, diễn tả thế giới mông lung nửa thần thánh nửa trần tục.

Yếu tố triết lý được loại bỏ ngay từ đầu, thay vào đó là những nghiệm sinh được đúc rút qua quá trình sống của các thế hệ được di truyền lại. Như vậy, “Mẫu” được tôn vinh như là thủy tổ của muôn loài, Cửa Mẫu chính là khởi nguồn của sự sống trên Hành Tinh Xanh. Hình tượng “Con” ẩn dụ vạn vật trong cuộc đấu tranh sinh tồn trong lịch sử tiến hóa. “Mẫu” là đấng toàn năng, khi sinh thành ra “Con” cũng là lúc Người trao cho nó cẩm nang sống. Hình ảnh “Con” vừa có tính cá thể, vừa mang tính quần thể, là hiện thân của sức quật cường trong hành trình tự khám phá mình để đến tương lai. Đây là những vần thơ cảm nhận sự huyền vi của Tạo hóa khi vạn vật đang sinh thành: Da thịt con yêu trải sâu đêm tối/ Dựng tầng mây mưa

nguồn/ Con lặng lẽ đi qua vầng mặt trời đáy nước/ Nhìn hướng bầu trời mở đôi cánh. Và sự sống nguyên thủy qua hình ảnh đảo ngược gây hiệu ứng siêu thực: Ngọn cây vươn mỏ con chim/ Đang cúi xuống mớm vào miệng con từng hớp gió.

Vượt lên trên hết là quy luật sinh diệt của vạn vật do “Mẫu” tạo nên cho thế giới tự nhiên, dạy “Con” thích ứng với hoàn cảnh: Tiếng hạt vỡ trong ngực/ Bơi qua sông

con nòng nọc đứt đuôi/ Tập vỗ cánh, quạt gió vào lòng tổ/ Bật lá mầm bay đi thênh thang.

“Mẫu” vừa là vũ trụ vĩ mô vừa là vũ trụ vi mô được nhận thức như là một ý niệm vô thủy vô chung. Nơi sinh ra cũng là nơi kết thúc của mỗi cá thể bởi phương thức cộng sinh. Phương pháp siêu thực kết hợp với biện pháp đảo trang, hòa đồng một cách ngẫu hứng côn trùng, thảo mộc, muông thú và con người trong trật tự khá hỗn loạn: Đặt con lên đất/ Lòng sông đau xé thân đêm/ … / Con bật khóc cuốn đi

lưới nhện/ Tiếng con vạc khàn khàn/ Tàng tro lóe sáng/ Mặt trăng run. Biện pháp

xen kẽ tư duy trực cảm của con người thời hiện tại với hành vi mang tính di truyền đẩy thời gian về trục quá khứ, nén chặt không gian sinh tồn, làm cho người và vật thay đổi vị trí của nhau. Đó chính là không gian hiện sinh, thời gian siêu thực được biểu đạt bằng ngôn ngữ thơ.

Như vậy, hình tượng “Mẫu” góp phần quan trọng vào việc hoàn thiện thế giới hình tượng con người trong thơ Mai Văn Phấn. Đó là cách nhà thơ đến gần hơn với thế giới tâm linh; là nền tảng quan trọng trong cách thức ứng xử giữa Con với Người, được thể hiện ở sự kính trọng, ngưỡng vọng với “Đấng sinh thành”. Qua đó, một lần nữa nhà thơ thể hiện những quan niệm mới mẻ cùng cái nhìn tinh tế đối với hiện thực ở bề sâu.

Một phần của tài liệu CẢM HỨNG TÔN GIÁO TRONG THƠ MAI VĂN PHẤN (Trang 67 - 70)

Tải bản đầy đủ (DOCX)

(121 trang)
w