C ẤU TRÚC CỦA CÂU ĐỐ

Một phần của tài liệu một số phương thức chơi chữ trong câu đố tiếng việt (Trang 52 - 56)

Như đã thuyết minh, dù là một văn bản tối giản vẫn có thể tiến hành khảo sát cả cấu trúc hình thức lẫn cấu trúc nội dung của văn bản đố. Và như ai nấy đều biết, mỗi văn bản là một hệ thống. Nói đến hệ thống, không thể không nhắc đến cấu trúc. cấu trúc được hiểu là tổ chức bên trong của hệ thống, là tập hợp tất cả các mối quan hệ, ở đây là quan hệ giữa các yếu tố làm nên văn bản và cũng là quan hệ giữa yếu tố với cả chỉnh thể hệ thống. Trên cơ sở lí luận này, luận văn sẽ tiến hành xem xét hai b1nh diện của văn bản đố.

1.4.1. C ấu trúc hình thức

Thông thường, về mặt hình thức, kết cấu các câu đố gồm có hai phần là phần đố (A) và phần giải (B). Chúng ta có thể rút từ phần đố A ra một phần khác là c - là lời gợi ý. Nói cách khác, c chính là những ngữ đoạn, những từ ngữ tập trung các tiêu điểm, được hiểu là chiếc ch1a khoa để mở ra câu trúc vật đố. Cách thức tổ chức văn bản như thế nào đó, có thể là trực tiếp hoặc gián tiếp, có thể hiển lộ hay hàm ẩn giúp cho người giải dựa vào đó để suy luận. Có thể khái quát cấu trúc hình thức bằng lược đồ sau:

Trong lược đồ trên, C như một hằng thể. Có thể hình dung cấu trúc hình thức của văn bản đố bằng một mô hình khác.

1.4.2. Câu trúc n ội dung

Câu đố được sáng tạo trên cơ sở vật đố đã có sẵn, đã được người ra đố tìm hiểu kĩ, rút ra những nét bản chất, tiêu biểu của nó, rồi mô tả trở lại một cách kì lạ, khác thường. Có thể gọi đây là quá trình dị hoá vật đố. Quá trình dị hoá này có thể dùng thủ pháp nhân hoá (biến con vật, đồ vật thành người)

Vừa bằng thằng bé lên ba

Thắt lưng con còn, chạy ra ngoài đồng - Bó mạ

vật hoá (biến con người thành đồ vật, con vật):

Con gì buổi sáng thì đi bốn chân Buổi trưa đi hai chân

Buổi chiều đi ba chân Buổi tối đi tám chân Con người

Đố giải giống như trò chơi xếp hình. Người sáng tác câu đố tháo tung các

"mảnh" đặc điểm của vật đố ra, dị hoa nó bằng thủ pháp tưởng tượng, chuyển hoá; còn người giải đố thì dựa vào óc suy luận, loại suy mà ráp các "mảnh" đặc điểm ấy lại để tìm ra vật đố. Như vậy, về mặt tư duy, ta thấy có hai cấu trúc là câu trúc nổi (nghĩa bề mặt) và cấu trúc ch1m (nghĩa bề sâu).

Ví dụ câu đố về cái bàn tay ở trên : Năm ông cùng ngồi một bàn

Cùng lo việc nước, cùng toan việc nhà Bốn ông tuổi đã lên ba

Một ông đã già tuổi mới lên hai.

Cấu trúc nổi: năm ông/ ngồi cùng bàn/ bốn ông ba tuổi/ một ông hai tuổi/ cùng làm việc nước, việc nhà.

Câu trúc chìm: năm ngón tay/ cùng một bàn tay/ bốn ngón ba đốt/ một ngón hai đốt/ khi cầm nắm thì cả năm ngón phối hợp nhau.

Câu trúc nổi chính là lời đố, bao gồm các đặc tính, đặc điểm của vật đố đã bị dị hoa còn vật đố với các đặc tính, đặc điểm thật được giấu đi chính là cấu trúc chìm. Vật đố được giấu đi nhờ các thao tác dị hoa, chuyển hoa bằng các phương thức ẩn dụ, hoán dụ, nhân hoa, vật hoa, đồng âm, đồng nghĩa, nói lái... dựa trên cơ sở sự tương đồng.

Hãy xem xét hai quy trình, quy trình đố và quy trình giải qua lược đồ sau:

Hai quá trình đố và giải diễn ra ngược chiều nhau.

Trong đó: - A : vật đố.

-a,b,c, d, ... n: các đặc tính của vật đố.

-a’, b, c’, d’ ... n’: các đặc tính của vật đố đã bị dị hoá trên cơ sở sự tương đồng.

-A’: vật đố đã bị dị hoá.

Cần thấy vai trò của liên tưởng trong quá trình giải - đố. Đối với quá trình đố, dù là dị hoá bằng các hình thức biểu đạt như đánh tráo khái niệm, gài bẫy, đánh lạc hướng, các biểu thức nghịch lí v.v. thì liên tưởng, có thể nói là thủ pháp có tính chất bao trùm, ở đây người ta dựa vào sự tương đồng hoặc tương cận để tạo lập văn bản đố. Ngược lại, đối với quá trình giải cũng vậy, muốn nắm bắt được vật đố, người giải cũng phải dựa vào liên tưởng, và cũng dựa vào tương đồng và tương cận. Do vậy, có thể nói rằng, quá trình đố - giải là trò chơi của trí tuệ; hơn thế nữa, đó còn là nghệ thuật của ngôn từ.

Một phần của tài liệu một số phương thức chơi chữ trong câu đố tiếng việt (Trang 52 - 56)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(99 trang)