CHƯƠNG 4: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU GẠO CỦA THÀNH PHỐ CẦN THƠ
4.1. THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU GẠO CỦA CẢ NƯỚC TỪ NĂM 2011 ĐẾN 6/2014
4.1.3. Về thị trường xuất khẩu
Sau 25 năm xuất khẩu cho đến nay, gạo Việt Nam đã đƣợc tin dùng và có mặt ở hơn 70 quốc gia và vùng lãnh thổ trên khắp thế giới. Đặc biệt Trung Quốc, Philippines, Malaysia, Indonexia và Singapo là những thị trường nổi bật hàng đầu của gạo Việt Nam xuất khẩu.
22,51 28,79
39,22
4,40
12,76
13,05
5,45
21,09 10,68 7,64
3,68
8,00
0,19
27,92
10,66
2,91
5,42 3,3
5,27
3,5
41,21 40,09
49,85
32,32
0%
10%
20%
30%
40%
50%
60%
70%
80%
90%
100%
2011 2012 2013 6th/2014
Trung Quốc Philippines Malaysia
Indonesia Singapore Các nước khác
Nguồn: Tổng cục thống kê, 2011-6th2014
Hình 4.3. Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam sang các thị trường trong giai đoạn 2011 – 6/2014
Qua biểu đồ trên, trong suốt giai đoạn từ năm 2011 đến 6 tháng đầu năm 2014, ta thấy giảm dần đang là xu hướng chung của gạo Việt Nam xuất khẩu sang các thị trường truyền thống như Philippines, Malaysia và đặc biệt là Indonesia. Trong 5 thị trường chính thì chỉ có riêng Trung Quốc là tăng không ngừng, còn Singapore thì từ năm 2013 đang có sự chuyển biến theo chiều hướng tích cực nhưng chưa thật sự được xem là quá lớn.
Là một nước láng giềng lâu đời của Việt Nam nhưng bắt đầu từ năm 2012 Trung Quốc mới bất ngờ trở thành thị trường chính của gạo xuất khẩu nước ta.
Với kim ngạch xuất khẩu đạt 826,73 triệu USD tương đương 22,51% thị phần thế giới vào năm 2012, Trung Quốc đã chính thức giành đƣợc ngôi vị quán quân thị trường gạo xuất khẩu của Việt Nam từ tay Indonexia năm trước. So
với năm 2011, kim ngạch xuất khẩu gạo Việt Nam sang Trung Quốc đã nhảy vọt tăng liền 666,04 triệu USD và 18,11% thị phần thế giới. Và sự tăng trưởng này không dừng lại ở đó khi năm 2013 tiếp tục là một năm huy hoàng của gạo Việt Nam trên đất Trung với kim ngạch xuất khẩu tăng thêm 22,63 triệu USD đạt 849,36 triệu USD. Tuy tăng trưởng không nhiều nhưng đặt biệt ở chỗ trong khi thời gian này gạo Việt Nam ở các thị trường khác không ngừng thu hẹp thì thị trường Trung Quốc lại có thể duy trì và phát triển. Tính đến 6 tháng đầu năm nay hiện Trung Quốc vẫn là thị trường tiêu thụ gạo số 1 Việt Nam với kim ngạch xuất khẩu chiếm 39,22% tổng kim ngạch thế giới tương đương 576,47 triệu USD nhiều hơn cả tổng của 4 thị trường còn lại. Giải thích cho sự tăng tưởng nhập khẩu khổng lồ này không gì khác chính là cung cầu gạo nước này còn khá chênh lệch, sản xuất trong nước không đủ dùng trong khi giá gạo xuất khẩu Việt Nam lại đặc biệt rẻ hơn các thị trường khác. Bên cạnh đó đối với quốc gia có lãnh thổ lớn gấp gần 30 lần nước ta này, thay vì điều từ nơi thừa sang nơi thiếu, nhập khẩu gạo với giá rẻ từ Việt Nam không chỉ giúp Trung Quốc đáp ứng đƣợc nhu cầu mà còn giải đƣợc bài toán kinh tế lớn về chi phí vận chuyển.
Philippines từ xưa đến nay vẫn là luôn là thị trường nổi bật nhập khẩu gạo Việt Nam nhất nhì nhƣng trong giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2013 lại có xu hướng giảm, mãi cho đến 6 tháng đầu năm nay mới bắt đầu có khởi sắc. Năm 2011 và 2012 do nhu cầu nhập khẩu giảm và chính sách nhập khẩu mới với chương trình cắt giảm tiến tới tự túc lương thựccủa chính phủ nước này, kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam sang Philippines giảm lần lƣợt là 476,32 và 468,51 triệu USD chiếm khoảng 13% tổng kim ngạch. Tuy không thể nói là ít nhưng so với trước đây hoặc nước dẫn đầu là Trung Quốc lại kém xa, chỉ bằng khoảng 55%. Sang năm 2013 – một năm đầy khó khăn với gạo xuất khẩu thì thị trường Philipines lại tiếp tục giảm không phanh với kim ngạch xuất khẩu gạo của nước ta giảm mất 307,84 triệu USD chỉ còn lại 160,67 triệu USD tương đương 34,29% kim ngạch năm trước. Đến đầu năm nay, may nhờ 3 hợp đồng buôn bán gạo lớn mà ta đã ký với Philippines mà kim ngạch xuất khẩu gạo sang nước này của ta đã được đẩy lên, có những biến chuyển tích cực đạt 309,98 triệu USD tương đương 21,09%, tăng gấp đôi kim ngạch và gần gấp 4 lần tỷ trọng của cả năm 2013 là 5,45%.
Nếu nói Trung Quốc là thị trường tăng không ngừng thì Indonesia lại là nước giảm không nghĩ nhập khẩu gạo Việt Nam trong suốt giai đoạn từ năm 2011 đến 6 tháng năm 2014. Chỉ trong thời gian 2 năm mà kim ngạch xuất khẩu gạo sang quốc gia này của nước ta đã giảm mất 2 con số từ 1.019,3 triệu USD chiếm 27,92% tổng kim ngạch xuống chỉ còn 85,72 triệu USD tương
Indonesia không ổn định. Năm 2011 do nhằm đảm bảo nguồn cung trong dịp tháng lễ Hồi giáo Ramadhan và ứng phó với vấn đề lạm phát gia tăng, giá cả hàng hóa leo thang nên lƣợng nhập khẩu mới đƣợc đẩy mạnh kéo theo kim ngạch tăng cao vƣợt hơn 1.000 triệu USD. Nhƣng bắt đầu từ năm 2012 trở đi, nhu cầu nhập khẩu của nước này đã giảm đi một cách đáng kể do lượng gạo dự trữ còn nhiều. Xấp xỉ lƣợng tăng lên của kim ngạch phía Trung Quốc, kim ngạch thị trường gạo Indonesia giảm 627,6 triệu USD năm 2012, tiếp tục giảm thêm 305,98 triệu USD vào năm 2013 và đến 6 tháng đầu năm 2014 thì chỉ còn 2,85 triệu USD, khoảng 0,19% tổng kim ngạch xuất khẩu gạo Việt Nam.
Nằm trong top thị trường truyền thống của xuất khẩu gạo Việt Nam, Malaysia và Singapore được xem là những thị trường đầy tiềm năng và hứa hẹn. Trái với thị trường Indonesia vụt tăng rồi vụt giảm, Malaysia và Singapore luôn duy trì độ ổn định, tăng giảm ở một mức độ vừa phải. Xét riêng Malaysia, ta thấy từ năm 2011 đến năm 2012 kim ngạch xuất khẩu gạo của nước ta sang nước này tăng thêm 100,03 triệu USD từ 292,09 lên 392,12 triệu USD, từ 8% lên 10,68%. Nhƣng do mục tiêu của Malaysia không phải là nhập khẩu gạo nên từ năm 2012 đến năm 2013 kim ngạch xuất khẩu lại giảm theo tình hình chung của gạo thế giới xuống chỉ còn 225,49 triệu USD tương đương 7,64%, sụt 166,63 triệu USD. Mặc dù giảm nhưng Việt Nam vẫn là nước cung cấp gạo hàng đầu cho Malaysia, hằng năm chiếm tỉ trọng cao trong 30% phần lúa gạo còn lại cần phải nhập khẩu của quốc gia này. Gần đây nhất trong 6 tháng đầu năm nay, kim ngạch xuất khẩu gạo của nước ta sang Malaysia đạt 54,16 triệu USD chiếm 3,68% tổng kim ngạch. Về phía Singapore, kim ngạch xuất khẩu gạo của nước ta từ năm 2011 đến nay lần lượt là 197,91 triệu USD, 121,28 triệu USD; 155,38 triệu USD và 51,52 triệu USD, tương đương 5,42% , 3,3% , 5,27% và 3,5%. Có tăng có giảm tùy từng năm nhƣng chênh lệch không quá nhiều, khác biệt lớn nhất là từ năm 2011 chuyển sang năm 2012 giảm 76,63 triệu USD. Từ năm 2013, trái ngƣợc với đa số thị trường quen thuộc khác giảm thì một số doanh nghiệp Singapore lại bày tỏ sự quan tâm lớn tới gạo Việt Nam, nâng tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu tăng trở lại.
Vì may thay các chủng loại gạo Việt Nam đều đáp ứng đƣợc nhu cầu của thị trường này, đặc biệt là gạo Jasmine. Mà Singapore ngoài là thị trường tiêu dùng còn được biết đến là thị trường trung chuyển, trung tâm thương mại của ASEAN, trung chuyển gạo sang các đảo của Indonesia, Philippines và một số nước thuộc châu Phi. Vì thế có thể nói Đảo quốc Sư tử này trong tương lai hứa hẹn sẽ là một cây cầu nối đầy triển vọng cho gạo Việt Nam xuất khẩu.
Tóm lại, tình hình xuất khẩu gạo qua các thị trường của Việt Nam trong giai đoạn 2011 – 6th2014 diễn ra phức tạp và gần đây không mấy khả quan với
sản lƣợng và giá giảm kéo theo kim ngạch chuyển biến xấu. Trong đó, các thị trường truyền thống đã bảo hòa, không có khả năng phát triển thêm và nhu cầu thay đổi bất thường phụ thuộc nhiều vào điều kiện thời tiết cũng như các dịp lễ.
Còn Trung Quốc và Singapore được đánh giá là những thị trường triển vọng với sản lượng đang có xu hướng tăng lên. Riêng ở Cần Thơ, tính đến thời điểm này Singapore đã vượt mặt Trung Quốc trở thành thị trường xuất khẩu gạo số 1 của Thành phố về sản lƣợng. Hằng năm, sản lƣợng và kim ngạch xuất khẩu gạo của Cần Thơ chiếm từ 11-12% cả nước, năm mới đây 2013 tăng lên được 14% thì trong đó một mình Singapore đã chiếm gần 1/7 mà chính xác là khoảng 1,8%.
4.2. THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU GẠO CỦA THÀNH PHỐ CẨN THƠ TỪ NĂM 2011 ĐẾN 6/2014