Phong cách văn chương

Một phần của tài liệu Giáo trình Phong cách học tiếng Việt (Trang 35 - 44)

II- MIÊU TẢ CÁC PCCN NGÔN NGỮ TIẾNG VIỆT

6- Phong cách văn chương

PC văn chương ( còn gọi là PC nghệ thuật) là PC được dùng trong sáng tác văn chương. PC này là dạng tồn tại toàn vẹn và sáng chói nhất của ngôn ngữ toàn dân. PC văn chương không có giới hạn về đối tượng giao tiếp, không gian và thời gian giao tiếp.

b- Chức năng và đặc trưng:

1- Chức năng: PC ngôn ngữ văn chương có ba chức năng: thông báo, tác động, thẩm mĩ. Việc thực hiện chức năng của phong cách văn chương không bằng con đường trực tiếp như ở các PC khác mà bằng con đường gián tiếp thông qua hình tượng văn học.

2- Ðặc trưng: PC văn chương có ba đặc trưng:

2.1- Tính cấu trúc: Mỗi tác phẩm văn chương là một cấu trúc. Các thành tố nội dung tư tưởng, tình cảm , hình tượng và các thành tố ngôn ngữ diễn đạt chúng không những phụ thuộc vào nhau mà còn phụ thuộc vào hệ thống nói chung. Trong tác phẩm văn chương, có khi chỉ cần bỏ đi một từ hay thay bằng một từ khác là đủ làm hỏng cả một câu thơ, phá tan nhạc điệu của nó, xoá sạch mối quan hệ của nó với hoàn cảnh xung quanh. Từ nghệ thuật không sống đơn độc, tự nó, vì nó, từ nghệ thuật đứng trong đội ngũ, nó góp phần mình vào các từ đồng đội khác. Tính cấu trúc là điều kiện của cái đẹp.

Một yếu tố ngôn ngữ chỉ có được ý nghĩa thẩm mĩ khi nằm trong tác phẩm. Chính là trên cái nền văn bản phù hợp mà từ ngữ có thể thay đổi ý nghĩa: cũ kĩ hay mới mẻ, dịu dàng hay thâm độc, trang trọng hay hài hước...[8,140]

2.2- Tính hình tượng: Ngôn ngữ văn chương được xem là công cụ cơ bản để xây dựng hình tượng văn học Khi khảo sát, đánh giá ngôn ngữ văn chương phải xem xét ngôn ngữ ở đây đã góp phần xây dựng và thể hiện hình tượng văn học như thế nào. Khi giao tiếp ở phong cách khẩu ngữ, người ta có thể dùng những từ ngữ bóng bẩy, văn hoa, giàu hình ảnh và sắc thái biểu cảm nhưng hiệu quả ở đây còn tuỳ thuộc vào người nói là ai, nói trong hoàn cảnh nào và vì mục đích gì. Giao tiếp ở phong cách này, người phát ngôn có vai trò quyết định: Miệng nhà quan có gang, có thép; Vai mang túi bạc kè kè.

Nói ấm nói ớ, người nghe ầm ầm. Trong khi đó, ở phong cách văn chương, địa vị cao thấp, sang hèn của nhà văn nhà thơ không đóng vai trò quyết định nhiều. Tính hình tượng của ngôn ngữ văn chương bắt nguồn từ chỗ đó là ngôn ngữ của một chủ thể tư tưởng thẩm mĩ xã hội có tầm khái quát nhất định. Chính vì thế ngôn ngữ văn chương dễ đi vào lòng người, nó trở thành ngôn ngữ của muôn người.

Tính hình tượng trong phong cách văn chương thể hiện ở chỗ ngôn ngữ ở đây có khả năng truyền đạt sự vận động, động tác nội tại của toàn bộ thế giới, cảnh vật, con người vào trong tác phẩm. Ngôn ngữ trong phong cách khẩu ngữ cũng có khả năng này nhưng nó không là điều bắt buộc. Trong văn chương, trái lại, đó là điều không thể thiếu.

Ngôn ngữ văn chương phải làm sống dậy các động tác, vận động đầy ý nghĩa của sự vật trong những thời khắc nhất định.

Bất kỳ một phương tiện từ ngữ nào trong một văn cảnh nhất định đều có thể chuyển thành một từ ngữ nghệ thuật, nếu có thêm một nét nghĩa bổ sung nào đó.

2.3- Tính cá thể hoá: Tính cá thể hoá được hiểu là dấu ấn phong cách tác giả trong tỏc phẩm văn chương. Dấùu ấn PC tỏc giả là cỏi thuộc về đặc điểm bản thể, thuộc về điều kiện bắt buộc của ngôn ngữ văn chương. Sêkhôp nói: Nếu tác giả nào không có lối nói riêng của mình thì người đó sẽ không bao giờ là nhà văn cả. Lối nói riêng mà Sêkhôp gọi chính là PC tác giả. Xét về mặt ngôn ngữ, PC tác giả thể hiện ở hai dấu hiệu:

- Khuynh hướng ưa thích và sở trường sử dụng những loại phương tiện ngôn ngữ nào đó của tác giả;

- Sự sáng tạo ngôn ngữ của tác giả c- Ðặc điểm:

1- Ngữ âm: Trong PCVC, những yếu tố ngữ âm như: âm, thanh, ngữ điệu, tiết tấu, âm điệu rất quan trọng. Có thể nói, tất cả những tiềm năng của ngữ âm tiếng Việt đều được vận dụng một cách nghệ thuâtû để đáp ứng nhu cầu thẩm mĩ về mặt ngữ âm của người đọc, người nghe. Hầu như mọi biến thể của ngữ âm tiếng Việt đều được khai thác.

2- Từ ngữ: Từ ngữ trong PCVC rất đa dạng, gồm cả từ phổ thông và từ địa phương, biệt ngữ; từ hiện đại và từ lịch sử, từ cổ; từ khiếm nhã và từ trang nhã. Từ trong sinh hoạt bình thường chiếm tỉ lệ cao, song vẫn xuất hiện đủ các lớp từ văn hoá, kể cả thuật ngữ khoa học. Nguyên nhân là tác phẩm văn chương có chức năng phản ánh mọi khía cạnh của cuộc sống muôn màu muôn vẻ. Nhờ sử dụng toàn bộ các phương tiện biểu hiện mà PCVC luôn luôn chuyển đổi, biến động, luôn luôn đa dạng mới mẻ trong cách phô diễn.

3- Cú pháp: PCVC sử dụng hầu như tất cả các kiểu cấu trúc câu. Song cấu trúc câu đơn vẫn chiếm tỉ lệ cao.

PCVC thường sử dụng các loại câu mở rộng thành phần định ngữ, trạng ngữ và các loại kết cấu tu từ như đảo ngữ, sóng đôi cú pháp, câu chuyển đổi tình thái... Ví dụ:

-Thuyền về nước lại sầu trăm ngả Củi một cành khô lạc mấy dòng

(Tràng giang- Huy Cận) -Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc?

Khi lòng ta đã hoá những con tàu, Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu?

( Tiếng hát con tàu- Chế Lan Viên) * Bài tập thực hành:

1- Hãy xác định phong cách chức năng và thuyết minh đặc trưng, đặc điểm ngôn ngữ của những ví dụ sau :a-Theo Tổng cục Khí tượng thủy văn và Ban chỉ đạo Phòng chống lụt bão Trung ương, tình hình thời tiết năm nay diễn tiến phức tạp trên toàn cầu, nhiều nơi xảy ra lũ lụt lớn. Trung Quốc là nước láng giềng với ta đã xảy ra lũ lụt trên địa bàn rộng, đông dân cư gây thiệt hại lớn về người và tài sản. Ở nước ta thời tiết diễn biến phức tạp. Ngay từ đầu năm đã có lũ lớn ở các tỉnh miền núi phía Bắc; miền Trung hạn hán kéo dài. Từ nay đến cuối năm tình hình thời tiết còn diễn biến phức tạp, chưa thể dự đoán chính xác được. Ðể chủ động đề phòng thiên tai có thể xảy ra, Bộ yêu cầu các đồng chí Giám đốc kiểm tra đôn đốc các đơn vị cấp dưới thực hiện nghiêm chỉnh công tác PCLB năm 1998 và đặc biệt lưu ý các đơn vị, Sở có hàng hoá, vật tư trên địa bàn xung yếu thuộc Hà Tây, Hà Nội, Hưng Yên, Bắc Ninh thường xuyên theo dõi các tình huống cụ thể để đề phòng lũ lụt xảy ra, nhằm giảm thiệt hại đến mức thấp nhất về người và tài sản.

Bộ sẽ làm việc cụ thể với một số Tổng công ty, công ty để giao nhiệm vụ, chuẩn bị phương tiện vận tải ( ô tô các loại, tàu, sà lan...) và lực lượng tự vệ xung kích để khi cần Trung ương có thể huy động ngay được.

b- Các dấu chấm câu

Có người đánh mất dấu phẩy, trở nên sợ những phức tạp, cố tìm những câu đơn giản. Ðằng sau những câu đơn giản là những ý nghĩ đơn giản.

Sau đó anh ta đánh mất dấu chấm than và bắt đầu nói khe khẽ, không có ngữ điệu. Chẳng còn gì làm anh ta sung sướng hay phẫn nộ. Anh ta thờ ơ với mọi chuyện.

Kế đó anh ta đánh mất dấu hỏi và chẳng bao giờ hỏi gì nữa. Mọi sự kiện bất kỳ xảy ra ở đâu, dù ở trên vũ trụ, trên mặt đất hay ngay trong nhà anh ta, cũng không làm anh ta quan tâm.

Một vài năm sau anh ta quên mất dấu hai chấm và không còn giải thích hành vi của mình nữa. Cuối đời anh ta chỉ còn lại dấu ngoặc kép mà thôi. Anh ta không phát biểu được một ý kiến nào riêng của mình nữa, lúc nào cũng trích dẫn lời người khác.

Thế là anh ta quên mất cách tư duy hoàn toàn.

Cứ như vậy anh ta đi cho tới dấu chấm hết.

Xin hãy giữ những dấu chấm câu của mình .

c- Tuyên ngôn độc lập

Hồ Chí Minh Hỡi đồng bào cả nước,

Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.

Lời bất hủ ấy trong bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mĩ. Suy rộng ra, câu ấy có nghĩa là: Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.

Bản Tuyên ngôn độc lập và Dân quyền của cách mạng Pháp 1791 cũng nói :

Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi.

Ðó là những lẽ phải không ai chối cãi được.

Thế mà hơn 80 năm nay, thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa.

Về chính trị, chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do nào.

Chúng thi hành những luật pháp dã man. Chúng lập ba chế độ khác nhau ở Trung, Nam, Bắc để ngăn cản việc thống nhất nước nhà của ta, để ngăn cản dân tộc ta đoàn kết.

Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu.

Chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân. Chúng dùng thuốc phiện, rượu cồn để làm cho nòi giống ta suy nhược.

Về kinh tế, chúng bóc lột dân ta đến tận xương tủy, khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều, chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu.

Chúng giữ độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng.

Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lí, làm cho dân ta, nhất là dân cày và buôn bán, trở nên bần cùng.

Chúng không cho các nhà tư sản của ta ngóc đầu lên. Chúng bóc lột công nhân ta một cách vô cùng tàn nhẫn.

Mùa thu năm 1940, phát xít Nhật đến xâm lăng Ðông Dương để mở thêm căn cứ đánh Ðồng Minh, thì bọn thực dân Pháp quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước ta rước Nhật.

Từ đó dân ta chịu hai tầng xiềng xích: Pháp và Nhật. Từ đó, dân ta càng cực khổ, nghèo nàn. Kết quả là cuối năm ngoái sang đầu năm nay, từ Quảng Trị đến Bắc Kì, hơn hai triệu đồng bào ta chết đói.

Ngày 9 tháng 3 năm nay, Nhật tước khí giới của quân đội Pháp. Bọn thực dân Pháp hoặc là bỏ chạy, hoặc là đầu hàng. Thế là chẳng những chúng không bảo hộ được ta, trái lại, trong 5 năm, chúng đã bán nước ta hai lần cho Nhật.

Trước ngày 9 tháng 3, biết bao lần Việt Minh đã kêu gọi người Pháp liên minh để chống Nhật. Bọn thực dân Pháp đã không đáp ứng, lại thẳng tay khủng bố Việt Minh hơn nữa. Thậm chí đến khi thua chạy, chúng còn nhẫn tâm giết nốt số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng.

Tuy vậy, đối với người Pháp, đồng bào ta vẫn giữ một thái độ khoan hồng và nhân đạo. Sau cuộc biến động ngày 9 tháng 3, Việt Minh đã giúp cho nhiều người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật và bảo vệ tính mạng và tài sản của họ.

Sự thật là từ muà thu 1940, nước ta đã trở thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải là thuộc địa của Pháp nữa. Khi Nhật hàng Ðồng Minh, thì nhân dân cả nước ta nổi dậy giành chính quyền, lập nên Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.

Sự thật là dân ta lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật chứ không phải từ tay Pháp.

Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Ðại thoái vị. Dân ta đánh đổ các xiềng xích của thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỉ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hoà.

Bởi thế cho nên, chúng tôi, Lâm thời Chính phủ của nước Việt Nam mới, đại biểu cho toàn dân Việt Nam, tuyên bố thoát li hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xoá bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã kí về nước Việt Nam, xoá bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam.

Toàn dân Việt Nam, trên dưới một lòng kiên quyết chống lại âm mưu của thực dân Pháp.

Chúng tôi tin rằng các nước Ðồng Minh đã công nhận những nguyên tắc dân tộc bình đẳng ở các Hội nghị Têhêrăng và Cựu Kim Sơn, quyết không thể không công nhận quyền độc lập của dân tộc Việt Nam.

Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay. Một dân tộc đã gan góc đứng về phe Ðồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!

Vì những lẽ trên, chúng tôi, Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, trịnh trọng tuyên bố với thế giới nước Việt Nam có quyền được hưởng tự do và độc lập và sự thực đã trở thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy.

d-

Ông Bảo:- Thằng Chiến nhà ông thi mấy trường?

Ông Hùng:- Thì phải đủ ba lần mèo mới chịu mở mắt ra mà lị.

Ông Bảo:- Liệu có đỗ cả không?

Ông Hùng:- Thấy cháu nó nói là làm được. Cũng chưa biết thế nào. Không được thì toi mất hơn tấn luá.

Ông Bảo:- Có không đỗ thì một lần ra Hà Nội cũng sướng. Tôi ngần này tuổi chưa biết Hà Nội Hà ngoại ở đâu.

Ông Hùng:- Hôm thi xong tôi bảo, đỗ đâu chưa biết hai bố con cứ phải ra bờ Hồ ăn một bữa kem cho đã miệng cái đã.

Ông Bảo:- Chắc là ngon lắm?

Ông Hùng:- Tuyệt. Ðời tôi... là lần đầu.

Ông Bảo:- Ông nói mà tôi phát thèm.

Ông Hùng:- Kem Hà Nội thứ thiệt chứ không dởm như quê mình, đúng là tiền nào của ấy.

Ông Bảo:- Mấy trăm một que?

Ông Hùng:- Hà Nội làm gì có kem mấy trăm. Một ngàn. Chỗ nào cũng một ngàn.

Ông Bảo:- Thế ngon là phải. Quê mình có hai trăm. Rẻ thế nhưng con mẹ Ly bán kem cũng giàu nhanh ra phết.

Ông Hùng:- Nó mới bỏ chồng hay sao ấy nhỉ?

Ông Bảo:- Ừ. Ði theo thằng... thằng... thằng Tú chớp ảnh trên phố huyện. Anh ta cũng có con thi đại học đợt này đấy.

e- Con chó chết vào giữa cái hồi đói khủng khiếp mà có lẽ đến năm 2000, con cháu chúng ta vẫn còn kể lại cho nhau nghe để rùng minh. Không phải chết vì chủ nó không tìm nổi mỗi ngày vài lạng thịt bò để cho nó ăn. Anh Hoàng là một nhà văn, nhưng đồng thời cũng là một tay chợ đen rất tài tình. Khi chúng tôi đến nỗi chỉ còn một giúm xương và rất nhiều bản thảo chẳng biết bán cho ai, anh Hoàng vẫn phong lưu. Con chó của anh chưa phải nhịn bữa nào. Nhưng xác người chết đói ngập đường phố. Nó chết có lẽ vì chén phải thịt người ươn hay là vì hít phải nhiều xú khí. Thảm hại thay cho nó!

Thế mà bây giờ đến thăm anh Hoàng ở chỗ gia đình anh tản cư về, cách Hà Nội hàng trăm cây số, tôi lại được nghe đến một con chó dữ. Thật là thú vị!..

Tôi cười nho nhỏ. Chẳng biết tôi cười gì, anh thanh niên cũng nhe những chiếc răng vẩu ra cười. Ðáp lại tiếng anh gọi, tiếng những chiếc guốc mỏng manh quét trên sân gạch nổi lên, lẹc khẹc và mau mắn. Một thằng bé mũ nồi đen, áo len xám chạy ra.

Một đôi mắt đen láy nhìn tôi...

f- Sự phát triển của các biến thể phương ngữ cho thấy sự tiến hoá liên tục của ngôn ngữ. Càng xa các trung tâm văn hoá, kinh tế, thương mại thì ngôn ngữ càng ít biến

Một phần của tài liệu Giáo trình Phong cách học tiếng Việt (Trang 35 - 44)

Tải bản đầy đủ (DOC)

(79 trang)
w