CHƯƠNG 2 TÌNH HÌNH THỰC TIỄN VÀ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ
2.4 Quy định của pháp luật hiện hành về hôn nhân đồng giới và một số bất cập
2.4.1 Quy định của pháp luật về hôn nhân đồng giới
Xem qua hệ thống văn bản luật được ban hành từ trước đến nay, có thể nhận thấy người đồng tính và mối quan hệ của họ hầu như không được Nhà nước quan tâm. Cơ sở pháp lý để điều chỉnh mối quan hệ giữa những người cùng giới tính chỉ xuất hiện cùng với sự ra đời của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000. Nên khi tìm hiểu về quy định của pháp luật Việt Nam, người viết tạm thời chia ra thành hai giai đoạn.
2.4.1.1 Giai đoạn trước khi Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 có hiệu lực
Dưới thời kỳ quân chủ phong kiến từ năm 938 đến năm 1858; với hai bộ luật tiêu biểu: Quốc triều Hình luật (Luật Hồng Đức) ban hành dưới triều Lê và Bộ luật Gia Long
GVHD: Huỳnh Thị Trúc Giang 30 SVTH: Lâm Thanh Trường (Hoàng Việt luật lệ) ban hành dưới triều Nguyễn, đã có những quy định tương đối cụ thể về thể chế hôn nhân. Đây là giai đoạn mà mọi giá trị về đạo đức và văn hóa truyền thống được đề cao hàng đầu. Với vị thế là một đất nước phương Đông có nền văn minh gắn chặt gia đình trong vai trò là đơn vị xã hội cơ bản. Xã hội Việt Nam xem trọng việc gắn bó giữa các cá thể với tập hợp gia đình – xã hội, coi đó là mối liên kết thiêng liêng và đáng trân trọng. Quyền hôn nhân của mỗi người vì thế bị hạn chế, bởi lợi ích của cộng đồng. Tinh thần của pháp luật là việc kết hôn phải được thực hiện giữa hai người khác nhau về giới tính. Tuy luật cổ không minh thị rõ ràng về trường hợp quan hệ đồng giới, song có thể hiểu mục đích cốt yếu của hôn nhân thời kỳ này là sinh con đẻ cái, “nối dõi tông đường”; nên mặc nhiên, giai cấp thống trị không chấp nhận việc kết hôn giữa hai người cùng là nam hoặc cùng là nữ.
Chế độ hôn nhân và gia đình dưới thời Pháp thuộc được thể hiện rõ trong văn bản pháp lý đặc trưng của nhà cầm quyền lúc này là: Tập Dân luật giản yếu An Nam – Précis de la législation civile annamite 1883. Chính quyền thực dân Pháp không cấm đoán hành vi đồng tính trong các thuộc địa. Mại dâm nữ là phạm pháp nhưng lại không đề cập đến mại dâm nam, dù mại dâm nam đã xuất hiện khá nhiều nhằm phục vụ cho các thương nhân Trung Quốc và các binh sĩ Pháp. Mặc dù thời kỳ này ít nhiều bị ảnh hưởng bởi văn hóa phương Tây, vốn đề cao tự do cá nhân; nhưng do có sự tương tác với yếu tố văn hóa cổ truyền của dân tộc, nên có thể hiểu trên tinh thần chung là không ghi nhận hôn nhân thực hiện giữa hai người cùng giới tính.
Thời kỳ trước ngày 30 tháng 04 năm 1975, ở miền Nam, với hệ thống các văn bản luật như: Luật Gia đình số 1/59 ngày 02 tháng 11 năm 1959, do Ngô Đình Diệm ban hành, Sắc lệnh số 15/64 ngày 23 tháng 7 năm 1964, Bộ dân luật ban hành ngày 20 tháng 12 năm 1972 dưới thời Ngô Văn Thiệu và kể cả Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1959 được sử dụng ở miền Bắc. Mặc dù không có quy định cụ thể về việc cấm kết hôn đồng giới, nhưng luật thời kỳ này vẫn chỉ coi trọng chế độ hôn nhân được xác lập giữa nam và nữ. Cụ thể tại điều 4 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 có đề cập: “Con trai và con gái đến tuổi, được hoàn toàn tự nguyện quyết định việc kết hôn của mình; không bên nào được ép buộc bên nào, không một ai được cưỡng ép hoặc cản trở”.
Trên cơ sở kế thừa Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1959; Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986 vẫn như nguyên điều 4 quy định về chế độ hôn nhân, và thêm vào đó là các trường hợp bị cấm kết hôn như: cấm cưỡng ép, cấm cản trở tính tự nguyện tiến bộ...
Nhưng lại chưa có cơ sở pháp lý nào để điều chỉnh quan hệ giữa những người cùng giới tính. Có lẽ tình hình đất nước lúc bấy giờ chỉ đang trong giai đoạn đổi mới, đa số quan điểm của người dân vẫn cho rằng quan hệ đồng giới là trái vơi lẽ tự nhiên, đáng chê
GVHD: Huỳnh Thị Trúc Giang 31 SVTH: Lâm Thanh Trường trách, tiếng nói dư luận xem đây là hiện tượng không phù hợp với thuần phong mỹ tục.
Nên trong phạm vi kiểm soát, luật vẫn chưa khái quát đến quan hệ giữa những người đồng tính. Thực tế cho thấy thời điểm Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 có hiệu lực, những đám cưới đồng tính đã manh nha xuất hiện: Đám cưới đồng tính nam đầu tiên được ghi nhận tại Việt Nam diễn ra vào ngày 7/4/1997 tại Thành phố Hồ Chí Minh; ngày 7/3/1998 một đám cưới đồng tính nữ cũng đã được tổ chức tại Vĩnh Long, sau khi tổ chức tiệc cưới họ đã mạnh dạn đi đăng ký kết hôn nhưng yêu cầu của đó đã bị cơ quan có thẩm quyền về đăng ký và quản lý hộ tịch thẳng thừng từ chối do pháp luật không có quy định nào về việc kết hôn giữa những người cùng giới tính22. Tuy nhiên Nhà nước vẫn đứng ngoài cuộc, không thể xử phạt hoặc giải quyết theo một hình thức nào khác vì không có quy định về các trường hợp kết hôn đồng giới trong luật.
2.4.1.2 Giai đoạn từ khi Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 có hiệu lực
Xuất phát từ nguyên nhân số lượng người đồng tính công khai xu hướng tính dục ngày càng nhiều trong xã hội, cùng với hàng loạt lễ cưới đồng giới được ghi nhận từ những năm cuối thập kỷ 90; trong khi giai đoạn Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986 còn hiệu lực lại không có biện pháp xử lý thích hợp. Nên sau một thời gian dài không đề cập đến quan hệ đồng giới; khoản 5 điều 10, Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam năm 2000 đã có quy định: Cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính. Về nguyên tắc lập pháp, luật sẽ cấm đối với một hành vi, khi mà việc thực hiện hành vi đó được xác định là tác động tiêu cực đến các yếu tố tổng thể về mặt xã hội lẫn chế độ pháp lý. Vì vậy, việc cấm những người đồng tính kết hôn với nhau chứng tỏ Nhà nước và cơ quan lập pháp nhận định đây là hành vi sai trái, cần được ngăn chặn, loại bỏ.
Như đã trình bày trên phương diện luật pháp, Việt Nam chỉ nhìn nhận con người với một giới tính cụ thể là nam hoặc là nữ, dựa vào yếu tố sinh học. Trong khi hai người cùng giới tính công khai quan hệ với nhau lại thuộc vào bình diện tâm lý xã hội. Những người đồng tính có nhu cầu về hôn nhân đồng giới cho rằng họ đang sống thật với giới tính của mình, bỏ ngoài những yếu tố đang có về mặt sinh học (thân thể, cơ quan sinh dục…). Khai triển từ cách lí giải này cho thấy hai người cùng giới tính nếu có nhu cầu về hôn nhân, áp dụng quy định của pháp luật về điều kiện và thủ tục kết hôn; thì đề nghị kết hôn của họ sẽ đương nhiên bị cơ quan có thẩm quyền thực hiện việc đăng ký hộ tịch từ chối chấp nhận. Đồng thời nếu cho phép kết hôn đồng giới sẽ không quán triệt được tinh thần chung của pháp luật hiện hành là chỉ hợp pháp hóa quan hệ hôn nhân được xác lập giữa hai chủ thể khác nhau về giới tính.
22 Tổng quan về đồng tính tại Việt Nam, Cổng thông tin điện tử ICS Việt Nam
http://www.ics.org.vn/hieu-ve-lgbt/tam-ly/243-tong-quan-dong-tinh-tai-viet-nam.html [truy cập ngày 23/9/2012].
GVHD: Huỳnh Thị Trúc Giang 32 SVTH: Lâm Thanh Trường Để hoàn thiện hơn các chế định pháp lý nhằm bảo vệ chế độ hôn nhân dị giới, Luật Hôn nhân và Gia đình cũng đã quy định điều kiện kết hôn như sau: nam từ hai mươi tuổi trở lên, nữ từ mười tám tuổi trở lên; việc kết hôn phải do các bên tự nguyện quyết định, không bên nào được ép buộc, lừa dối bên nào; không ai được cưỡng ép hoặc cản trở23 quan trọng hơn là việc kết hôn phải không thuộc vào một trong các trường hợp cấm kết hôn trong đó có kết hôn giữa những người cùng giới tính24.
Ngoài ra tại Nghị định 158/2005/NĐ-CP Về đăng ký và quản lý hộ tịch, cũng đã có cơ sở pháp lý cụ thể cho việc xác lập quan hệ hôn nhân. Theo đó khi đến cơ quan đăng ký hộ tịch để làm thủ tục kết hôn, thì hai bên sẽ điền đầy đủ thông tin liên quan đến bản thân từng người vào tờ khai đăng ký kết hôn cùng với việc xuất trình giấy chứng minh để cán bộ đăng ký hộ tịch thực hiện việc đối chiếu. Đặt trường hợp hai người cùng giới tính muốn được công nhận việc kết hôn thì trong quá trình tiến hành thủ tục đăng ký kết hôn họ sẽ phải chứng minh cho cán bộ hộ tịch thấy về sự khác biệt giới tính của mình. Pháp luật tuy cấm việc kết hôn xảy ra giữa hai người cùng giới tính, nhưng không xem việc hai người cùng giới yêu cầu được đăng ký kết hôn là hành vi phạm pháp hay phải bị xử phạt. Bởi vì, nếu đương sự đủ điều kiện thì sẽ được cho phép tiến hành đăng ký kết hôn, không đủ điều kiện thì sẽ bị từ chối. Như vậy sự khác biệt về giới tính được xem là điều kiện tiên quyết khi hai bên muốn dùng quyền kết hôn để xác lập quan hệ hôn nhân.
Chính vì điều đó nên khi căn cứ theo quy định của pháp luật Việt Nam sẽ không có khái niệm quan hệ hôn nhân đồng giới với đầy đủ tư cách pháp lý.
Biện pháp chế tài khi xảy ra hành vi vi phạm: Khi Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 ra đời; song song với quy định cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính, đã đề ra hình thức chế tài đối với hành vi kết hôn đồng giới. Do hôn nhân đồng giới là hành vi kết hôn trái luật, vi phạm điều kiện về kết hôn. Nên khoản 5, điều 10 được xem là căn cứ để xét xử và hủy việc kết hôn giữa hai người cùng giới tính. Đồng thời mức xử phạt được quy định tại khoản 1, điều 8, Nghị đinh 87/2001/NĐ-CP Về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình như sau: “phạt tiền từ 100.000 đồng đến 500.000 đồng đối với hành vi quy phạm quy định cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính; đồng thời buộc chấm dứt quan hệ hôn nhân trái pháp luật”.
23 Điều 9, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 (sửa đổi bổ sung năm 2010)
24 Khoản 5, Điều 10, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 (sửa đổi bổ sung năm 2010)