1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Ước lượng cầu giáo dục phổ thông ở hộ gia đình việt nam

151 13 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Ước Lượng Cầu Giáo Dục Phổ Thông Ở Hộ Gia Đình Việt Nam
Tác giả Trần Chí Long
Người hướng dẫn PGS. TS Phạm Đình Long
Trường học Trường Đại Học Mở Thành Phố Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Kinh tế học
Thể loại luận văn thạc sĩ
Năm xuất bản 2020
Thành phố Thành Phố Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 151
Dung lượng 3,04 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU (16)
    • 1.1. Lý do nghiên cứu (16)
    • 1.2. Mục tiêu của nghiên cứu (17)
    • 1.3. Câu hỏi của nghiên cứu (17)
    • 1.4. Đối tượng nghiên cứu (17)
    • 1.5. Phạm vi của nghiên cứu (18)
    • 1.6. Dữ liệu và phương pháp nghiên cứu (18)
    • 1.7. Ý nghĩa của nghiên cứu (19)
    • 1.8. Kết cấu luận văn (19)
  • CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT (21)
    • 2.1. Lý thuyết cầu về hàng hóa (21)
    • 2.2. Lý thuyết đầu tư giáo dục (22)
    • 2.3. Lý thuyết cầu người tiêu dùng và sự hình thành hàm cầu (26)
    • 2.4. Tối đa hóa độ thỏa dụng và sự hình thành hàm cầu Marshall (28)
    • 2.5. Tối thiểu hóa chi phí và sự hình thành hàm cầu Hicks (30)
    • 2.6. Lý thuyết độ co giãn của cầu ....................................................................... 16 2.7. Lý thuyết về mô mình kinh tế lượng sử dụng cho phân tích cầu tiêu dùng 18 (31)
      • 2.7.1. Mô hình phương trình đơn (33)
      • 2.7.2. Mô hình ước lượng AIDS (34)
    • 2.8. Các nghiên cứu trước (37)
    • 2.9. Khung phân tích (47)
  • CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU (48)
    • 3.1. Quy trình từng bước nghiên cứu (48)
    • 3.2. Mô hình nghiên cứu (50)
    • 3.3. Giả thuyết nghiên cứu (51)
    • 3.4. Phương pháp thống kê mô tả (53)
    • 3.5. Mô hình SUR (53)
    • 3.6. Sử dụng kinh tế lượng để ước lượng mô hình hàm cầu giáo dục phổ thông (55)
    • 3.7. Mô tả dữ liệu của nghiên cứu (58)
  • CHƯƠNG 4: PHÂN TÍCH KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU (62)
    • 4.1. Thống kê mô tả (62)
      • 4.1.1. Chi tiêu dịch vụ giáo dục phổ thông theo thu nhập và quy mô hộ (62)
      • 4.1.2. Chi tiêu dịch vụ giáo dục theo vùng và khu vực (65)
      • 4.1.3. Thống kê mô tả chi tiêu cho dịch vụ giáo dục (68)
    • 4.2. Các kết quả ước lượng của mô hình (70)
      • 4.2.1. Ước lượng hệ số co giãn của cầu giáo dục phổ thông theo thu nhập và giá (80)
      • 4.2.2. Ước lượng các hệ số co giãn của cầu giáo dục phổ thông ở thành thị và nông thôn (87)
      • 4.2.3. Ước lượng các hệ số co giãn của cầu giáo dục phổ thông theo nhóm thu nhập (92)
  • CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ GỢI Ý CHÍNH SÁCH (100)
    • 5.1. Kết luận (100)
    • 5.2. Hàm ý chính sách (101)
    • 5.3. Hạn chế trong bài nghiên cứu và đề xuất hướng nghiên cứu tiếp theo (103)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (104)
  • PHỤ LỤC (0)

Nội dung

GIỚI THIỆU

Lý do nghiên cứu

Giáo dục được coi là một khoản đầu tư quan trọng vào nguồn nhân lực, đóng vai trò then chốt trong sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia Becker (1993) nhấn mạnh rằng nền tảng giáo dục vững chắc mang lại nhiều lợi thế cho cá nhân, bao gồm tăng năng suất lao động, khả năng tiếp cận công nghệ và thu nhập cao hơn Theo nghiên cứu của Glewwe và Patrinos (1999), các hộ gia đình thường dành khoảng 10% thu nhập cho giáo dục của trẻ em ở các cấp học khác nhau Sự đa dạng trong chi tiêu giáo dục giữa các hộ gia đình phản ánh tầm quan trọng của độ co giãn theo giá, một công cụ cần thiết để xây dựng chính sách kinh tế hiệu quả Tuy nhiên, tác động đối với cầu giáo dục có sự khác biệt giữa các quốc gia Ví dụ, Kim (1988) chỉ ra rằng ở Hoa Kỳ, hệ số co giãn cầu giáo dục theo thu nhập là 1,34 và theo giá là -1,31 Nghiên cứu của Hashimoto và Health (1995) cho thấy rằng ở Nhật Bản, các hộ gia đình có thu nhập trung bình và thấp có hệ số co giãn cầu giáo dục theo thu nhập cao, trong khi hộ gia đình có thu nhập cao lại có hệ số này thấp.

Bài viết này trình bày ước lượng hàm cầu giáo dục phổ thông của hộ gia đình tại Việt Nam, xem cầu giáo dục như một hàng hóa tư nhân trong mô hình cầu tiêu dùng Nghiên cứu sử dụng mô hình AIDS (Almost Ideal Demand System) mở rộng của Deaton & Muellbauer (1980b) để ước lượng hàm cầu giáo dục phổ thông, từ đó tính toán các hệ số co giãn của cầu theo thu nhập và giá Kết quả nghiên cứu sẽ cung cấp cơ sở khoa học cho việc hoạch định chính sách giáo dục Đề tài nghiên cứu được chọn là “Ước lượng cầu giáo dục phổ thông ở hộ gia đình Việt Nam”.

Mục tiêu của nghiên cứu

Nghiên cứu này nhằm ước lượng cầu giáo dục phổ thông (tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông, đại học) tại hộ gia đình Việt Nam, dựa trên sự biến động của giá học phí, thu nhập hộ gia đình và các yếu tố kinh tế xã hội liên quan Phân tích được thực hiện dựa trên dữ liệu từ khảo sát mức sống dân cư của hộ gia đình Việt Nam (VHLSS) do Tổng Cục Thống kê thu thập.

Luận văn này nhằm ước lượng cầu giáo dục phổ thông trong các hộ gia đình Việt Nam, thông qua việc phân tích các tham số trong mô hình hồi quy để tính toán hệ số co giãn của hàm cầu giáo dục Bên cạnh đó, nghiên cứu còn xem xét sự thay đổi chi tiêu cho giáo dục theo thời gian ở các hộ gia đình Dựa trên kết quả nghiên cứu, tác giả đưa ra một số gợi ý về chính sách nhằm cải thiện tình hình giáo dục.

Câu hỏi của nghiên cứu

Hàm cầu giáo dục phổ thông ở hộ gia đình Việt Nam là như thế nào?

Trong bối cảnh thu nhập của hộ gia đình và mức học phí đã được xác định, mỗi hộ gia đình sẽ có những phản ứng khác nhau khi quyết định chi tiêu cho giáo dục Sự biến động trong các năm tiếp theo sẽ ảnh hưởng đến cách thức chi tiêu này, phản ánh sự thay đổi trong nhận thức và ưu tiên của các gia đình đối với giáo dục.

Các nhân tố nhân khẩu học có ảnh hưởng lớn đến hàm cầu giáo dục phổ thông ở hộ gia đình Việt Nam, bao gồm độ tuổi, giới tính, trình độ học vấn và thu nhập của các thành viên trong gia đình Mức độ ảnh hưởng của những nhân tố này có thể khác nhau, nhưng chúng đều góp phần định hình quyết định của các hộ gia đình trong việc đầu tư vào giáo dục cho con cái, từ đó ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục và cơ hội học tập của trẻ em.

Đối tượng nghiên cứu

Nghiên cứu về cầu giáo dục phổ thông trong hộ gia đình Việt Nam xem giáo dục như một hàng hóa tư nhân trong mô hình tiêu dùng Dựa trên bộ dữ liệu VHLSS Việt Nam, các cấp học từ tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông đến đại học được tổng hợp thành một sản phẩm dịch vụ giáo dục cụ thể.

Phạm vi của nghiên cứu

Phạm vi thời gian: Tác giả chọn thời gian để nghiên cứu là từ năm 2014 đến

2016, với hai mốc thời gian của dữ liệu VHLSS năm 2014 và VHLSS năm 2016 do tổng cục thống kê Việt Nam khảo sát và tổng hợp

Nghiên cứu này sẽ tập trung phân tích cầu tiêu dùng sản phẩm giáo dục phổ thông trong các hộ gia đình trên toàn quốc, sử dụng dữ liệu từ khảo sát mức sống dân cư hộ gia đình Việt Nam (VHLSS).

Dữ liệu và phương pháp nghiên cứu

Dữ liệu nghiên cứu trong bài viết này được lấy từ nguồn thứ cấp, cụ thể là dữ liệu chéo từ cuộc khảo sát mức sống hộ gia đình ở Việt Nam (VHLSS) trong các năm 2014 và 2016 Tác giả đã sử dụng mẫu “thu nhập và chi tiêu” từ cuộc khảo sát để phân tích, với mỗi đơn vị quan sát là một hộ gia đình Số lượng quan sát trong VHLSS năm 2014 và 2016 đều là 9.399.

Bài nghiên cứu áp dụng lý thuyết cầu về hàng hóa, đầu tư giáo dục và hành vi người tiêu dùng để thực hiện phương pháp nghiên cứu định lượng Dữ liệu được xử lý bằng phần mềm Stata 14, sử dụng các phương pháp thống kê mô tả, so sánh và kinh tế lượng nhằm ước lượng hàm cầu và độ co giãn của cầu Kết quả ước lượng, thông qua phương pháp hồi quy SUR (Seemingly Unrelated Regression), cho thấy sự phù hợp với dữ liệu thu nhập và chi tiêu của hộ gia đình qua các năm Chi tiết về các phương pháp cụ thể được trình bày trong chương 3 của bài nghiên cứu.

Ý nghĩa của nghiên cứu

Nghiên cứu này xác định hàm cầu giáo dục phổ thông tại các hộ gia đình Việt Nam, dựa trên dữ liệu khảo sát Kết quả ước lượng hàm cầu cung cấp bằng chứng quan trọng cho các nhà hoạch định chính sách, giúp họ hiểu rõ hơn về các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định của người tiêu dùng trong việc tiêu thụ sản phẩm giáo dục phổ thông Từ đó, nghiên cứu đưa ra những giải pháp hợp lý nhằm đảm bảo đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng, đặc biệt trong bối cảnh biến động giá học phí.

Kết cấu luận văn

Bố cục của bài luận văn bao gồm có 5 chương

Chương 1 "Giới thiệu" Trong chương này trình bày giới thiệu tổng quan của bài nghiên cứu là nêu ra chi tiết các vấn đề của nghiên cứu, mục tiêu của nghiên cứu, câu hỏi của nghiên cứu và ý nghĩa của nghiên cứu

Chương 2 "Cơ sở lý thuyết" Chương này giới thiệu về lý thuyết cầu hàng hóa, lý thuyết đầu tư giáo dục và lý thuyết hành vi người tiêu dùng, các phương pháp xây dựng hình thành hàm cầu khác nhau của Hicks và Marshall Do đó, trong chương này cũng trình bày mô hình kinh tế lượng dùng để phân tích cầu của người tiêu dùng, đồng thời trình bày những nghiên cứu trước có liên quan đến giáo dục

Chương 3 "Phương pháp nghiên cứu" Trong chương này trình bày phương pháp kinh tế lượng được sử dụng cho phân tích hàm cầu giáo dục phổ thông của hộ gia đình ở Việt Nam và trình bày nguồn dữ liệu dùng cho nghiên cứu Công thức được sử dụng để tính hệ số co giãn và phương pháp ước tính áp dụng cho từng loại mô hình khác nhau sẽ được trình bày chi tiết

Chương 4 “Phân tích kết quả nghiên cứu” Trong chương này trình bày các kết quả phân tích thống kê mô tả, kết quả sử dụng kinh tế lượng trong ước lượng hàm cầu, và hệ số co giãn cầu giáo dục phổ thông ở hộ gia đình Việt Nam

Chương 5 “Kết luận và gợi ý chính sách” Trong chương này trình bày tóm tắt kết quả nghiên cứu của bài luận văn, gợi ý một vài hàm ý chính sách và gợi ý cho nghiên cứu tiếp theo.

CƠ SỞ LÝ THUYẾT

Lý thuyết cầu về hàng hóa

Theo Begg và ctg (2005), cầu là số lượng hàng hóa và dịch vụ mà người tiêu dùng mong muốn mua và có khả năng chi trả, với điều kiện các yếu tố khác không thay đổi Mối quan hệ giữa mức giá và lượng cầu của hàng hóa thể hiện qua độ dốc của hàm cầu, cho thấy rằng giá cả và lượng cầu có mối quan hệ nghịch biến Giá hàng hóa trong thời gian nghiên cứu được xác định là mức giá hiện hành.

Khi các yếu tố ngoại sinh khác ảnh hưởng đến hàm cầu mà không phải là giá, điều này sẽ dẫn đến sự dịch chuyển của hàm cầu (Mankiw, 2008).

Khi phân tích tác động của một nhân tố, giả định rằng các yếu tố khác không thay đổi Một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến cầu hàng hóa là thu nhập của người tiêu dùng, vì nó có tác động trực tiếp đến quyết định chi tiêu cho sản phẩm.

Khi thu nhập của người tiêu dùng tăng, họ có xu hướng chi tiêu nhiều hơn cho các sản phẩm và dịch vụ, tùy thuộc vào loại sản phẩm thứ cấp hoặc sản phẩm thông thường mà họ mong muốn (Begg và cộng sự, 2005).

Thứ hai, là giá của sản phẩm có liên quan Tuy nhiên, tùy thuộc vào sản phẩm là hàng hóa bổ sung hoặc hàng hóa thay thế

Hàng hóa thay thế là những sản phẩm mà người tiêu dùng có thể sử dụng để thay thế cho nhau Khi giá cả của hàng hóa thay đổi, người tiêu dùng có khả năng chuyển đổi giữa các sản phẩm này nếu chúng có cùng công dụng.

Hàng hóa bổ sung là cặp hàng hóa được sử dụng đồng thời để tăng giá trị sử dụng Khi các yếu tố khác không thay đổi, cầu đối với sản phẩm chính sẽ giảm nếu giá của hàng hóa bổ sung tăng, và ngược lại, cầu sẽ tăng khi giá hàng hóa bổ sung giảm.

Thị hiếu của người tiêu dùng đối với hàng hóa và dịch vụ được hình thành từ sự ảnh hưởng của đam mê và thói quen tiêu dùng Những yếu tố này đóng vai trò quan trọng trong việc định hình lựa chọn và quyết định mua sắm của khách hàng.

Sự kỳ vọng của người tiêu dùng về tương lai có ảnh hưởng lớn đến cầu hiện tại Nếu người tiêu dùng tin rằng sản phẩm sẽ có lợi trong tương lai, cầu hiện tại sẽ tăng và đường cầu sẽ dịch chuyển sang phải Các loại kỳ vọng này bao gồm kỳ vọng về giá hàng hóa, thu nhập, giá cả hàng hóa liên quan và số lượng người mua hàng.

Lý thuyết đầu tư giáo dục

Theo Schultz (1963), giáo dục có ba khía cạnh quan trọng Thứ nhất, giáo dục được coi là hàng hóa tiêu dùng hiện tại, mang lại lợi ích từ việc tiếp thu kiến thức Thứ hai, nó còn có giá trị tiêu dùng trong tương lai, giúp người học tăng cường khả năng sử dụng các loại hàng hóa khác trong cuộc sống Cuối cùng, giáo dục được xem như một khoản đầu tư; khi năng suất biên của giáo dục đạt bằng chi phí biên, thì vốn con người từ quá trình đào tạo đã được khai thác Do đó, các nhà kinh tế học xem giáo dục là một hình thức đầu tư vào vốn con người.

Theo Schultz (1961), vốn con người được định nghĩa là kỹ năng và kiến thức của lao động, tích lũy qua ba giai đoạn: vốn con người sơ khai từ gia đình, vốn con người từ giáo dục chính quy, và vốn con người từ đào tạo tại chức Vốn con người thay đổi theo thời gian, phản ánh qua kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm của người lao động Sự khác biệt giữa vốn nhân lực và nguồn nhân lực nằm ở chỗ vốn nhân lực chỉ chất lượng của nhân viên, trong khi nguồn nhân lực đề cập đến số lượng lao động.

Chi phí trong kinh tế học giáo dục được chia thành hai loại chính: chi phí xã hội và chi phí tư nhân Chi phí xã hội, do các nhà cung cấp giáo dục chi trả, bao gồm lương giáo viên, sách thư viện và sử dụng cơ sở vật chất, trong khi chi phí tư nhân do người học gánh chịu, như học phí và sách vở Ngoài ra, chi phí còn được phân thành chi phí trực tiếp và chi phí cơ hội, với chi phí gián tiếp là thời gian mà giáo viên và học sinh dành cho việc giảng dạy, thời gian này có thể được sử dụng để kiếm thu nhập từ công việc khác.

Học phí mà người học phải trả là chi phí ròng sau khi trừ đi học bổng, nếu có Đối với giá trị của cơ sở vật chất, cần xem xét hai khả năng: nếu cơ sở được thuê, giá trị sử dụng sẽ tương đương với tiền thuê hàng năm; nếu không, giá trị khấu hao hàng năm của cơ sở cần được tính đến và coi như là tiền thuê quy đổi trong suốt quá trình sử dụng.

Phân tích cận biên chi phí - lợi ích

Phân tích chi phí - lợi ích là tiêu chí quan trọng trong việc ra quyết định cho các chương trình giáo dục Theo Woodhall (2004), khái niệm này liên quan đến việc so sánh hệ thống chi phí đầu tư và lợi ích nhằm đánh giá lợi ích kinh tế Trong lĩnh vực kinh tế học giáo dục, phân tích lợi ích được xem là ứng dụng phổ biến nhất của khái niệm phân tích chi phí - lợi ích.

Hình 2.1 Quyết định học tập

Nguồn: Tổng hợp của tác giả

Khái niệm biên hoặc cận biên được giới thiệu bởi trường phái tân cổ điển trong kinh tế học vào đầu thế kỷ 20, liên quan đến sự thay đổi trong số lượng cho trước Chi phí biên của giáo dục phản ánh sự thay đổi trong tổng chi phí mà người học phải chi để tiếp thu một đơn vị kiến thức nhất định Trong khi đó, lợi ích cận biên thể hiện sự thay đổi trong tổng lợi ích mà người học nhận được khi học thêm một đơn vị kiến thức.

Phân tích cận biên về chi phí và lợi ích giáo dục nhằm xác định lựa chọn tối ưu trong đầu tư vào vốn con người Hình 2.1 cho thấy nếu người học dừng lại ở điểm C, chi phí cận biên (MC) không bằng lợi ích biên (MR) tại điểm A, dẫn đến lựa chọn không tối ưu Theo nguyên tắc kinh tế, lựa chọn tốt nhất xảy ra khi MR bằng MC tại điểm B.

Mô hình đầu tư vốn con người

Hình 2.2 cho thấy A và B là những điểm lựa chọn tối ưu về đầu tư vốn con người của từng cá nhân, nơi lợi ích biên bằng với chi phí biên Người học có thể quyết định dừng lại tại điểm A với trình độ E1 để đi làm, hoặc chọn điểm B với trình độ E2 nếu họ nhận thấy mình có lợi thế cạnh tranh trên thị trường lao động.

Theo Checchi (2005), lợi ích biên từ giáo dục phụ thuộc vào điều kiện thị trường lao động, các nguồn lực đầu tư và khả năng của người học Chi phí biên liên quan đến chi phí trực tiếp của việc học và khả năng cá nhân Với bản chất tư lợi và mong muốn đạt trình độ học vấn cao, mỗi cá nhân đều có xu hướng tìm kiếm cơ hội học tập tốt nhất Tuy nhiên, nhiều yếu tố ràng buộc khiến họ chọn lựa các mức độ học vấn khác nhau, dẫn đến sự chênh lệch về tiền lương trên thị trường lao động.

Hình 2.2 Mô hình đầu tư vốn con người

Nguồn: Tổng hợp của tác giả

Lý thuyết vốn con người cho rằng giáo dục là một khoản đầu tư nhằm tối đa hóa chất lượng cuộc sống (Schultz, 1961; Becker, 1993) Đầu tư vào giáo dục không chỉ tạo ra lợi ích về thu nhập trong tương lai mà còn đòi hỏi chi phí trực tiếp và chi phí cơ hội do thời gian không làm việc Mọi người thường so sánh chi phí này với lợi ích tiềm năng từ việc học Khi lợi nhuận từ việc đầu tư vượt quá chi phí hiện tại, người ta sẽ tiếp tục đầu tư Sự gia tăng đầu tư vào giáo dục thường đi kèm với kỳ vọng về lợi nhuận trong tương lai và sẽ giảm khi chi phí học tập tăng lên.

Nghiên cứu của Becker (1993) và Schultz (1961) chỉ ra rằng thu nhập của hai người có trình độ học vấn khác nhau thường không giống nhau Sự khác biệt này ảnh hưởng đến quyết định của phụ huynh về số năm học cho con cái, dựa trên quan điểm về thu nhập tương lai của trẻ Nhu cầu học tập của trẻ phụ thuộc vào nhiều yếu tố như tiền lương, chi phí giáo dục, thu nhập hộ gia đình, cùng với các đặc điểm của trẻ và thị trường lao động địa phương Sự quan tâm của cha mẹ và nguồn vốn hạn chế tạo nên mối liên hệ giữa trình độ học vấn của họ và mức đầu tư vào giáo dục con cái Cha mẹ có trình độ học vấn cao thường chú trọng đến phúc lợi của con (Becker, 1993) Học vấn của cha mẹ không chỉ ảnh hưởng đến hành vi học tập của con mà còn phản ánh sự đầu tư vào giáo dục trẻ ở bậc tiểu học Đặc biệt, trình độ học vấn của người mẹ có thể đại diện cho thu nhập cố định và chi phí cơ hội của mẹ trên thị trường lao động và sản xuất.

Lý thuyết cầu người tiêu dùng và sự hình thành hàm cầu

Trong mô hình kinh tế lượng, việc ước lượng và phân tích hàm cầu được thực hiện theo hai hướng cơ bản Hướng đầu tiên, theo kinh tế học cổ điển, áp dụng phương pháp tối ưu để xác định hàm thỏa dụng duy nhất, với các phương trình hàm cầu đơn có biến phụ thuộc là lượng sản phẩm, bao gồm hệ thống hàm cầu tỷ trọng chi tiêu từ hàm thỏa dụng gián tiếp translog, hệ thống chi tiêu tuyến tính và hàm cầu AIDS (Almost Ideal Demand System) Hướng thứ hai xây dựng hàm cầu dựa trên tổng các phương trình vi phân của từng sản phẩm, không yêu cầu điều kiện đặc trưng của các dạng hàm đại số cụ thể từ hàm chi phí hay hàm thỏa dụng.

Nghiên cứu này chỉ ra rằng hành vi ra quyết định trong hộ gia đình nhằm tối đa hóa lợi ích tiêu dùng trước những biến động của thị trường Tác giả đã chọn phương pháp tiếp cận đầu tiên để ước lượng hàm cầu giáo dục, dựa trên mối quan hệ lý thuyết về hành vi tiêu dùng Dữ liệu cho nghiên cứu được thu thập từ bộ dữ liệu chi tiêu hộ gia đình do Tổng cục Thống kê điều tra.

Hình 2.3: Tối đa hóa độ thỏa dụng và tối thiểu hóa chi phí

Min pq Điều kiện là U(q) = U0

Hàm cầu Marshall q = D(x0, p) (Độ co giãn không bù đắp)

0, p) (Độ co giãn bù đắp)

Thực hiện giải bài toán tối đa hóa độ thỏa dụng

Thực hiên giải bài toán tối thiểu hóa chi phí.

Hàm thỏa dụng gián tiếp

Thay thế vào hàm thỏa dụng Mệnh đề Roy Thay thế vào hàm chi tiêu Phương trình

Hình 2.3 cho thấy có hai phương pháp thay thế nhau để hình thành hàm cầu: tối đa hóa mức độ thỏa dụng (Max U (q)) và tối thiểu hóa mức chi phí (Min (pq)) Cả hai phương pháp này đều cho kết quả tương tự với sai số nhỏ (Deaton và Muellbauer, 1980b) Trong điều kiện ngân sách hạn chế, tối đa hóa mức thỏa dụng dẫn đến hàm cầu Marshall, hay còn gọi là hàm cầu có hệ số co giãn không bù đắp Hàm cầu Marshall là hàm đồng nhất bậc không theo giá cả và thu nhập Ngược lại, khi độ thỏa dụng của người tiêu dùng giữ nguyên, tối thiểu hóa mức chi phí tạo ra hàm cầu Hicks, hay hàm cầu có hệ số co giãn bù đắp Hai hàm cầu này có mối quan hệ mật thiết: thay thế hàm tiện ích bằng hàm cầu Hicks sẽ tạo ra hàm cầu Marshall Sự khác biệt chính giữa chúng là hàm cầu Hicks giữ mức thỏa dụng cố định, trong khi hàm cầu Marshall giữ thu nhập cố định.

Tối đa hóa độ thỏa dụng và sự hình thành hàm cầu Marshall

Trong bối cảnh ngân sách hạn chế, việc tối đa hóa hàm thỏa dụng của người tiêu dùng để xây dựng phương trình cầu dựa trên lý thuyết quyết định của người tiêu dùng (Nicholson, 2005) là rất quan trọng Độ thỏa dụng thể hiện mối quan hệ đồng biến với số lượng tiêu dùng, trong khi độ thỏa dụng biên lại có tính chất nghịch biến khi lượng tiêu dùng gia tăng.

Hàm thỏa dụng viết dưới dạng:

Hàm thỏa dụng U(q) được biểu diễn dưới dạng U(qi, qi,…,qn), trong đó qi là số lượng sản phẩm tiêu dùng thứ i Với điều kiện ngân sách của người tiêu dùng bị giới hạn, việc tối đa hóa hàm thỏa dụng dẫn đến kết quả là một hàm tuyến tính.

Trong bài viết này, giá của sản phẩm thứ i được ký hiệu là pi, trong khi x đại diện cho thu nhập hoặc tổng chi tiêu cho sản phẩm đó Theo lý thuyết, hàm thỏa dụng được giả định là hàm không giảm, điều này cho thấy mức độ thỏa dụng biên luôn dương.

Theo nguyên lý toán học, hàm cầu tiêu dùng của sản phẩm được tối đa hóa có điều kiện thông qua các phương trình Phương pháp số nhân tử Lagrange được áp dụng để giải quyết bài toán này, và hàm Lagrange được xây dựng nhằm tối đa hóa độ thỏa dụng.

Hệ số λ, hay còn gọi là nhân tử Lagrange, thể hiện độ thỏa dụng biên theo thu nhập Để tính toán, cần thực hiện các bước lấy đạo hàm, bao gồm việc lấy từng đạo hàm riêng cấp một của phương trình (2.4) theo biến q và theo λ.

Từ các kết quả của đạo hàm riêng cấp một từ phương trình (2.5) và (2.6), ta xây dựng một hệ n + 1 phương trình Giải hệ này cho ra n + 1 ẩn số q1, q2, …, qn và λ Kết quả cho thấy các số lượng (qi) là duy nhất và dương, phù hợp với các giá trị đã cho của giá và thu nhập Sự ảnh hưởng của giá và thu nhập dẫn đến kết quả số lượng đạt được là tối ưu Do đó, hàm cầu Marshall được trình bày dưới dạng:

Thay thế các phương trình hàm cầu đã được tạo ra từ phương trình (2.7) vào hàm thỏa dụng gián tiếp, thì kết quả đạt được là:

Trong quá trình tối đa hóa sự thỏa dụng của người tiêu dùng, hàm thỏa dụng gián tiếp phản ánh mối quan hệ giữa giá sản phẩm và thu nhập của người tiêu dùng Sự thay đổi trong thu nhập và giá cả sản phẩm sẽ ảnh hưởng đến lợi ích tối đa mà người tiêu dùng có thể đạt được.

Tối thiểu hóa chi phí và sự hình thành hàm cầu Hicks

Trong quyết định tiêu dùng, sự đối lập giữa hàm thỏa dụng và hàm chi phí thể hiện rõ ràng; người tiêu dùng sẽ tìm cách chi tiêu tối thiểu để đạt được mức thỏa dụng tối đa cho một mức giá hàng hóa nhất định (Nicholson, 2005).

Hàm chi phí được viết là:

Trong đó, pi đại diện cho giá của sản phẩm i, còn x là thu nhập hay tổng chi tiêu cho sản phẩm i Để đảm bảo sự hài lòng của người tiêu dùng, hàm tối thiểu hóa chi phí cần được giữ nguyên.

Trong bài toán tối thiểu hóa chi phí, hàm Lagrange được sử dụng để xây dựng hàm cầu Hicks, trong đó qi (i = 1, 2, …, n) đại diện cho số lượng sản phẩm tiêu dùng thứ i Phương pháp nhân tử Lagrange là công cụ toán học quan trọng trong việc này.

Hệ số à cú, hay còn gọi là nhõn tử Lagrange, được xác định thông qua việc lấy đạo hàm Cụ thể, chúng ta thực hiện các bước lấy từng đạo hàm cấp 1 của phương trình (2.11) theo biến q và biến à, từ đó thu được các phương trình tương ứng.

Một hệ phương trình gồm n +1 được tạo ra từ phương trình (2.12) và (2.13), sau khi giải hệ phương trỡnh này, kết quả nhận được là n +1 ẩn số q1, q2,…,qn và à

Dựa trên các giá trị của biến giá cả và thu nhập, kết quả giải bài toán cho ra số lượng (qi) duy nhất và dương Số lượng tối ưu đạt được phụ thuộc vào giá cả và độ thỏa dụng Do đó, hàm cầu Hicks (đường cầu bù đắp) có thể được diễn đạt như sau:

Hàm chi tiêu biểu thị mức chi tiêu tối thiểu mà người tiêu dùng cần để đạt được một mức lợi ích nhất định Khi thay thế hàm cầu vào hàm chi tiêu ban đầu, ta có thể hình thành hàm chi phí, phản ánh mối quan hệ giữa giá cả và độ thỏa dụng.

Hàm chi tiêu và hàm lợi ích gián tiếp ở trong phương trình (2.15) là có sự liên quan đến nhau Qua đó, trình bày dưới dạng tổng quát là:

Hàm lợi ích gián tiếp phản ánh lợi ích đạt được khi thu nhập và giá cả sản phẩm được xác định trước Trong khi đó, hàm chi tiêu thể hiện mức lợi ích tối đa có thể đạt được dựa trên mức thu nhập nhất định Do đó, hàm lợi ích gián tiếp được coi là đối lập với hàm chi tiêu.

Lý thuyết độ co giãn của cầu 16 2.7 Lý thuyết về mô mình kinh tế lượng sử dụng cho phân tích cầu tiêu dùng 18

Độ co giãn của cầu hàng hóa là chỉ số phản ánh sự thay đổi của lượng cầu đối với hàng hóa khi có sự biến động của một biến số nhất định như giá cả hoặc thu nhập, trong khi các yếu tố khác được giữ cố định Các loại độ co giãn này bao gồm độ co giãn của cầu theo giá, độ co giãn của cầu theo thu nhập và độ co giãn của cầu theo giá chéo.

Theo Begg và ctg (2005), độ co giãn của cầu theo thu nhập phản ánh sự thay đổi trong lượng cầu hàng hóa khi thu nhập thay đổi, trong khi các yếu tố khác giữ nguyên Độ co giãn này được tính bằng tỷ lệ giữa phần trăm thay đổi trong lượng cầu và phần trăm thay đổi trong thu nhập Nếu ký hiệu I là thu nhập của người tiêu dùng và AI là độ co giãn của cầu theo thu nhập cho một loại hàng hóa, ta có công thức để tính toán.

Độ co giãn của cầu theo thu nhập có thể là âm hoặc dương, phụ thuộc vào loại hàng hóa Đối với hàng hóa thứ cấp, AI < 0; hàng hóa thiết yếu có 0 < AI < 1; và hàng hóa xa xỉ thì AI > 1 Độ co giãn của cầu theo giá cho thấy mức độ thay đổi trong lượng cầu khi giá của hàng hóa thay đổi, trong khi các yếu tố khác không đổi Nó được tính bằng tỷ lệ phần trăm thay đổi trong lượng cầu so với phần trăm thay đổi trong giá, được ký hiệu là eii.

Thông thường thì eii < 0 Đối với sản phẩm có cầu là co giãn nhiều thì sẽ có

Độ co giãn của cầu theo giá được phân loại dựa trên các giá trị khác nhau của hệ số co giãn |𝑒𝑖𝑖| Nếu |𝑒𝑖𝑖| > 1, sản phẩm có cầu co giãn nhiều; nếu 0 < |𝑒𝑖𝑖| < 1, cầu co giãn ít; |𝑒𝑖𝑖| = 1 cho cầu co giãn đơn vị; |𝑒𝑖𝑖| = 0 thể hiện cầu không co giãn; và |𝑒𝑖𝑖| = ∞ cho cầu hoàn toàn co giãn Độ co giãn của cầu theo giá chéo đo lường mức độ phản ứng của cầu đối với sự thay đổi giá của một hàng hóa khác Cụ thể, độ co giãn của cầu đối với hàng hóa X được tính bằng tỷ lệ phần trăm thay đổi lượng cầu hàng hóa X so với phần trăm thay đổi giá hàng hóa Y, với điều kiện các yếu tố khác không thay đổi.

𝐷 𝑖 (𝑝,𝑥) (2.18) Đối với sản phẩm i và sản phẩm j là hàng hóa có khả năng bổ sung thì sẽ có eij

Khi sản phẩm i và sản phẩm j được coi là hàng hóa thay thế, hệ số eij sẽ lớn hơn 0 Ngược lại, nếu sản phẩm i và sản phẩm j là hàng hóa riêng biệt, hệ số eij sẽ bằng 0.

2.7 Lý thuyết về mô mình kinh tế lượng sử dụng cho phân tích cầu tiêu dùng 2.7.1 Mô hình phương trình đơn

Các nhà kinh tế học sử dụng kỹ thuật kinh tế lượng để ước lượng hàm cầu hàng hóa nhằm xác định mô hình phù hợp với dữ liệu nghiên cứu Theo Deaton và Muellbauer (1980b), nhiều nghiên cứu thực nghiệm về cầu thường chỉ ước lượng hàm cầu bằng phương trình đơn giản và thiếu bằng chứng mạnh mẽ cho lý thuyết hành vi người tiêu dùng Các nghiên cứu sau này đã giả thuyết rằng hàm cầu là hàm tuyến tính, phổ biến với dạng logarit kép, trong đó lượng cầu được coi là biến phụ thuộc trong phương trình theo tham số.

𝑙𝑛 𝑞 𝑖𝑡 = ∝ 𝑖 + ∑ 𝑒 𝑗 𝑖𝑗 ln 𝑝 𝑗𝑡 + 𝑒 𝑖 ln 𝑋 𝑡 + 𝑈 𝑡 (2.19) Trong đó: qit: là số lượng tiêu dùng của hàng hóa i tại thời điểm t pịj:là giá của hàng hóa j tại thời điểm t

Xt đại diện cho mức chi tiêu tại thời điểm t Việc sử dụng phương trình đơn để ước lượng hàm cầu có ưu điểm là dễ dàng trong việc ước lượng và giải thích các biến, với các tham số ước lượng như hệ số co giãn riêng và hệ số co giãn chéo theo giá Tuy nhiên, hàm cầu này cũng tồn tại một số nhược điểm, bao gồm việc dạng hàm tùy ý và độ co giãn không đổi, mối liên kết yếu với lý thuyết hành vi tiêu dùng và tính động trong xu hướng tiêu dùng theo thời gian, cùng với khả năng tự tương quan cao và tính dự báo yếu trong kết quả ước lượng (Frank Asche và cộng sự, 2005).

2.7.2 Mô hình ước lượng AIDS

Theo Deaton và Muellbauer (1980a) đã phát triển hệ thống hàm cầu AIDS (Almost Ideal Demand System) nhằm phân tích cầu tiêu dùng dựa trên lý thuyết hành vi của người tiêu dùng, với các điều kiện đồng nhất và đối xứng Hệ thống này được xây dựng dựa trên giới hạn ngân sách của người tiêu dùng.

Trong công thức 𝑛 𝑗 + 𝑢 𝑖 (𝑖, 𝑗 = 1, 𝑛) (2.20), 𝑤𝑖 đại diện cho tỷ trọng chi tiêu cho sản phẩm i, 𝑝𝑗 là giá của sản phẩm j, và 𝑥 là tổng chi tiêu cho tất cả sản phẩm trong hệ thống hàm cầu Hệ số γ biểu thị ảnh hưởng của biến giá trong phân tích chi tiêu.

𝛽: Hệ số của biến chi tiêu (thu nhập)

P: Chỉ số giá được xác định bởi: ln 𝑃 = 𝛼 0 + ∑ 𝛼 𝑛 𝑖 𝑖 ln 𝑝 𝑖 + 1

2∑ ∑ 𝛾 𝑛 𝑖 𝑚 𝑗 𝑖𝑗 ln 𝑝 𝑖 ln 𝑝 𝑗 (2.21) Deaton và Muellbauver (1980a, 1980b) đã nghiên cứu và đưa ra những hạn chế sau đây để đảm bảo tính bền vững lý thuyết của hàm cầu AIDS là:

Tính đối xứng: γ ij = γ ji (2.23)

Độ co giãn của cầu theo chi tiêu, giá riêng và giá chéo trong hàm cầu LA/AIDS được xác định thông qua các công thức cụ thể Đặc biệt, độ co giãn của cầu theo chi tiêu (thu nhập) phản ánh mức độ thay đổi của cầu khi thu nhập thay đổi, giúp phân tích hành vi tiêu dùng của người tiêu dùng.

Trong mô hình hàm cầu Hicks, độ co giãn của cầu theo giá riêng được xác định bằng phương trình e ii = −1 + γ ij w i − β i, trong khi độ co giãn theo giá chéo được tính qua e ij = γ ij − w j β i w i Để tính độ co giãn trong mô hình này, tác giả áp dụng phương trình Slutsky, trong đó độ co giãn Hicks được biểu diễn là e ij ∗ = e ij + w j A.

Mô hình AIDS có cấu trúc tuyến tính, ngoại trừ hàm Translog của chỉ số giá lnP trong phương trình (2.21) Theo Deaton và Muellbauer (1980a, b), để giải quyết vấn đề phi tuyến và giảm thiểu tác động của đa cộng tuyến trong nghiên cứu ứng dụng, họ đã sử dụng chỉ số giá Stone (ln P = ∑ w n i i ln p i) để khắc phục vấn đề này.

Mô hình AIDS với chỉ số giá Stone, được gọi là mô hình LA/AIDS (Linear Approximate Almost Ideal Demand System), là một phương pháp tiếp cận gần đúng tuyến tính Tuy nhiên, chỉ số giá Stone không đáp ứng các tính chất cơ bản của số chỉ số, vì nó có sự khác biệt khi thay đổi đơn vị đo lường của giá cả.

Theo Pashardes (1993), việc sử dụng chỉ số Stone để ước lượng mô hình có thể dẫn đến sai số, bỏ sót biến và kết quả không ổn định khi áp dụng các đơn vị đo lường khác nhau Để hiệu chỉnh sai số đo lường, một giải pháp là chuẩn hóa giá cả bằng cách chia giá cả cho giá trị trung bình mẫu Moschini (1995) đã đề xuất sử dụng chỉ số giá Laspeyres như một phương pháp khắc phục vấn đề sai số này Chỉ số giá Laspeyres được trình bày như sau:

Phương trình Slutsky, được đề xuất bởi Eugene Slutsky vào năm 1915 và hoàn thiện bởi Hicks và Allen vào năm 1993, là một công cụ quan trọng trong kinh tế học Deaton và Muellbauer (1980a) đã kế thừa công thức tính hệ số co giãn của hàm cầu Hicks từ hàm cầu Marshall, và công thức này đã được chứng minh trong phương trình Slutsky, thể hiện qua biểu thức ln 𝑃 𝐿 = ∑ 𝑛 𝑖=1 𝑤̅̅̅ ln 𝑝 𝑖 𝑖 (2.28).

Các nghiên cứu trước

Nghiên cứu về giáo dục tại nhiều quốc gia cho thấy rằng giáo dục của cha mẹ và thu nhập gia đình có ảnh hưởng tích cực và đáng kể đến sự phát triển của học sinh và sinh viên (Kim, 1988; Chow và Shen, 2006; Qian và Smyth, 2010) Tuy nhiên, các nghiên cứu này cũng chỉ ra rằng mỗi quốc gia lại có những tác động khác nhau đối với nhu cầu giáo dục của người dân.

Kim (1988) đã tiến hành ước lượng mô hình hàm cầu giáo dục trong bối cảnh nhiều sản phẩm gia dụng tại Hoa Kỳ Mô hình này sử dụng các biến giá của hàng hóa lâu bền, hàng hóa ngắn hạn, giáo dục và các dịch vụ khác ngoài giáo dục, đồng thời xem xét mức thu nhập của hộ gia đình Nghiên cứu dựa trên dữ liệu chuỗi thời gian của các hộ gia đình để phân tích mối quan hệ giữa các yếu tố này.

Từ năm 1958 đến 1982, nghiên cứu cho thấy độ co giãn theo thu nhập của cầu giáo dục đạt 1,34, trong khi độ co giãn theo giá là -1,31 Kết quả này chỉ ra rằng khi thu nhập gia đình tăng, các gia đình có xu hướng đầu tư nhiều hơn cho giáo dục.

Hashimoto và Health (1995) đã tiến hành nghiên cứu về các yếu tố quyết định chi tiêu cho giáo dục của hộ gia đình Nhật Bản bằng cách sử dụng dữ liệu chéo và phương pháp OLS Nghiên cứu xem xét các biến như giá giáo dục, giá sản phẩm, tổng chi tiêu của hộ gia đình và nhóm thu nhập Kết quả cho thấy, các hộ gia đình có thu nhập thấp và trung bình có xu hướng chi tiêu cho giáo dục nhiều hơn so với các hộ có thu nhập cao.

Nghiên cứu của Glewwe và Patrinos (1999) đã phân tích dữ liệu từ 4.800 hộ gia đình Việt Nam trong giai đoạn 1992-1993 để đánh giá vai trò của khu vực tư nhân trong giáo dục Các yếu tố được xem xét bao gồm thu nhập, chi tiêu hộ gia đình, nhà ở, giáo dục, y tế, việc làm, nhập cư, tái sản xuất, hoạt động nông nghiệp, kinh doanh phi nông nghiệp, tiết kiệm và tín dụng Kết quả cho thấy rằng khi thu nhập của các hộ gia đình tăng, mức độ sẵn sàng chi cho giáo dục cũng gia tăng, đặc biệt là ở khu vực thành thị.

Canton và Jong (2004) đã phân tích dữ liệu chuỗi thời gian để ước lượng hàm cầu giáo dục đại học tại Hà Lan, với các yếu tố như hỗ trợ tài chính cho sinh viên, thu nhập bình quân đầu người, học phí, tiền lương thay thế và tỷ lệ thất nghiệp Nghiên cứu chỉ ra rằng giáo dục đại học không chỉ là một khoản đầu tư, mà việc đảm bảo tài chính cho học phí và thu nhập sau khi tốt nghiệp cũng đóng vai trò quan trọng trong quyết định theo học.

Chow và Shen (2006) đã nghiên cứu nhu cầu giáo dục ở Trung Quốc từ năm 1991 đến 2002 bằng cách sử dụng chuỗi dữ liệu hộ gia đình để ước tính tác động của học phí Mô hình nghiên cứu bao gồm các biến như giá giáo dục, thu nhập trung bình của hộ gia đình, số lượng dịch vụ giáo dục cần thiết và tác động của trợ cấp chính phủ Phương pháp OLS được áp dụng để phân tích hiệu quả của thu nhập gia đình và giá học phí Kết quả cho thấy độ co giãn giáo dục cấp học tiểu học theo thu nhập là 0,42 và theo giá là -3,24; cấp học trung học cơ sở là 0,81 và -4,498; cấp học đại học là 1,29 và 0,49 Đối với giáo dục đại học, độ co giãn theo thu nhập khu vực chính phủ là 0,87 và khu vực tư nhân là 1,00 Độ co giãn tổng các cấp học theo thu nhập là 0,88 và theo giá từ 0,43 đến 0,48 Những thay đổi trong chi tiêu của chính phủ và tư nhân có thể được giải thích bởi hiệu ứng thu nhập và giá học phí, cho thấy khi thu nhập bình quân hộ gia đình tăng, chi tiêu cho giáo dục cũng gia tăng, đặc biệt ở các cấp học cao hơn.

Tansel và Bircan (2006) đã nghiên cứu nhu cầu giáo dục tại Thổ Nhĩ Kỳ bằng cách sử dụng dữ liệu khảo sát chi tiêu hộ gia đình năm 1994 và phương pháp Tobit Các biến nghiên cứu bao gồm giá giáo dục, tổng chi tiêu hộ gia đình, độ tuổi chủ hộ, số năm học, khu vực sống, số lượng học sinh trong gia đình và tình trạng mẹ đơn thân Kết quả cho thấy rằng hộ gia đình thành thị và các bà mẹ đơn thân đầu tư nhiều hơn vào việc dạy thêm cho con cái, với độ co giãn theo thu nhập của cầu giáo dục đạt 1,21.

Nghiên cứu của Meng Zhao và Paul Glewwe (2007) đã chỉ ra rằng nhiều yếu tố ảnh hưởng đến việc nhập học của trẻ em ở miền nông thôn Trung Quốc, bao gồm đặc điểm cá nhân của trẻ, đặc điểm hộ gia đình, xã hội công cộng và trường học Cụ thể, giới tính, tuổi tác và tình trạng dinh dưỡng của trẻ, trình độ học vấn và nhận thức giáo dục của cha mẹ, cũng như khoảng cách từ nhà đến trường đều là những yếu tố quan trọng Kết quả cho thấy dinh dưỡng và thu nhập hộ gia đình có tác động tích cực đến số năm học của trẻ, trong khi thái độ của trẻ và mẹ đối với giáo dục cùng với kinh nghiệm của giáo viên cũng đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao kết quả học tập Nghiên cứu đã áp dụng hồi quy probit để ước lượng số năm đi học, khẳng định rằng các yếu tố này cần được xem xét để cải thiện tình hình giáo dục ở khu vực nông thôn.

Nghiên cứu của Qian và Smyth (2010) dựa trên dữ liệu từ 32 thành phố Trung Quốc năm 2003, đã chỉ ra rằng các đặc điểm gia đình có tác động đáng kể đến trình độ học vấn của trẻ em Sử dụng hồi quy Tobit, nghiên cứu cho thấy thu nhập gia đình là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến chi tiêu giáo dục Bên cạnh đó, giáo dục và tính chuyên nghiệp của cha mẹ cũng có tác động tích cực đến sự đầu tư vào giáo dục Hơn nữa, các hộ gia đình có nhiều trẻ em đi học thường có xu hướng chi tiêu nhiều hơn cho giáo dục, và hộ gia đình ở khu vực ven biển có cách chi tiêu giáo dục khác biệt so với các khu vực khác.

Bảng 2.1: Tóm tắt những nghiên cứu liên quan Tác giả Dữ liệu/ Quốc gia/ Thời gian

Các biến được sử dụng trong mô hình nghiên cứu

Phương pháp nghiên cứu/Kỹ thuật ước lượng

Kết quả của nghiên cứu

Sử dụng dữ liệu chuỗi thời gian của hộ gia đình tại quốc gia Hoa Kỳ từ năm 1958 đến

Biến giá đồ dùng lâu bền và ngắn hạn, cũng như biến giá giáo dục và các dịch vụ khác liên quan đến giáo dục, đều ảnh hưởng đến mức thu nhập nhất định.

Mô hình ước lượng LA/AIDS

Chỉ số giá Stone được áp dụng để điều chỉnh tổng chi tiêu

Hệ số co giãn của cầu giáo dục theo thu nhập là 1,34

Hệ số co giãn của cầu giáo dục theo giá riêng là -1,31

Khi thu nhập tăng, nhiều gia đình sẽ tập trung đầu tư vào giáo dục hơn

Sử dụng dữ liệu chéo

59100 hộ gia đình ở Nhật Bản vào năm

Các biến giá giáo dục, biến giá sản phẩm, biến tổng chi tiêu, nhóm thu nhập

Hồi quy OLS cho thấy hệ số co giãn của giáo dục theo thu nhập là 1,72 Đối với nhóm thu nhập trung bình, độ co giãn của cầu giáo dục theo thu nhập lớn hơn 1 Trong khi đó, ở nhóm thu nhập thấp và thu nhập cao, độ co giãn này nằm trong khoảng từ 0 đến 1.

Dữ liệu chéo của hộ gia đình ở Thổ Nhĩ Kỳ năm 1994

Biến giá giáo dục, tổng chi tiêu, số lượng học sinh trong hộ gia đình, tình trạng bà mẹ đơn thân, độ tuổi và trình độ học vấn của chủ hộ, cùng với khu vực dân cư là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến việc tiếp cận giáo dục Những yếu tố này không chỉ phản ánh tình hình kinh tế của gia đình mà còn tác động đến cơ hội học tập của trẻ em trong cộng đồng.

Sử dụng phương pháp Tobit để ước lượng mô hình AIDS

Hệ số co giãn của cầu giáo dục theo thu nhập là 1,21

Hộ gia đình ở thành thị và bà mẹ đơn thân chú trọng đầu tư vào giáo dục cho con

Sử dụng dữ liệu chéo năm

2002 để ước tính độ co giãn thu nhập của giáo dục

Các yếu tố ảnh hưởng đến giáo dục bao gồm biến giá giáo dục, thu nhập bình quân của hộ gia đình, số lượng dịch vụ giáo dục yêu cầu và tác động của các khoản trợ cấp từ chính phủ.

Hồi quy OLS Hệ số co giãn cầu giáo dục cấp học tiểu học: theo thu nhập là 0,42 và theo giá là -3,24

Hệ số co giãn cầu giáo dục cấp học trung học: theo thu nhập là 0,81 và theo giá là -4,498

Hệ số co giãn cầu giáo dục đại học theo thu nhập đạt 1,29 và theo giá là 0,4938 Cụ thể, hệ số co giãn cầu giáo dục đại học theo thu nhập tại khu vực chính phủ là 0,87, trong khi khu vực tư nhân là 1,00.

Hệ số co giãn của tổng các cấp học là: theo thu nhập là 0,88 và theo giá 0,43 đến 0,48

Khung phân tích

Nguồn: Tác giả lược khảo lý thuyết và tổng hợp

Hàm cầu giáo dục phổ thông Giá y tế

Giá thực phẩm (giá cá, giá thịt, giá rau các loại)

Các tác động của nhân khẩu học và vùng địa lý

Max U(q1, q2, q3, q4, q5, ) s t x = ∑ 5 𝑖=1 𝑝iqi Độ co giãn của cầu theo giá, theo chi tiêu

Thu nhập (chi tiêu) của hộ gia đình

Giá dịch vụ giáo dục tổng

Hàm cầu Marshall qi = f(p1, p2, p3, p4,p5, x) (với i = 1, 2, 3, 4, 5)

Trong vấn đề chọn mẫu: thực hiện thủ tục Heckman hai bước

Trong vấn đề sai số đo lường:

 Phương pháp ước lượng SUR Ước lượng hàm cầu

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Quy trình từng bước nghiên cứu

Quá trình ước lượng hàm cầu giáo dục phổ thông tại hộ gia đình dựa trên dữ liệu VHLSS được thực hiện thông qua hệ thống hàm cầu LA/AIDS và phương pháp kinh tế lượng Nghiên cứu này không chỉ xử lý dữ liệu mà còn ước lượng mô hình và kiểm tra các điều kiện áp đặt Kết quả từ các tham số hồi quy của từng hàm cầu trong hệ thống LA/AIDS sẽ được sử dụng để tính toán độ co giãn của cầu, với các công thức (2.25), (2.26) và (2.27) nhằm xác định hệ số co giãn Marshall và hệ số co giãn Hicks.

Bước 1: Sử dụng phần mềm stata để trích số liệu và xử lý số liệu

Bước 2: Phân tích mô tả cho dịch vụ giáo dục của hộ

Bước 3: Phân tích hàm cầu giáo dục phổ thông từ hệ thống hàm cầu

- Chọn nhóm sản phẩm là giáo dục, y tế và thực phẩm

- Trích lọc loại bỏ những quan sát không phù hợp của biến số chi tiêu

- Gán đặt các giá trị về mức giá của hộ không có chi tiêu dùng mặt hàng thứ i

- Loại bỏ các quan sát có giá trị dị biệt qua phân tích Box Plot

- Hoàn thiện bộ dữ liệu nghiên cứu

- Phân tích thống kê mô tả, bảng dữ liệu 2 chiều và kiểm định Anova về sự khác biệt giá trị trung bình giữa từng nhóm

- Thiết lập các công thức tính toán, các chỉ số giá được sử dụng

- Phân tích theo nhóm thu nhập

- Phân tích theo khu vực

- Phân tích theo vùng miền

- Thực hiện vấn đề hộ không có dữ liệu tiêu dùng, hoặc không tiêu dùng qua thủ tục Heckman hai bước

- Hệ thống mô hình hàm cầu LA/AIDS rút ra hàm cầu dịch vụ giáo dục

- Ước lượng các hệ số trong hệ thống bằng phương pháp SUR

- Kiểm định mức phù hợp và ý nghĩa thống kê

- Kiểm định các áp đặt điều kiện về tính đối xứng và tính cộng dồn

- Kiểm định phương sai thay đổi

Phương pháp SUR được sử dụng để ước lượng lại mô hình hàm cầu, với mục tiêu áp đặt điều kiện cho tính đối xứng và tính cộng dồn Phương pháp này giúp khắc phục hiện tượng phương sai sai số thay đổi trong mô hình, từ đó nâng cao độ chính xác của các ước lượng.

- Rút ra phương trình cầu giáo dục ở từng năm

- Tính co giãn của hàm cầu Marshall và hàm cầu Hick theo chỉ số giá Laspeyres

Nguồn: Tổng hợp tham khảo lý thuyết và nghiên cứu trước của tác giả

Hình 3.1: Quy trình từng bước nghiên cứu

Mô hình nghiên cứu

Bài nghiên cứu này phân tích hàm cầu giáo dục phổ thông trong hộ gia đình Việt Nam, bao gồm bốn cấp học: tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông và đại học Ngoài giáo dục, các sản phẩm khác như y tế và thực phẩm (cá, thịt, rau) cũng được xem xét Mô hình hàm cầu LA/AIDS sử dụng các sản phẩm giáo dục, y tế, cá, thịt và rau để ước lượng nhu cầu của hộ gia đình.

Bảng 3.1: Mô tả các biến nghiên cứu của mô hình

Biến tỷ trọng được tính toán bằng chi tiêu của sản phẩm thứ i chia cho tổng chi tiêu 5 sản phẩm

Giá trung bình của từng nhóm sản phẩm j (j = 1, 2, 3, 4, 5)

(1: dịch vụ giáo dục phổ thông; 2: y tế, 3: sản phẩm cá; 4: sản phẩm thịt; 5: sản phẩm rau) x Tổng ngân sách chi tiêu cho 5 sản phẩm

Hk: Các biến giải thích và biến kiểm soát

LnAge Logarit tuổi chủ hộ

LnHHsize Logarit quy mô hộ gia đình

LnEdu Logarit học vấn chủ hộ

Gender Biến giả giới tính chủ hộ (Nam = 1, nữ = 0)

Location Biến giả khu vực dân cư (Thành thị = 1, nông thôn = 0)

Biến giả cho những hộ sinh sống ở vùng:

REG1: Vùng Trung Du và Miền Núi Phía Bắc

REG2: Vùng Đồng Bằng Sông Hồng

REG3: Vùng Bắc Trung Bộ và Duyên Hải Miền Trung

REG5: Vùng Đông Nam Bộ

REG6: Vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long

Trong đó, REG1 sử dụng làm nhóm tham chiếu

Biến giả nhóm thu nhập hộ gia đình (Inc1 đến Inc5) được phân chia theo mức độ giàu nghèo, trong đó Inc1 đại diện cho nhóm hộ nghèo nhất và Inc5 cho nhóm hộ giàu nhất Nhóm Inc1 được sử dụng làm nhóm tham chiếu, trong khi ui biểu thị sai số ngẫu nhiên.

Nguồn: Tác giả lược khảo lý thuyết và tổng hợp.

Giả thuyết nghiên cứu

Dựa trên các lý thuyết liên quan đến cầu tiêu dùng dịch vụ giáo dục và các nghiên cứu trước đây, tác giả kỳ vọng sẽ xác định được mối quan hệ giữa các biến số trong nghiên cứu này.

Bảng 3.2: Dấu kỳ vọng của những hệ số co giãn hàm cầu giáo dục

Ký hiệu Tên biến Dấu kỳ vọng hệ số co giãn

+ Nếu i = j, giá riêng của sản phẩm dịch vụ giáo dục phổ thông (j =1) eii có dấu âm (-)

Nếu i khác j, giá của các sản phẩm liên quan (j = 2, 3, 4 và 5 bao gồm các sản phẩm y tế, cá, thịt và rau) sẽ có những ảnh hưởng nhất định Nếu eij có dấu dương (+), điều này cho thấy các sản phẩm này là những sản phẩm thay thế cho nhau Ngược lại, nếu eij có dấu âm (-), các sản phẩm này sẽ bổ sung cho nhau Tổng ngân sách chi tiêu cho 5 sản phẩm này được ký hiệu là x và có giá trị dương (+).

HHsize Quy mô hộ gia đình

Edu Học vấn chủ hộ

Gender Giới tính chủ hộ

Location Khu vực dân cư

Các nhóm hộ chi tiêu cho dịch vụ giáo dục được phân chia theo 6 vùng kinh tế, trong đó có sự khác biệt rõ rệt về các chỉ số eii, eij và AI giữa các vùng này.

Các nhóm hộ chi tiêu dịch vụ giáo dục được phân chia theo 5 nhóm thu nhập khác nhau Sự khác biệt trong chi tiêu giáo dục giữa các nhóm thu nhập này thể hiện qua các chỉ số eii, eij và AI.

Nguồn: Tác giả lược khảo lý thuyết và tổng hợp Giả thuyết nghiên cứu:

Giả thuyết 1 (H1) cho rằng hệ số co giãn của cầu dịch vụ giáo dục phổ thông theo giá riêng có dấu âm và các giá trị này có sự thay đổi theo thời gian.

Giả thuyết 2 (H2) cho rằng hệ số co giãn của cầu dịch vụ giáo dục phổ thông theo giá chéo đối với các sản phẩm thay thế như cá, thịt và rau có dấu dương và thay đổi theo thời gian.

Giả thuyết 3 (H3) đề xuất rằng hệ số co giãn của cầu dịch vụ giáo dục phổ thông theo giá chéo đối với sản phẩm bổ sung, cụ thể là y tế, sẽ có dấu âm và có sự biến đổi theo thời gian.

Giả thuyết 4 (H4) đề xuất rằng hệ số co giãn của cầu dịch vụ giáo dục phổ thông theo thu nhập (chi tiêu) có dấu dương và có sự biến đổi theo thời gian.

Giả thuyết 5 (H5) cho rằng có sự khác biệt trong kiểu hình chi tiêu cho giáo dục phổ thông theo thời gian, liên quan đến các yếu tố nhân khẩu học, khu vực cư trú, nhóm thu nhập của hộ gia đình và các vùng kinh tế.

Phương pháp thống kê mô tả

Bài viết mô tả dữ liệu nghiên cứu thông qua các chỉ số chi tiêu cho dịch vụ giáo dục, phân tích theo thu nhập và nhóm tuổi của chủ hộ, thu nhập và quy mô hộ gia đình, cùng với khu vực dân cư và vùng kinh tế trong các năm 2014 và 2016 Mục tiêu là cung cấp cái nhìn tổng quan về dữ liệu nghiên cứu này.

Mô hình SUR

Trong nghiên cứu các hệ thống biểu thức liên quan, mô hình hồi quy SUR (Seemingly Unrelated Regression) được áp dụng Đối với hàm cầu LA/AIDS, biến phụ thuộc là tỷ trọng chi tiêu của sản phẩm thứ i trong tổng chi tiêu cho nhóm sản phẩm, dẫn đến việc có n phương trình cho n sản phẩm Phương pháp ước lượng đảm bảo sự liên quan giữa các hệ số từ các phương trình trong hệ thống, đồng thời tuân thủ điều kiện tính đồng nhất và tính đối xứng Mô hình SUR được sử dụng để ước lượng hàm cầu tiêu dùng giáo dục phổ thông của hộ gia đình.

Trong các biểu thức khác nhau, các thành phần sai số có mối quan hệ với nhau, đặc biệt khi có những yếu tố chung không quan sát được trong hệ thống nhiều biểu thức Những yếu tố này có thể ảnh hưởng đến tác động của các biến độc lập trong mô hình.

Các tham số trong các biểu thức khác nhau có mối quan hệ với nhau, đặc biệt khi có một hoặc một số hệ số giống nhau Điều này cũng xảy ra khi các mối quan hệ giữa các hệ số trong một biểu thức là tuyến tính, hoặc khi các hệ số trong các biểu thức khác nhau có mối quan hệ phi tuyến.

Mô hình SUR giả định n phương trình liên quan với nhau:

𝑦 𝑛 = 𝛽 𝑛 𝑋 𝑛 + à 𝑛 Đơn giản hóa bằng n phương trình tóm tắt:

𝑦 𝑖 : là một vectơ cột Tx1 của các quan sát cho biến phụ thuộc thứ i

𝑋 𝑖 : là một ma trận TxK của các quan sát

𝛽 𝑖 : là vectơ cột Kx1 của các tham số cho biểu thức thứ i à 𝑖 : là vectơ cột Tx1 của thành phần sai số cho biểu thức thứ i

K: là số biến giải thích n: là số phương trình

Hệ thống hàm cầu là một mô hình tổng quát bao gồm n phương trình hồi quy không liên quan, được diễn đạt qua ma trận hệ thống biểu thức SUR.

Mô hình tổng quát giả định có các điểm chính sau: (1) Hàm theo các tham số là tuyến tính; (2) Giá trị trung bình của thành phần sai số là 0; (3) Phân bố sai số không có hình cầu; (4) Thành phần sai số tuân theo phân phối chuẩn; và (5) Trong ma trận phương sai - hiệp phương sai, các biến giải thích không có tương quan với thành phần sai số.

Sử dụng kinh tế lượng để ước lượng mô hình hàm cầu giáo dục phổ thông

Theo Deaton và Muellbauer (1980a, b) đã đề xuất sử dụng chỉ số giá Laspeyres thay cho chỉ số giá Stone trong việc ước lượng hệ thống hàm cầu AIDS Việc sử dụng chỉ số Stone có thể dẫn đến sai lệch do lựa chọn đơn vị đo lường cho các nhóm sản phẩm (Pashardes, 1993) Do đó, chỉ số giá Laspeyres được lựa chọn để xây dựng mô hình AIDS gần như tuyến tính, được biểu thị dưới dạng LA/AIDS.

Trong đó: w: Tỷ trọng chi tiêu cho từng nhóm sản phẩm thứ i pj: Giá mua của từng đơn vị sản phẩm thứ j (j = 1, 2, 3, 4, 5)

𝛾 𝑖𝑗 : Hệ số của biến giá

𝛽 𝑖 : Hệ số của biến chi tiêu x: Tổng ngân sách chi tiêu cho 5 nhóm sản phẩm trong hệ thống hàm cầu ln 𝑃 𝐿 = ∑ 𝑛 𝑖=1 𝑤̅̅̅ ln 𝑝 𝑖 𝑖 : chỉ số giá chuẩn hóa Laspeyres

Dựa trên việc tổng hợp các nghiên cứu trước đây, mô hình LA/AIDS ở giai đoạn cuối đã được điều chỉnh bằng cách thêm vào các biến nhân khẩu học của gia đình, dẫn đến một mô hình ước lượng mới.

Trong nghiên cứu, các biến đặc tính của hộ gia đình bao gồm tuổi, trình độ học vấn, dân tộc, giới tính của chủ hộ, quy mô hộ gia đình, khu vực cư trú (thành thị hoặc nông thôn), 6 vùng địa lý và các nhóm thu nhập được phân loại theo ngũ phân vị.

Trong quá trình ước lượng hàm cầu thực nghiệm, việc thu thập dữ liệu cho thấy có những quan sát về chi tiêu cho sản phẩm thứ i không có giá trị, dẫn đến biến phụ thuộc wi bằng không Nếu chỉ áp dụng phương pháp OLS, kết quả nghiên cứu sẽ bị sai lệch và không nhất quán do vấn đề sai lệch trong chọn mẫu (Chern và ctg, 2003) Do đó, cần sử dụng biến tiềm ẩn không quan sát được để kiểm duyệt biến phụ thuộc có giá trị bằng không Chern và ctg (2003) đã áp dụng quy trình hai bước Heckman để giải quyết vấn đề thiếu thông tin về chi tiêu, với giả định rằng mức chi tiêu bằng không là do chọn mẫu ngẫu nhiên.

Trong đó, Heckman (1979) đã đề xuất thủ tục hai bước để giải quyết vấn đề mẫu bị kiểm duyệt cho nhiều quan sát là:

Bước đầu tiên trong việc phân tích quyết định chi tiêu của hộ gia đình là áp dụng hồi quy Probit để ước lượng xác suất chi tiêu cho một sản phẩm cụ thể Hàm cầu trong mô hình này được diễn đạt một cách chính xác để phản ánh mối quan hệ giữa các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định chi tiêu.

Tỷ lệ khả năng chi tiêu cho sản phẩm thứ i, được ký hiệu là 𝑤 𝑖 ∗, phản ánh quyết định của hộ gia đình về việc mua hay không mua sản phẩm này Quyết định này có thể tạo thành hàm lựa chọn của hộ gia đình, thể hiện rõ ràng trong việc lựa chọn giữa việc mua hay không mua sản phẩm i.

Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định chi tiêu của hộ gia đình bao gồm Xi và các nhân tố khác, với εi là sai số Khi hộ gia đình quyết định chi tiêu cho sản phẩm, giá trị pi = 1 cho thấy rằng 𝑤 𝑖 ∗ đại diện cho mức chi tiêu thực tế của họ.

Bước 2: Tính tỷ lệ IMR (Inverse Mills Ratio) dựa trên kết quả hồi quy Probit, sử dụng hàm mật độ chuẩn hóa phân phối chuẩn Biến IMR là yếu tố quyết định trong việc lựa chọn chi tiêu hay không, phản ánh tỷ trọng chi tiêu cho sản phẩm i Mối quan hệ giữa biến hồi quy IMR và biến phụ thuộc trong mô hình ước lượng hàm cầu được khẳng định là rất quan trọng Tỷ lệ IMR của từng hộ gia đình được tính theo hai trường hợp cụ thể.

𝛷(𝑥𝛽) hộ gia đình có chi tiêu cho sản phẩm i (pi = 1) (3.6)

1−𝛷(𝑥𝛽) hộ gia đình không chi tiêu cho sản phẩm i (pi = 0) (3.7)

Dựa trên phương trình (3.2), để giải quyết vấn đề chi tiêu của hộ gia đình, mô hình ước lượng LA/AIDS đã được bổ sung biến IMR nhằm nâng cao mức độ giải thích.

IMR là một biến liên kết quan trọng trong việc giải thích quyết định lựa chọn của người tiêu dùng, đại diện cho lượng cầu trong phương trình hàm cầu Sự sai lệch trong chọn mẫu giữa hộ gia đình tiêu dùng và không tiêu dùng cho sản phẩm i có thể được đánh giá qua hệ số hồi quy của biến IMR đối với biến phụ thuộc trong mô hình ước lượng (𝜋 𝑖) Độ co giãn của cầu, theo nghiên cứu của Deaton và Muellbauer (1980a), được tính toán dựa trên độ co giãn theo chi tiêu (thu nhập).

𝑤 𝑖 (3.9) Độ co giãn theo giá riêng:

𝑤 𝑖 −𝛽 𝑖 (3.10) Độ co giãn theo giá chéo:

Phương trình Slutskt, được biểu diễn dưới dạng eij * = eij + wjAI, là công cụ quan trọng để tính toán hệ số co giãn trong mô hình hàm cầu Hicks Trong đó, eij * đại diện cho hệ số co giãn của cầu Hicks, còn eij là hệ số co giãn của cầu Marshall Các giá trị của hệ số co giãn này được xác định dựa trên bình mẫu của mẫu nghiên cứu.

Mô tả dữ liệu của nghiên cứu

Dữ liệu trong bài nghiên cứu được thu thập từ khảo sát mức sống hộ gia đình Việt Nam (VHLSS) do Tổng Cục Thống kê thực hiện vào năm 2014 và 2016 Sau khi xử lý và loại bỏ các quan sát lỗi, nghiên cứu cuối cùng còn lại 9.399 quan sát cho cả hai năm 2014 và 2016.

Bảng 3.3: Thông tin nguồn dữ liệu được trích lọc

Nguồn Tên trường Tên biến Giải thích

Ho1 m3ct HExpc Chi tiêu cho y tế

Ho1 dantoc Ethnic Dân tộc chủ hộ

Ho1 tsnguoi HHsize Quy mô hộ

Ho1 ttnt Location Khu vực

Mục 1 m1ac5 Age Tuổi của chủ hộ

Mục 1 m1ac2 Gender Giới tính chủ hộ

Mục 2 m2ac6 Edu Trình độ học vấn của chủ hộ

Mục 2 m2xc11k, m2xc17 EExpc Chi tiêu giáo dục

Mục4A m4ac9 Inc Thu nhập hộ gia đình

Mục 5A2(2) m5a2ma (mã 126, mã 127, mã 128, mã 129) rauExpc Chi tiêu rau Mục 5A2(1) m5a1ma (mã 110, mã 111) thitExpc Chi tiêu thịt

Mục 5A2(2) m5a2ma (mã 118, mã 119) caExpc Chi tiêu cá

Nguồn: Tác giả tự tổng hợp từ VHLSS

Chi tiêu cho dịch vụ giáo dục phổ thông bao gồm tổng chi của bốn cấp học: tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông và đại học, được tổng hợp từ các mã m2xc11k và m2xc17 Chi tiêu dịch vụ y tế của hộ gia đình được lấy từ mã m3ct trong mục Ho1 Chi tiêu sản phẩm cá được tổng hợp từ chi tiêu thịt cá, tôm tươi và tôm khô, trích từ mã 118 và 119 trong mục 5A2(2) Chi tiêu sản phẩm thịt của hộ gia đình được tính bằng trung bình của thịt heo và thịt bò, lấy từ mã 111 và 110 trong mục 5A2(1) Cuối cùng, chi tiêu sản phẩm rau được tổng hợp từ chi tiêu rau muống, su hào, bắp cải và cà chua, trích từ các mã 126, 127, 128 và 129 trong mục 5A2(2).

Bài nghiên cứu tập trung vào dữ liệu chi tiêu của hộ gia đình cho năm nhóm sản phẩm, chỉ bao gồm các hộ gia đình có hoạt động mua bán theo mức giá Dữ liệu không bao gồm tiêu dùng tự túc hoặc trợ cấp từ nguồn khác Các quan sát có chi tiêu âm và tổng chi tiêu bằng 0 đã được loại bỏ, dẫn đến số liệu cuối cùng cho năm 2014 là 9.392 hộ gia đình.

Năm 2016, có 9,398 hộ gia đình được khảo sát Việc ước lượng hàm cầu với biến phụ thuộc là tỷ trọng chi tiêu trong nhóm sản phẩm gặp khó khăn do nhiều hộ gia đình có giá trị chi tiêu bằng không cho một số sản phẩm nhất định Điều này xảy ra với 5 sản phẩm trong các năm 2014 và 2016, khi một số hộ không chi tiêu cho một sản phẩm cụ thể.

Bảng 3.4: Những hộ gia đình không có giá trị về chi tiêu cho những nhóm sản phẩm năm 2014 và năm 2016

Số mẫu (hộ) Phần trăm (%) Số mẫu (hộ) Phần trăm (%)

Nguồn: Tác giả tính toán từ dữ liệu điều tra VHLSS 2014 và VHLSS 2016

Theo bảng 3.4, trong năm 2016, tỷ lệ hộ gia đình không tiêu dùng các sản phẩm dịch vụ giáo dục, y tế, cá, thịt và rau lần lượt là 50,25%, 3,34%, 3,39%, 2,13% và 9,2% Điều này cho thấy rằng nhiều hộ gia đình không bao giờ tiêu dùng một loại sản phẩm cụ thể nào, do số liệu điều tra VHLSS chỉ phản ánh trong khoảng thời gian 30 ngày trước đó Mặc dù các hộ gia đình vẫn có khả năng mua sắm, nhưng điều này cần được điều chỉnh thông qua việc ước lượng các biến IMR bổ sung trong mô hình ước tính cuối cùng.

Vấn đề tiêu dùng bằng không thường gặp phải thiếu dữ liệu về giá cả, đặc biệt đối với các hộ gia đình không tiêu dùng, khiến việc thu thập thông tin về chi tiêu và lượng tiêu dùng trở nên khó khăn Do đó, để ước lượng hệ thống hàm cầu hoàn chỉnh, cần có giá cả của tất cả sản phẩm mà hộ gia đình tiêu dùng Tuy nhiên, đối với các hộ gia đình không tiêu dùng một sản phẩm cụ thể, dữ liệu giá cho sản phẩm đó không có sẵn Vu (2008) đã giải quyết vấn đề chênh lệch giá do tiêu dùng bằng không bằng cách tính giá trị trung bình theo nhóm thu nhập và khu vực dân cư, với giả thuyết rằng hộ gia đình có điều kiện kinh tế và văn hóa tương đồng sẽ có thu nhập trung bình giống nhau Bộ dữ liệu VHLSS năm 2014 và 2016 cung cấp thông tin cho 5 nhóm thu nhập và 6 vùng kinh tế.

Tác giả đã sử dụng đồ thị Box Plot để phân tích và loại bỏ các giá trị dị biệt trong biến thu nhập, cụ thể là những điểm có giá trị vượt quá 3 lần khoảng phân vị (IQ) so với phân vị thứ nhất hoặc thứ ba, tương ứng dưới 5% và trên 95% tổng số quan sát Sau khi làm sạch dữ liệu, số quan sát cuối cùng trong bộ dữ liệu nghiên cứu là 9191 cho năm 2014 và 9165 cho năm 2016.

PHÂN TÍCH KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Ngày đăng: 12/01/2022, 23:49

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Hình 2.1. Quyết định học tập - Ước lượng cầu giáo dục phổ thông ở hộ gia đình việt nam
Hình 2.1. Quyết định học tập (Trang 24)
Hình 2.2 Mô hình đầu tư vốn con người - Ước lượng cầu giáo dục phổ thông ở hộ gia đình việt nam
Hình 2.2 Mô hình đầu tư vốn con người (Trang 25)
Hình 2.3: Tối đa hóa độ thỏa dụng và tối thiểu hóa chi phí. - Ước lượng cầu giáo dục phổ thông ở hộ gia đình việt nam
Hình 2.3 Tối đa hóa độ thỏa dụng và tối thiểu hóa chi phí (Trang 27)
Bảng 3.1: Mô tả các biến nghiên cứu của mô hình - Ước lượng cầu giáo dục phổ thông ở hộ gia đình việt nam
Bảng 3.1 Mô tả các biến nghiên cứu của mô hình (Trang 50)
Bảng 3.2: Dấu kỳ vọng của những hệ số co giãn hàm cầu giáo dục. - Ước lượng cầu giáo dục phổ thông ở hộ gia đình việt nam
Bảng 3.2 Dấu kỳ vọng của những hệ số co giãn hàm cầu giáo dục (Trang 51)
Bảng 4.1: Trung bình số học sinh đi học ở những hộ gia đình theo nhóm thu nhập - Ước lượng cầu giáo dục phổ thông ở hộ gia đình việt nam
Bảng 4.1 Trung bình số học sinh đi học ở những hộ gia đình theo nhóm thu nhập (Trang 62)
Bảng 4.2: Kiểm định sự bằng nhau về số học sinh đang đi học ở những hộ gia đình - Ước lượng cầu giáo dục phổ thông ở hộ gia đình việt nam
Bảng 4.2 Kiểm định sự bằng nhau về số học sinh đang đi học ở những hộ gia đình (Trang 63)
Bảng 4.3 và Bảng 4.4 liệt kê các giá trị thống kê mô tả của các gia đình có thu  nhập khác nhau, tức là mức chi trả cho giáo dục theo quy mô gia đình sẽ khác nhau  (p-value  =  0,0000) - Ước lượng cầu giáo dục phổ thông ở hộ gia đình việt nam
Bảng 4.3 và Bảng 4.4 liệt kê các giá trị thống kê mô tả của các gia đình có thu nhập khác nhau, tức là mức chi trả cho giáo dục theo quy mô gia đình sẽ khác nhau (p-value = 0,0000) (Trang 65)
Bảng 4.7: Trung bình số học sinh đang đi học ở những hộ gia đình theo vùng và - Ước lượng cầu giáo dục phổ thông ở hộ gia đình việt nam
Bảng 4.7 Trung bình số học sinh đang đi học ở những hộ gia đình theo vùng và (Trang 67)
Bảng 4.12: Kiểm định Wald của mô hình LA/AIDS 8  có áp đặt điều kiện tính đồng - Ước lượng cầu giáo dục phổ thông ở hộ gia đình việt nam
Bảng 4.12 Kiểm định Wald của mô hình LA/AIDS 8 có áp đặt điều kiện tính đồng (Trang 73)
Bảng 4.13: Kiểm định phương sai sai số thay đổi của mô hình ước lượng  9 - Ước lượng cầu giáo dục phổ thông ở hộ gia đình việt nam
Bảng 4.13 Kiểm định phương sai sai số thay đổi của mô hình ước lượng 9 (Trang 75)
Bảng 4.15: Hệ số co giãn của cầu các sản phẩm theo chi tiêu (thu nhập). - Ước lượng cầu giáo dục phổ thông ở hộ gia đình việt nam
Bảng 4.15 Hệ số co giãn của cầu các sản phẩm theo chi tiêu (thu nhập) (Trang 81)
Bảng 4.17: Hệ số co giãn của cầu giáo dục phổ thông theo giá chéo cho từng sản - Ước lượng cầu giáo dục phổ thông ở hộ gia đình việt nam
Bảng 4.17 Hệ số co giãn của cầu giáo dục phổ thông theo giá chéo cho từng sản (Trang 85)
Bảng 4.18: Các hệ số hồi quy ước lượng hàm cầu giáo dục phổ thông mô hình  LA/AIDS 11  theo thành thị và nông thôn có áp đặt điều kiện tính cộng dồn và tính - Ước lượng cầu giáo dục phổ thông ở hộ gia đình việt nam
Bảng 4.18 Các hệ số hồi quy ước lượng hàm cầu giáo dục phổ thông mô hình LA/AIDS 11 theo thành thị và nông thôn có áp đặt điều kiện tính cộng dồn và tính (Trang 88)
Bảng 4.20: Những hệ số hồi quy ước lượng hàm cầu giáo dục phổ thông  LA/AIDS 12  theo nhóm thu nhập có áp đặt điều kiện tính đồng nhất và tính đối - Ước lượng cầu giáo dục phổ thông ở hộ gia đình việt nam
Bảng 4.20 Những hệ số hồi quy ước lượng hàm cầu giáo dục phổ thông LA/AIDS 12 theo nhóm thu nhập có áp đặt điều kiện tính đồng nhất và tính đối (Trang 93)

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w