1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Sự khác biệt trong thu nhập hộ gia đình giữa hộ ở xã đạt chuẩn và chưa đạt chuẩn nông thôn mới trên địa bàn huyện bình chánh

154 9 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Sự Khác Biệt Trong Thu Nhập Hộ Gia Đình Giữa Hộ Ở Xã Đạt Chuẩn Và Chưa Đạt Chuẩn Nông Thôn Mới Trên Địa Bàn Huyện Bình Chánh
Tác giả Trần Thanh Phương
Người hướng dẫn PGS.TS: Nguyễn Thuấn
Trường học Trường Đại Học Mở Thành Phố Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Kinh Tế Học
Thể loại luận văn thạc sĩ
Năm xuất bản 2020
Thành phố Thành Phố Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 154
Dung lượng 5,8 MB

Cấu trúc

  • 1. CHƯƠNG 1: MỞ ĐẦU (0)
    • 1.1 Đặt vấn đề và lý do nghiên cứu (19)
    • 1.2 Mục tiêu nghiên cứu (0)
    • 1.3 Câu hỏi nghiên cứu (21)
    • 1.4 Phạm vi và Đối tƣợng nghiên cứu (22)
      • 1.4.1 Phạm vi nghiên cứu (22)
      • 1.4.2 Đối tượng nghiên cứu (0)
      • 1.4.3 Giới hạn nghiên cứu (22)
    • 1.5 Phương pháp nghiên cứu (22)
    • 1.6 Ý nghĩa thực tiễn của đề tài (23)
    • 1.7 Kết cấu của đề tài (23)
  • 2. CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC (0)
    • 2.1 Các khái niệm liên quan (25)
      • 2.1.1 Thu nhập (0)
      • 2.1.2 Thu nhập hộ gia đình (0)
      • 2.1.3 Khái niệm Tiền lương, tiền công (26)
      • 2.1.4 Nông Thôn mới (0)
        • 2.1.4.1 Lịch sử phát triển nông thôn ở nước ta (0)
        • 2.1.4.1 Kinh nghiệm xây dựng nông thôn mới ở một số quốc gia trên thế giới (0)
    • 2.2 Cơ sở lý thuyết (30)
      • 2.2.1 Lý thuyết về thu nhập (30)
      • 2.2.2 Lý thuyết về tiền lương, tiền công (31)
      • 2.2.3 Lý thuyết khung sinh kế bền vững (32)
      • 2.2.4 Lý thuyết Phát triển nông thôn (33)
    • 2.3 Các nghiên cứu trước (34)
      • 2.3.1 Nghiên cứu trong nước (34)
      • 2.3.2 Nghiên cứu nước ngoài (36)
    • 2.4 Sự giống và khác nhau giữa nghiên cứu của tác giả với các nghiên cứu trước (37)
    • 2.5 Tóm tắt Chương 2 (38)
    • 3.1 Quy trình nghiên cứu (39)
    • 3.2 Phương pháp nghiên cứu (40)
      • 3.2.1 Nghiên cứu định tính (40)
      • 3.2.2 Nghiên cứu định lƣợng (41)
    • 3.3 Phương pháp phân tích số liệu (41)
    • 3.4 Mô hình nghiên cứu (45)
      • 3.4.1 Phương trình nghiên cứu đưa ra (46)
      • 3.4.2 Đo lường các biến trong mô hình và giả thuyết nghiên cứu (47)
        • 3.4.2.1 Đo lường các biến trong mô hình (47)
        • 3.4.2.2 Các giả thuyết nghiên cứu (50)
    • 3.5 Dữ liệu nghiên cứu và Mẫu nghiên cứu (54)
      • 3.5.1 Dữ liệu nghiên cứu (54)
      • 3.5.2 Mẫu nghiên cứu (54)
    • 3.6 Tóm tắt chương 3 (56)
    • 4.1 Đặc điểm tình hình kinh tế- xã hội Huyện Bình Chánh (57)
      • 4.1.1 Vị trí địa lý (57)
      • 4.1.2 Kinh tế (57)
      • 4.1.3 Văn hóa xã hội (58)
      • 4.1.4 Môi trường (58)
      • 4.1.5 Tình hình sản xuất nông nghiệp (58)
      • 4.1.6 Kết quả thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng Nông thôn mới trên địa bàn huyện Bình Chánh giai đoạn 2010-2019 (59)
    • 4.2 Kết quả nghiên cứu định lƣợng (61)
      • 4.2.1 Thống kê các biến trong mô hình (0)
      • 4.2.2 Phân tích giá trị trung bình các biến định lƣợng thống kê (68)
      • 4.3.1 Kiểm định sự tương quan và Đa cộng tuyến (77)
      • 4.3.2 Kết quả hồi quy (80)
      • 4.3.3 Đánh giá sự phù hợp của mô hình hồi quy (0)
      • 4.3.4 Các giả định trong mô hình tuyến tính (82)
        • 4.3.4.1 Giả định về phân phối chuẩn và phần dƣ (82)
      • 4.3.5 Phân tích kết quả hồi quy trong mô hình (83)
        • 4.3.5.1 Giải thích các biến có ý nghĩa trong mô hình (84)
        • 4.3.5.2 Giải thích các biến không có ý nghĩa trong mô hình (0)
      • 4.3.6 Phương trình hồi quy của Nhóm I (88)
      • 4.3.7 Giá trị trung bình các biến tham gia trong mô hình nhóm I (88)
    • 4.4 Kết quả nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập bình quân của hộ (89)
      • 4.4.1 Kiểm định sự tương quan và Đa cộng tuyến (89)
      • 4.4.2 Kết quả hồi quy (91)
      • 4.4.3 Đánh giá sự phù hợp của mô hình hồi quy (0)
      • 4.4.4 Các giả thuyết trong mô hình tuyến tính (93)
        • 4.4.4.1 Giả định về phân phối chuẩn và phần dƣ (93)
      • 4.4.5 Phân tích kết quả hồi quy trong mô hình Nhóm II (94)
        • 4.4.5.1 Giải thích các biến có ý nghĩa trong mô hình (94)
        • 4.4.5.2 Giải thích các biến không có ý nghĩa trong mô hình (0)
      • 4.4.6 Phương trình hồi quy của Nhóm II (99)
      • 4.4.7 Giá trị trung bình các biến tham gia trong mô hình nhóm II (99)
    • 4.5 Sự khác biệt thu nhập giữa hộ ở xã đạt và đang xây dựng theo tiêu chuẩn nông thôn mới huyện Bình Chánh (0)
      • 4.5.1 Ƣớc lƣợng thu nhập bình quân (0)
      • 4.5.2 Thực hiện phân rã tìm sự khác biệt (102)
        • 4.5.2.1 Sự khác biệt do các đặc tính tạo ra (do các biến tạo ra) (102)
        • 4.5.2.2 Sự khác biệt do hệ số hồi quy được ước lượng và do sự phân biệt đối xử (104)
    • 4.6 Tóm tắt chương 4 (106)
    • 5.1 Kết luận (107)

Nội dung

CHƯƠNG 1: MỞ ĐẦU

Đặt vấn đề và lý do nghiên cứu

Sau 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, Đảng, Nhà nước ta luôn đặt nông nghiệp, nông dân, nông thôn ở vị trí chiến lược quan trọng, coi đó là cơ sở và lực lượng để phát triển KT-XH bền vững, ổn định chính trị, bảo đảm an ninh, quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắt văn hóa dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới là một chương trình trọng tâm, xuyên suốt của Nghị quyết số 26-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn và Quyết định số 800QĐ/TTg về phê duyệt chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng NTM giai đoạn 2010-

Năm 2020, mục tiêu chính là nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân nông thôn, xây dựng nền nông nghiệp hiện đại và bền vững Đồng thời, phát triển nông thôn mới với hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý và các hình thức tổ chức sản xuất hiệu quả Việc xây dựng giai cấp nông dân vững mạnh, củng cố liên minh công nông và đội ngũ tri thức sẽ là nền tảng quan trọng để đảm bảo thành công trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo hướng xã hội chủ nghĩa.

Qua 10 năm thực hiện, phong trào xây dựng NTM đã diễn ra sôi nổi ở khắp các địa phương trên cả nước, thu hút sự tham gia của cả cộng đồng, huy động tổng lực các nguồn vốn cho xây dựng nông thôn mới Tại TPHCM phong trào đã làm thay đổi diện mạo của cả vùng nông thôn Thành phố, đời sống vật chất và tinh thần của người dân từng bước được nâng cao Thành phố được Trung ương xác định là đô thị đặc biệt với hơn 9 triệu dân Thành phố có 5 huyện (Bình Chánh, Củ Chi, Cần Giờ, Nhà Bè và huyệnHóc Môn), với hơn 56 xã tham gia thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng NTM Xây dựng Nông thôn mới trên địa bàn Thành phố có một số đặc thù như tốc độ đô thị hóa nhanh, mật độ và quy mô dân số cao, diện tích đất nông nghiệp có chiều hướng giảm nhanh, yêu cầu phát triển nông nghiệp theo hướng đô thị, công nghệ cao, công nghệ sinh học…

Theo PSO, GRDP của TP.HCM năm 2019 ước tính tăng 7,86% so với năm trước, trong đó GRDP nông nghiệp tăng hơn 5,9%/năm, với giá trị sản xuất nông nghiệp đạt gần 23.400 tỉ đồng, tăng bình quân trên 6%/năm Mặc dù thấp hơn mức tăng trưởng 7,89% của năm 2018, đây vẫn là hai mức tăng cao nhất trong 10 năm qua Từ năm 2010, TP.HCM đã duy trì mức tăng trưởng kinh tế xấp xỉ 10%/năm, gấp 1,66 lần mức bình quân cả nước (5,8%) Kể từ nghị quyết đầu tiên về phát triển TP.HCM vào tháng 9-1982, GDP bình quân đầu người không ngừng cải thiện, dự kiến đạt khoảng 9.800 USD vào năm 2020 Sự tăng trưởng này đã cải thiện đời sống người dân, với thu nhập bình quân/người/tháng ở khu vực nông thôn năm 2014 đạt gần 3.600 ngàn đồng, tương đương 78,7% so với khu vực thành thị, tăng hơn 22% so với năm 2012 và bình quân gần 21,5% mỗi năm trong giai đoạn 2010-2014.

Phong trào xây dựng nông thôn mới (NTM) tại huyện Bình Chánh đã tạo ra sự chuyển mình rõ rệt cho khu vực nông thôn, góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân Theo thông tin từ Ban chỉ đạo xây dựng NTM huyện, những nỗ lực này đã tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển bền vững trong cộng đồng.

Từ năm 2010, huyện Bình Chánh bắt đầu chương trình xây dựng nông thôn mới (NTM) tại xã Tân Nhựt, và sau 10 năm, đến cuối năm 2019, đã hoàn thành 12/14 xã, với Bình Hưng và thị trấn Tân Túc không tham gia Tỷ lệ hộ nghèo tại 14 xã đã giảm mạnh từ 1.290 hộ (0,92% tổng hộ dân) vào năm 2015 xuống còn 498 hộ (0,31%) vào cuối năm 2018 Thu nhập bình quân đầu người năm 2019 đạt gần 67,340 triệu đồng, tăng 3,9 lần so với thời điểm bắt đầu xây dựng NTM, với thu nhập của 14 xã dao động từ 58,668 triệu đến 73,848 triệu đồng Chương trình xây dựng NTM đã góp phần cải thiện thu nhập hộ gia đình, thu hẹp khoảng cách với hai xã đô thị hóa nhanh là Bình Hưng và Tân Túc.

Phát triển kinh tế nông thôn và nâng cao thu nhập hộ gia đình trong bối cảnh hội nhập quốc tế là ưu tiên hàng đầu của chính quyền huyện Bình Chánh Để hiểu rõ thực trạng thu nhập hộ gia đình tại đây, cần phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến sự chênh lệch thu nhập và xác định các giải pháp hiệu quả nhất nhằm cải thiện thu nhập cho người dân Tuy nhiên, hiện tại chưa có nghiên cứu khoa học nào về thu nhập hộ gia đình và sự khác biệt thu nhập trong khu vực này, điều này gây khó khăn cho việc xây dựng chính sách kinh tế - xã hội phù hợp Do đó, tác giả đã chọn nghiên cứu đề tài "Sự khác biệt trong thu nhập hộ gia đình giữa các hộ ở xã đạt chuẩn và chưa đạt chuẩn nông thôn mới tại huyện Bình Chánh".

1.2 Mục tiêu, nội dung nghiên cứu

Nghiên cứu này nhằm đạt các mục tiêu sau:

- Nhận diện các nhân tố tác động đến thu nhập hộ gia đình giữa hộ ở xã đạt chuẩn và chưa đạt chuẩn NTM trên địa bàn huyện Bình Chánh

Nghiên cứu này nhằm xác định các yếu tố gây ra sự chênh lệch thu nhập hộ gia đình giữa các hộ ở xã đạt chuẩn và chưa đạt chuẩn NTM tại huyện Bình Chánh Các nguyên nhân chính bao gồm mức độ phát triển kinh tế, chất lượng cơ sở hạ tầng, và khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội Việc phân tích các yếu tố này sẽ giúp hiểu rõ hơn về tình hình kinh tế và xã hội của các hộ gia đình trong khu vực, từ đó đề xuất giải pháp nâng cao thu nhập cho các hộ chưa đạt chuẩn.

Chương trình đã mang lại hiệu quả tích cực trong việc nâng cao thu nhập cho các hộ gia đình tại 14 xã NTM trong huyện Để tiếp tục cải thiện thu nhập cho các hộ gia đình, cần đề xuất các giải pháp phù hợp nhằm tối ưu hóa lợi ích từ chương trình.

Nhằm giải quyết các mục tiêu nghiên cứu trên, đề tài cần trả lời các câu hỏi nghiên cứu sau:

- Các nhân tố tác động đến thu nhập hộ gia đình ở xã đạt chuẩn và chưa đạt chuẩn NTM trên địa bàn huyện Bình Chánh?

- Nguyên nhân tạo nên sự khác biệt về thu nhập hộ gia đình giữa hộ ở xã đạt chuẩn và chưa đạt chuẩn NTM trên địa bàn huyện Bình Chánh?

Để nâng cao thu nhập bình quân đầu người cho hộ gia đình tại các xã đang xây dựng theo tiêu chuẩn NTM trên địa bàn huyện, cần triển khai các giải pháp đồng bộ như phát triển nông nghiệp bền vững, khuyến khích các mô hình hợp tác xã, nâng cao chất lượng sản phẩm, đào tạo nghề cho lao động địa phương và tăng cường kết nối tiêu thụ sản phẩm Bên cạnh đó, việc hỗ trợ tiếp cận vốn vay và ứng dụng công nghệ mới trong sản xuất cũng đóng vai trò quan trọng trong việc cải thiện đời sống kinh tế cho người dân.

1.4 Phạm vi và đối tƣợng nghiên cứu

Về không gian: là 12 xã đạt chuẩn NTM ( Tân Nhựt, Bình Lợi, Phạm Văn Hai,

Huyện Bình Chánh bao gồm các địa phương như Lê Minh Xuân, Tân Kiên, Tân Quý Tây, An Phú Tây, Hưng Long, Bình Chánh, Đa Phước, Qui Đức, và Phong Phú Trong đó, Vĩnh Lộc A và Vĩnh Lộc B là hai xã chưa đạt chuẩn nông thôn mới tính đến năm 2019.

1.4.2 Đối tƣợng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu là thu nhập hộ gia đình và các yếu tố tác động đến TNBQ các hộ gia đình trên địa bàn các xã của huyện Bình Chánh năm 2019

1.4.3 Giới hạn nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu các yếu tố tác động đến thu nhập của hộ gia đình và sự khác biệt thu nhập hộ gia đình trên địa bàn huyện Bình Chánh, TP.HCM (14 xã)

1.5 Phương pháp nghiên cứu Đề tài “Sự khác biệt trong thu nhập hộ gia đình giữa hộ ở xã đạt chuẩn và chưa đạt chuẩn nông thôn mới trên địa bàn huyện Bình Chánh” được thực hiện thông qua hai giai đoạn là: nghiên cứu sơ bộ (sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính) và nghiên cứu chính thức (sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng)

Phương pháp nghiên cứu định tính đóng vai trò quan trọng trong việc kiểm tra các yếu tố trong mô hình giả thuyết, từ đó xây dựng mô hình nghiên cứu và thiết lập bảng câu hỏi Nghiên cứu này đã tiến hành phỏng vấn 340 hộ gia đình thuộc 14 xã của huyện để thu thập dữ liệu phục vụ cho nghiên cứu định lượng.

Câu hỏi nghiên cứu

Nhằm giải quyết các mục tiêu nghiên cứu trên, đề tài cần trả lời các câu hỏi nghiên cứu sau:

- Các nhân tố tác động đến thu nhập hộ gia đình ở xã đạt chuẩn và chưa đạt chuẩn NTM trên địa bàn huyện Bình Chánh?

- Nguyên nhân tạo nên sự khác biệt về thu nhập hộ gia đình giữa hộ ở xã đạt chuẩn và chưa đạt chuẩn NTM trên địa bàn huyện Bình Chánh?

Giải pháp nâng cao thu nhập bình quân đầu người cho hộ gia đình tại các xã đang xây dựng theo tiêu chuẩn NTM trên địa bàn huyện bao gồm việc phát triển các mô hình sản xuất nông nghiệp hiệu quả, khuyến khích ứng dụng công nghệ mới, tăng cường đào tạo nghề cho người dân, và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm Bên cạnh đó, cần tạo điều kiện thuận lợi cho các hộ gia đình tiếp cận nguồn vốn vay ưu đãi và hỗ trợ xây dựng các hợp tác xã để nâng cao khả năng cạnh tranh và phát triển bền vững.

Phạm vi và Đối tƣợng nghiên cứu

Về không gian: là 12 xã đạt chuẩn NTM ( Tân Nhựt, Bình Lợi, Phạm Văn Hai,

Lê Minh Xuân, Tân Kiên, Tân Quý Tây, An Phú Tây, Hưng Long, Bình Chánh, Đa Phước, Qui Đức, Phong Phú và hai xã Vĩnh Lộc A, Vĩnh Lộc B chưa đạt chuẩn NTM tính đến năm 2019, là những địa phương nằm trong huyện Bình Chánh.

1.4.2 Đối tƣợng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu là thu nhập hộ gia đình và các yếu tố tác động đến TNBQ các hộ gia đình trên địa bàn các xã của huyện Bình Chánh năm 2019

1.4.3 Giới hạn nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu các yếu tố tác động đến thu nhập của hộ gia đình và sự khác biệt thu nhập hộ gia đình trên địa bàn huyện Bình Chánh, TP.HCM (14 xã).

Phương pháp nghiên cứu

Đề tài "Sự khác biệt trong thu nhập hộ gia đình giữa hộ ở xã đạt chuẩn và chưa đạt chuẩn nông thôn mới trên địa bàn huyện Bình Chánh" được thực hiện qua hai giai đoạn: nghiên cứu sơ bộ bằng phương pháp định tính và nghiên cứu chính thức bằng phương pháp định lượng.

Phương pháp nghiên cứu định tính đóng vai trò quan trọng trong việc kiểm tra các yếu tố của mô hình giả thuyết, từ đó hình thành mô hình nghiên cứu và xây dựng bảng câu hỏi Nghiên cứu này đã tiến hành phỏng vấn 340 hộ gia đình tại 14 xã thuộc huyện, nhằm thu thập dữ liệu phục vụ cho nghiên cứu định lượng.

Luận văn sẽ áp dụng phương pháp nghiên cứu định lượng thông qua phân tích hồi quy đa biến và phương pháp Blinder-Oaxaca decomposition Mục tiêu là xác định sự khác biệt về thu nhập bình quân của các hộ gia đình giữa xã đạt chuẩn và xã chưa đạt chuẩn nông thôn mới tại huyện Bình Chánh.

Ý nghĩa thực tiễn của đề tài

Tại huyện Bình Chánh, chưa có nghiên cứu nào áp dụng phương pháp phân tích thống kê và mô hình kinh tế lượng để đánh giá thu nhập và các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập hộ gia đình Nghiên cứu này sẽ giúp xác định nguyên nhân gây ra sự khác biệt về thu nhập trong quá trình thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới Kết quả nghiên cứu sẽ là cơ sở khoa học cho chính quyền địa phương trong việc xây dựng chính sách và giải pháp nhằm nâng cao thu nhập hộ gia đình, thúc đẩy đầu tư xây dựng nông thôn mới, phát triển kinh tế-xã hội và rút ngắn khoảng cách thu nhập giữa các xã, tiến tới xóa dần khoảng cách giữa nông thôn và thành thị.

Kết cấu của đề tài

Đề tài nghiên cứu được trình bày trong 5 chương, bao gồm cả chương mở đầu và chương kết luận, gợi ý chính sách Cụ thể như sau:

Chương 1: Giới thiệu: Chương này sẽ trình bày tổng quan về vấn đề nghiên cứu và lý do nghiên cứu, mục tiêu nghiên cứu, câu hỏi nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu, mục tiêu nghiên cứu, giới hạn nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu, ý nghĩa thực tiễn của đề tài và kết cấu luận văn

Chương 2: Cơ sở lý thuyết: Chương này sẽ trình bày các khái niệm thu nhập, thu nhập hộ gia đình, tiền lương, nông thôn mới, các lý thuyết liên quan đến thu nhập, thu nhập hộ gia đình, tiền lương và nông thôn mới, phát triển nông thôn Các nghiên cứu trước và đưa ra mô hình nghiên cứu đề xuất

Chương 3: Tổng quan về địa bàn nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu; chương này sẽ trình bày khái quát về tình hình kinh tế- xã hội huyện Bình Chánh và phương pháp thực hiện nghiên cứu, đưa ra mô hình nghiên cứu cho đề tài, đồng thời trình bày cách thức thu thập dữ liệu và mẫu nghiên cứu

Chương 4: Kết quả nghiên cứu: phân tích kết quả thống kê mô tả, phân tích kết quả của mô hình kinh tế lượng, xác định các nhân tố tác động đến thu nhập của các hộ gia đình trên địa bàn các xã; đồng thời tìm ra sự khác biệt thu nhập giữa hộ ở xả đạt chuẩn và xã chưa đạt chuẩn nông thôn mới trên địa bàn huyện Bình Chánh Chương 5: Kết luận và khuyến nghị: Trên cơ sở kết quả nghiên cứu tác giả sẽ tóm tắt kết quả và khuyến nghị một số giải pháp để nâng cao thu nhập cho hộ gia đình trên địa bàn 14 xã tham gia nông thôn mới huyện Bình Chánh Đồng thời, phần cuối chương cũng nêu ra một số hạn chế của nghiên cứu này cũng như đề xuất hướng nghiên cứu tiếp theo.

CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC

Các khái niệm liên quan

Theo Gallo (2002), thu nhập cá nhân được định nghĩa là số tiền mà cá nhân có thể chi tiêu trong một khoảng thời gian nhất định mà không làm giảm giá trị tài sản của mình Nếu cá nhân tiêu dùng toàn bộ số tiền nhận được trong khoảng thời gian đó mà không tiết kiệm, thì số tiền đó được gọi là thu nhập tiền Ngược lại, nếu cá nhân tiết kiệm một phần, thì thu nhập nhận được sẽ lớn hơn chi phí sinh hoạt Trong trường hợp cá nhân không tiết kiệm mà vay mượn, toàn bộ số tiền nhận được sẽ là thu nhập tiền và thường ít hơn chi phí sinh hoạt.

Theo Cục Thống Kê Thành phố Hồ Chí Minh (2017), thu nhập được định nghĩa là tổng giá trị sản lượng hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được tạo ra trong một khoảng thời gian nhất định Để tính thu nhập bình quân hộ (TNBQH) trong một tháng, người ta chia tổng thu nhập hàng năm của tất cả các thành viên trong hộ gia đình đó cho 12 tháng.

Theo nhận định năm 2015, phương pháp hạch toán thu nhập quốc dân được xác định thông qua Hệ thống tài khoản quốc gia, trong đó thu nhập quốc dân bao gồm tổng các loại hình thu nhập như lương, tiền thuê, tiền lãi, lợi nhuận và thu nhập của chủ sở hữu Từ góc độ kinh tế học vi mô, thu nhập được hiểu là phần chênh lệch giữa doanh thu và chi phí Các nguồn thu nhập chính bao gồm thu nhập từ lao động (tiền công, tiền lương, lương hưu), thu nhập từ hoạt động tài chính (lãi tiết kiệm, lãi từ chứng khoán), thu nhập từ sản xuất kinh doanh và các nguồn thu nhập khác như tiền lương và quà biếu.

Theo Samuelson và Nordhause (1997), thu nhập được định nghĩa là số tiền hoặc tiền mặt mà cá nhân hoặc hộ gia đình kiếm được trong một khoảng thời gian xác định, thường là một năm.

2.1.2 Khái niệm Thu nhập Hộ gia đình

Theo Nguyễn Hải (1995), thu nhập hộ gia đình bao gồm các khoản thu từ lao động như tiền lương, tiền công và thù lao (bằng tiền hoặc hiện vật), cùng với các nguồn thu nhập khác như trợ cấp, học bổng, chuyển nhượng, trúng số và lãi từ tiết kiệm.

Theo nghiên cứu của Giáo sư Stephen Jenkins và cộng sự (2013), định nghĩa thu nhập hộ gia đình được sử dụng phổ biến trong thống kê thu nhập chính thức của nhiều quốc gia là tổng thu nhập hộ gia đình Định nghĩa này bao gồm cả các khoản trợ cấp tiền mặt từ nhà nước và sau khi đã khấu trừ thuế trực tiếp.

Theo định nghĩa năm 2014, thu nhập của hộ gia đình là tổng số tiền và giá trị hiện vật quy thành tiền sau khi trừ chi phí sản xuất, mà hộ và các thành viên nhận được trong một khoảng thời gian nhất định, thường là 1 năm Theo sổ tay khảo sát mức sống hộ gia đình năm 2012, thu nhập này bao gồm: tiền công, tiền lương; thu từ hoạt động sản xuất tự làm trong nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản; thu từ ngành nghề sản xuất kinh doanh dịch vụ phi nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản; và các khoản thu khác.

Theo nghiên cứu của Barrett, Readon và Webb (2011), nguồn thu nhập của hộ gia đình được phân loại dựa trên ba tiêu chí chính: theo lĩnh vực (bao gồm nông nghiệp và phi nông nghiệp), theo chức năng (gồm làm công ăn lương và tự tạo việc làm), và theo không gian (làm việc tại địa phương hoặc di cư).

2.1.3 Khái niệm Tiền lương, tiền công

Theo từ điển Webster (2014), lương là khoản tiền mà người lao động nhận hàng năm hoặc là khoản bồi thường thường xuyên cho các dịch vụ mà họ cung cấp.

Theo ILO, tiền lương được định nghĩa là khoản trả công hoặc thu nhập, không phụ thuộc vào tên gọi hay cách tính, mà có thể biểu hiện bằng tiền Tiền lương được xác định thông qua thỏa thuận giữa người sử dụng lao động và người lao động, hoặc theo quy định của pháp luật quốc gia Đây là khoản tiền mà người sử dụng lao động phải trả cho người lao động theo hợp đồng lao động, cho công việc đã thực hiện hoặc sẽ thực hiện, cũng như cho các dịch vụ đã làm hoặc sẽ làm.

Tiền lương được định nghĩa là giá cả sức lao động, hình thành từ sự thỏa thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động thông qua hợp đồng lao động, có thể là bằng văn bản hoặc miệng Mức lương này phụ thuộc vào quan hệ cung cầu trên thị trường lao động và phải tuân thủ các quy định về tiền lương trong pháp luật lao động.

2.1.4 Khái niệm Nông thôn mới

Theo Nghị quyết số 24/2008/NQ-CP của Chính phủ, Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng NTM hướng tới việc nâng cao đời sống vật chất, văn hóa và tinh thần của người dân nông thôn, giảm thiểu khoảng cách giữa nông thôn và thành thị Nông dân được đào tạo và tiếp cận các tiến bộ khoa học kỹ thuật, đồng thời có bản lĩnh chính trị vững vàng, giữ vai trò chủ đạo trong sự phát triển của nông thôn.

Nông thôn mới hướng tới phát triển bền vững và toàn diện, với cơ sở hạ tầng hiện đại và đồng bộ, phù hợp với quy hoạch Mô hình này kết hợp hợp lý giữa nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ và đô thị, tạo ra sự ổn định và bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc Đồng thời, môi trường sinh thái được bảo vệ, và sức mạnh của hệ thống chính trị được nâng cao, đảm bảo an ninh chính trị và trật tự xã hội.

Xây dựng NTM là một cuộc cách mạng lớn nhằm khuyến khích cộng đồng nông thôn cùng nhau xây dựng thôn, xã và gia đình văn minh, sạch đẹp Sáng kiến này không chỉ giúp nông dân khôi phục niềm tin mà còn thúc đẩy sự đoàn kết và hỗ trợ lẫn nhau trong việc phát triển nông thôn trở nên giàu đẹp hơn.

Quyết định số 491/QĐ-TTg ngày 16 tháng 4 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ đã ban hành bộ tiêu chí quốc gia về xây dựng nông thôn mới (NTM), quy định rằng một xã đạt chuẩn NTM phải đảm bảo 19 tiêu chí, bao gồm: thu nhập, quy hoạch và thực hiện quy hoạch, thủy lợi, giao thông, điện, trường học, cơ sở vật chất văn hóa, chợ nông thôn, bưu điện, nhà ở dân cư, tỷ lệ hộ nghèo, cơ cấu lao động, hình thức tổ chức sản xuất, giáo dục, y tế, môi trường, văn hóa, hệ thống tổ chức chính trị - xã hội vững mạnh và an ninh, trật tự xã hội.

2.1.4.1 Lịch sử phát triển nông thôn mới ở nước ta

Cơ sở lý thuyết

2.2.1 Lý thuyết về thu nhập

Mincer (1974) cho rằng kinh nghiệm nghề nghiệp, trình độ học vấn và giới tính của chủ hộ tác động đến thu nhập hộ Đồng quan điểm với Mincer, Kartunen

(2009) cho rằng nguồn lực vốn con người, nhân khẩu, số người phụ thuộc cũng ảnh đến đến thu nhập của hộ

Các nhà kinh tế học đã xác định rằng lao động, vốn, đất đai và công nghệ là những nhân tố đầu vào chính thúc đẩy tăng trưởng thu nhập Thay đổi năng suất lao động (NSLĐ) là điều kiện cần thiết để tăng thu nhập trong nông nghiệp (Park, 1992 trích từ Đinh Phi Hổ, 2008) Theo Mankiw (2003), sự khác biệt về NSLĐ giữa các quốc gia dẫn đến sự chênh lệch về thu nhập Ngoài ra, Barker (2002) cho rằng NSLĐ trong nông nghiệp còn phụ thuộc vào năng suất đất.

Theo nghiên cứu của Reardon và cộng sự (1992), thu nhập của nông hộ ở vùng nông thôn bị ảnh hưởng đáng kể bởi việc đa dạng hóa sản xuất kinh doanh Nghiên cứu của Ellis cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của đa dạng hóa trong việc nâng cao thu nhập cho nông dân.

Sự bền vững của sinh kế cộng đồng phụ thuộc vào nhiều yếu tố quan trọng, bao gồm khả năng huy động nguồn vốn, mối quan hệ trong cộng đồng, chính sách phát triển sinh kế và trình độ lao động của người dân.

Theo Michael P Todaro (1998), thu nhập của hộ gia đình nông dân được định nghĩa là tổng số hàng hóa và dịch vụ vật chất mà họ có thể mua bằng thu nhập tiền tệ Thu nhập tiền tệ này chính là tổng số tiền mà hộ gia đình kiếm được trong một tháng hoặc một năm.

2.2.2 Lý thuyết về tiền lương, tiền công

Theo N.G Mankiw và các tác giả khác, mức lương được xác định dựa trên cân bằng cung và cầu lao động Khi cung và cầu lao động gặp nhau, các hãng sẽ thuê lao động cho đến khi sản phẩm doanh thu biên bằng mức tiền công Trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo, đường cầu lao động dốc xuống do sản phẩm biên giảm khi lượng lao động tăng Đường cung lao động có thể dốc lên hoặc dốc ngược, với mức tiền công cao có thể dẫn đến cung lao động giảm khi người lao động muốn tận hưởng cuộc sống hơn là làm việc Nhận thức và di cư cũng ảnh hưởng đến nguồn cung lao động, đặc biệt là ở các vùng kinh tế phát triển, nơi di cư gia tăng và nhu cầu làm việc cao hơn.

Cung và cầu lao động ảnh hưởng trực tiếp đến tiền lương trong thị trường cạnh tranh Khi cầu lao động tăng hoặc cung lao động giảm, tiền lương sẽ tăng theo Ngược lại, nếu cầu giảm hoặc cung tăng, tiền lương sẽ giảm Tuy nhiên, trong điều kiện thị trường không cạnh tranh, các yếu tố như công đoàn, luật tiền lương tối thiểu, và thuyết tiền lương hiệu quả có thể khiến mức tiền lương vượt qua mức cân bằng.

Theo nguyên lý kinh tế học, thu nhập cá nhân của người lao động bị ảnh hưởng bởi năng suất biên và số lượng lao động tham gia Tiền lương sẽ cao hơn đối với những người có kỹ năng, kinh nghiệm và trình độ học vấn cao Ngược lại, trong các công việc nhẹ nhàng, an toàn không yêu cầu kinh nghiệm, lượng cung lao động lớn dẫn đến tiền lương thấp Các yếu tố quyết định đến tiền lương của người lao động bao gồm nghề nghiệp, trình độ học vấn và kỹ năng.

2.2.3 Lý thuyết khung sinh kế bền vững

Amartya Sen (1981) đã phát triển khái niệm Khung sinh kế bền vững (KSKBV) trong nghiên cứu của ông về quyền và mối quan hệ với nạn đói nghèo Khái niệm này ngày càng trở nên quan trọng trong các cuộc thảo luận về phát triển nông thôn và xoá đói giảm nghèo, như được nêu bởi Scoones (1998).

DFID (2001) xác định năm yếu tố chính ảnh hưởng đến sinh kế hộ gia đình, bao gồm vốn tự nhiên, vốn vật chất, vốn con người, vốn xã hội và vốn tài chính Mức độ tiếp cận các tài sản này của hộ gia đình bị ảnh hưởng mạnh bởi bối cảnh cụ thể, như các xu hướng kinh tế và chính trị, cũng như các cú sốc từ thảm họa tự nhiên.

Vốn vật chất bao gồm cơ sở hạ tầng và hàng hóa thiết yếu mà người sản xuất cần để duy trì sinh kế Nguồn vốn này hiện hữu ở cả cấp độ cộng đồng và hộ gia đình, thể hiện sự quan trọng của nó trong việc hỗ trợ phát triển kinh tế.

Vốn tài chính đề cập đến các nguồn lực tài chính như nguồn dự trữ hiện tại, dòng tiền định kỳ và khả năng tiếp cận vốn tín dụng từ bên ngoài, mà con người sử dụng để thực hiện các mục tiêu sinh kế của mình.

Vốn xã hội là nguồn lực quan trọng mà con người sử dụng để đạt được mục tiêu sinh kế, bao gồm các mối quan hệ, mạng lưới và niềm tin giữa các thành viên trong cộng đồng Theo Bourdieu (1983), vốn xã hội phản ánh sự tin tưởng và sự tuân thủ các phong tục tập quán của cộng đồng, tạo ra các mạng an ninh phi chính thống cần thiết cho sự phát triển cá nhân và tập thể.

Vốn con người bao gồm kỹ năng, tri thức, khả năng làm việc và sức khỏe tốt Tại cấp độ hộ gia đình, vốn con người phản ánh số lượng và chất lượng lao động của hộ, và sự khác biệt này phụ thuộc vào kích cỡ hộ, trình độ giáo dục, kỹ năng nghề nghiệp, khả năng quản lý, tình trạng sức khỏe, cũng như tri thức về các cấu trúc sở hữu chính thống và phi chính thống.

Vốn tự nhiên bao gồm các nguyên vật liệu tự nhiên cần thiết cho việc phát triển sinh kế Nó phản ánh quy mô và chất lượng của đất đai, nguồn nước, tài nguyên khoáng sản, tài nguyên thủy sản và không khí.

2.2.4 Lý thuyết Phát triển nông thôn

Kinh tế, xã hội-văn hóa, môi trường tài nguyên và chính trị-thể chế là bốn trụ cột quan trọng của phát triển nông thôn Những yếu tố này không chỉ là động lực mà còn là nội dung cốt lõi của quá trình phát triển nông thôn, thể hiện tính chất phức tạp và bền vững của lĩnh vực này.

Các nghiên cứu trước

Nghiên cứu của Nguyễn Tấn Phúc (2017) về sự khác biệt thu nhập bình quân đầu người giữa nông hộ trong và ngoài xã đạt chuẩn Nông thôn mới ở huyện Bến Cầu cho thấy, thu nhập bình quân của nông hộ tại xã đạt chuẩn NTM cao hơn 830,45 nghìn đồng/người/năm so với các xã còn lại Khoảng cách thu nhập này được giải thích bởi 42,15% sự khác biệt từ các biến số trong mô hình nghiên cứu.

Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng nhóm I bị ảnh hưởng bởi 12 yếu tố quan trọng, bao gồm Giới tính, Tuổi, Trình độ học vấn, Kinh nghiệm chủ hộ, Số lao động, Số người phụ thuộc, Học vấn bình quân của hộ, Diện tích đất canh tác, Tham gia đào tạo nghề, Vốn vay tín dụng, Khoảng cách giao thông và Thủy lợi Trong khi đó, nhóm II cũng chịu tác động từ những yếu tố tương tự.

Bài viết này đề cập đến 12 yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất nông nghiệp, bao gồm: giới tính, tuổi tác, trình độ học vấn, kinh nghiệm của chủ hộ, số lao động trong gia đình, diện tích đất canh tác, số người phụ thuộc, học vấn bình quân của hộ, tham gia các hội đoàn thể, tham gia đào tạo nghề, khả năng vay vốn tín dụng và hệ thống thủy lợi Những yếu tố này không chỉ ảnh hưởng đến năng suất mà còn quyết định sự phát triển bền vững của hộ gia đình trong lĩnh vực nông nghiệp.

Nghiên cứu của Huỳnh Văn Hùng (2017) về sự khác biệt thu nhập giữa hộ nông dân và hộ ngư dân tại tỉnh Bình Thuận cho thấy 44% khoảng cách thu nhập được giải thích bởi sự khác biệt về đặc tính Nghiên cứu đã phân tích 10 yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập của hai nhóm hộ này và xây dựng mô hình hồi quy với 11 biến, trong đó có 10 biến độc lập và 1 biến phụ thuộc Kết quả hồi quy chỉ ra rằng thu nhập của hộ ngư dân bị ảnh hưởng bởi 7 yếu tố: QUYMOHO, PHUTHUOC, KNGHIEM, KTHUCSX, VAY, DIENTICH, và MAYMOC Trong khi đó, thu nhập của hộ nông dân chịu tác động từ 4 yếu tố: HVAN, KNGHIEM, MAYMOC, và DADANG.

Nguyễn Đắc Vỹ (2016) trong nghiên cứu “Phân tích nhân tố tác động thu nhập của các nhóm hộ đồng bào dân tộc thiểu số huyện Hàm Tân, tỉnh Bình Thuận” đã khảo sát 300 hộ gia đình và chỉ ra rằng 70,44% khoảng cách thu nhập giữa các nhóm hộ được giải thích bởi sự khác biệt về đặc tính Nhóm I chịu tác động bởi 10 yếu tố: nghề nghiệp, phương thức sản xuất, số người phụ thuộc, phong tục tập quán, quy mô diện tích đất canh tác, khả năng tiếp cận vốn, liên kết cộng đồng, trình độ học vấn, tham gia hội đoàn thể và giới tính Trong khi đó, nhóm II bị ảnh hưởng bởi 12 yếu tố, bao gồm nghề nghiệp, chế độ mẫu hệ, trình độ học vấn, liên kết cộng đồng, kinh nghiệm, khả năng tiếp cận vốn, giới tính, quy mô diện tích đất canh tác, tham gia hội đoàn thể, số người phụ thuộc, phong tục tập quán và phương thức sản xuất.

Lê Quang Vũ (2015) nghiên cứu Các nhân tố ảnh hưởng đến thu nhập hộ gia đình dân tộc thiểu số vùng nông thôn Việt Nam (1427 hộ năm 2012) Kết quả

Có 12 biến có ảnh hưởng đến tình hình kinh tế hộ gia đình, bao gồm trình độ học vấn, độ tuổi của chủ hộ, diện tích đất sản xuất và tỷ lệ thu nhập từ nông nghiệp Ngoài ra, vùng miền sinh sống cũng đóng vai trò quan trọng, với hộ dân tộc thiểu số ở nông thôn miền Trung và miền Nam có thu nhập cao hơn hộ ở nông thôn miền Bắc lần lượt 7,8% và 29,8% Các yếu tố khác như nghề nghiệp của chủ hộ, quy mô hộ gia đình, tỷ lệ người phụ thuộc, tình trạng hộ nghèo, khả năng vay vốn và số lượng hoạt động tạo thu nhập cũng ảnh hưởng đáng kể đến thu nhập của hộ gia đình.

Nghiên cứu của Tống Quốc Bảo (2015) về các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập lao động trong khu vực dịch vụ tại Việt Nam chỉ ra rằng số năm đi học và kinh nghiệm làm việc có tác động tích cực lần lượt là 6,3% và 0,4% Các yếu tố khác như giới tính (+13%), khu vực thành thị-nông thôn, và các bậc lao động cũng cho thấy mối liên hệ tích cực với thu nhập, cụ thể là lao động bậc cao (+75,7%), bậc trung (+49,03%), và lao động có kỹ thuật (+36,4%) Đặc biệt, lao động tại Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Hồng có thu nhập cao hơn so với đồng bằng sông Cửu Long lần lượt là 31,1% và 8,7% Ngược lại, lao động ở khu vực Trung du và miền núi phía Bắc, Tây Nguyên, cũng như loại hình kinh tế nhà nước (-21,5%) và Bắc Trung Bộ, duyên hải miền Trung (-9,6%) không có ý nghĩa thống kê tích cực, trong khi biến kinh nghiệm bình phương có mối quan hệ nghịch biến với thu nhập của người lao động.

Phạm Tấn Hòa (2014) khi nghiên cứu “Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến thu nhập của hộ gia đình khu vực Đồng Tháp Mười, tỉnh Long An”

Nghiên cứu dựa trên 360 quan sát chỉ ra rằng có 13 biến tác động đến thu nhập hộ gia đình (TNHGĐ) Trong số đó, 10 biến có tác động tích cực bao gồm trình độ học vấn và tuổi của chủ hộ, tỷ trọng thu nhập từ công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ, khu vực sinh sống, việc làm của chủ hộ, tài sản khác, vay vốn và sở hữu máy móc thiết bị sản xuất Ngược lại, 3 biến tác động tiêu cực là kinh nghiệm làm việc của chủ hộ, diện tích đất sản xuất và khoảng cách từ nhà đến cửa khẩu gần nhất Mô hình nghiên cứu cho thấy mức độ giải thích của các biến độc lập là khá cao.

Nghiên cứu của Nguyễn Lan Duyên (2014) về các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập của nông hộ ở An Giang đã phân tích 598 nông hộ được chọn ngẫu nhiên Kết quả cho thấy có bốn yếu tố tác động đồng biến đến thu nhập, bao gồm trình độ học vấn, diện tích đất, vay vốn tín dụng và thời gian cư trú tại địa phương Ngược lại, năm yếu tố tác động ngược biến bao gồm lãi suất vay, lao động trong hộ, khả năng vay, vị trí xã hội và khoảng cách từ nơi ở của hộ đến đô thị.

Nghiên cứu của Dasgupta et al (2015) đã chỉ ra sự khác biệt về thu nhập giữa lao động trong khu vực kinh tế chính thức và phi chính thức tại Thái Lan, dựa trên bộ dữ liệu được thu thập.

Kết quả khảo sát KT-XH hộ gia đình năm 2011 của cơ quan NSO cho thấy các yếu tố như giới tính, tuổi, khu vực sống, ngành nghề và trình độ học vấn đều ảnh hưởng đến thu nhập của người lao động Cụ thể, 67,9% sự khác biệt trong thu nhập có thể được giải thích bởi đặc điểm của người lao động, trong khi 32,1% còn lại được xem là bất bình đẳng trong thu nhập.

Nghiên cứu của Aikaeli (2010) về các yếu tố quyết định thu nhập nông thôn ở Tanzania đã chỉ ra rằng trình độ học vấn của chủ hộ, quy mô hộ gia đình, diện tích đất sản xuất và quyền sở hữu các hoạt động kinh tế phi nông nghiệp đều có tác động tích cực đến thu nhập hộ gia đình Cụ thể, quy mô hộ gia đình tăng 0,5%, diện tích đất sản xuất tăng 0,4%, và quyền sở hữu các hoạt động kinh tế phi nông nghiệp tăng 6% thu nhập Đặc biệt, nghiên cứu cũng cho thấy rằng hộ gia đình có chủ hộ là nữ giới thường có thu nhập thấp hơn so với hộ gia đình do nam giới làm chủ.

Shrestha và Eiumnoh (2000) đã tiến hành nghiên cứu nhằm xác định các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập của nông hộ tại lưu vực sông Sakae Krang, Thái Lan Nghiên cứu này sử dụng một cỡ mẫu để phân tích các yếu tố quyết định, từ đó đưa ra những thông tin quan trọng về tình hình kinh tế của nông dân trong khu vực.

Nghiên cứu trên 192 hộ gia đình nông thôn cho thấy có năm yếu tố chính ảnh hưởng đến tổng thu nhập của nông hộ, bao gồm nguồn thu từ nông nghiệp, nguồn thu phi nông nghiệp, trình độ học vấn, số thành viên trong độ tuổi lao động và diện tích đất sản xuất.

Nghiên cứu của Oaxaca (1973) “Bất bình đẳng trong thu nhập chính”

Nghiên cứu dựa trên bộ dữ liệu VHLSS 2010 đã phân tích các yếu tố cấu thành tiền lương lao động, bao gồm năng lực, kỹ năng và sự phân biệt đối xử Thông qua phương pháp phân rã của Oaxaca (1973) và Neumark (1988), nghiên cứu đã chỉ ra sự chênh lệch tiền lương giữa lao động nam và lao động nữ, cho thấy sự bất bình đẳng trong thu nhập giữa hai giới.

Sự giống và khác nhau giữa nghiên cứu của tác giả với các nghiên cứu trước

Các mô hình lý thuyết trong kinh tế học nông nghiệp chỉ ra rằng hiệu quả sản xuất và thu nhập của hộ nông dân bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố quan trọng Những yếu tố chính bao gồm quy mô đất canh tác, nguồn lao động, trình độ văn hóa của chủ hộ, và khả năng tiếp cận vốn.

Chưa tìm thấy đề tài nghiên cứu thu nhập của hộ gia đình huyện Bình Chánh đã thực hiện trước đây

Thu nhập giữa các nhóm hộ đạt chuẩn và chưa đạt chuẩn NTM tại huyện Bình Chánh hiện đang có sự chênh lệch đáng kể Điều này cho thấy sự khác biệt trong các điều kiện sống và phát triển kinh tế của từng nhóm Đặc biệt, việc tham gia Hợp tác xã được coi là yếu tố quan trọng cần được nhấn mạnh, góp phần nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống cho người dân.

Phương pháp phân rã Oaxaca – Blinder (1973) được áp dụng trong mô hình hồi quy đa biến nhằm phân tách sự khác biệt thu nhập giữa các nhóm gia đình Phương pháp này giúp xác định các yếu tố ảnh hưởng đến chênh lệch thu nhập, từ đó cung cấp cái nhìn sâu sắc về tình hình kinh tế của các nhóm khác nhau trong xã hội.

Tóm tắt Chương 2

Chương 2 trình bày tóm tắt các khái niệm về thu nhập, thu nhập hộ gia đình, tiền lương, nông thôn mới, cơ sở lý thuyết gồm:lý thuyết thu nhập, lý thuyết về tiền lương, tiền công, lý thuyết phát triển nông thôn Ngoài ra, chương 2 còn trình bày các nghiên cứu trước có liên quan đến thu nhập của hộ và sự khác biệt trong thu nhập của hộ bao gồm 7 nghiên cứu trong nước và 4 nghiên cứu nước ngoài Qua tổng hợp cơ sở lý thuyết và kết quả của các nghiên cứu trước cho thấy: các đặc điểm về hộ, đặc điểm về chủ hộ, đặc điểm về nông thôn mới, đặc điểm địa lý có ảnh hưởng đến thu nhập của hộ gia đình Việt Nam

CHƯƠNG 3 TỔNG QUAN PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Chương này sẽ cung cấp cái nhìn tổng quan về phương pháp nghiên cứu, bao gồm mô hình nghiên cứu được xây dựng dựa trên lý thuyết và các nghiên cứu trước liên quan đã được trình bày trong chương 2 Ngoài ra, chương cũng sẽ đề cập đến dữ liệu nghiên cứu, phương pháp trích lục và quy trình xử lý số liệu, nhằm đảm bảo tính chính xác và hiệu quả trong quá trình nghiên cứu.

Quy trình nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu "Sự khác biệt trong thu nhập hộ gia đình giữa hộ ở xã đạt chuẩn và chưa đạt chuẩn nông thôn mới trên địa bàn huyện Bình Chánh" được thực hiện qua các bước xác định vấn đề, lý do nghiên cứu, mục tiêu, phạm vi, đối tượng và ý nghĩa của nghiên cứu Dựa trên lý thuyết và các nghiên cứu trước, tác giả đề xuất mô hình nghiên cứu sơ bộ, xác định các biến có khả năng ảnh hưởng đến thu nhập hộ gia đình và phương pháp đo lường các biến này Từ mô hình của các nghiên cứu trước, tác giả phát triển mô hình nghiên cứu đề xuất và sau đó tiến hành lập bảng câu hỏi khảo sát thử nghiệm để hoàn thiện bảng câu hỏi khảo sát.

Tiến hành thu thập dữ liệu nghiên cứu từ khảo sát tại huyện Bình Chánh, mẫu điều tra được tổng hợp, làm sạch và mã hóa trên máy tính Dữ liệu được phân tích với sự hỗ trợ của phần mềm Excel và SPSS, bao gồm phân tích thống kê mô tả các biến và phân tích hồi quy đa biến để kiểm tra mối quan hệ giữa các biến theo giả thuyết ban đầu Đồng thời, kiểm định độ phù hợp của mô hình và xác định mức độ ảnh hưởng của các biến độc lập đối với biến phụ thuộc trong nghiên cứu Phương pháp phân rã Blinder-Oaxaca decomposition cũng được áp dụng trong quá trình phân tích.

Năm 1973, nghiên cứu đã được thực hiện để xác định sự khác biệt về thu nhập giữa các nhóm hộ gia đình Tác giả đã thảo luận các kết quả thu được và đưa ra một số khuyến nghị nhằm nâng cao thu nhập cho hộ gia đình tại huyện Bình Chánh.

Hình 3.1 : Quy trình nghiên cứu

Phương pháp nghiên cứu

Nghiên cứu “Sự khác biệt trong thu nhập hộ gia đình giữa hộ ở xã đạt chuẩn và chưa đạt chuẩn nông thôn mới trên địa bàn huyện Bình Chánh” được thực hiện qua hai giai đoạn Giai đoạn đầu là nghiên cứu sơ bộ, áp dụng phương pháp định tính dựa trên các nghiên cứu trước đó Giai đoạn tiếp theo là nghiên cứu chính thức, sử dụng phương pháp phân tích định lượng với sự hỗ trợ của phần mềm để xử lý dữ liệu cho mô hình hồi quy.

Tiến hành tham khảo ý kiến từ các chuyên viên và lãnh đạo liên quan như Phòng Kinh tế huyện, Cục Thống kê huyện, Đài truyền thanh huyện, và Phó Chủ tịch phụ trách kinh tế - xã hội các xã về chương trình NTM tại huyện Qua đó, xác định những thuận lợi và khó khăn trong quá trình thực hiện chương trình NTM, ảnh hưởng đến nguồn thu nhập chính của hộ gia đình Kết quả nghiên cứu định tính sẽ làm cơ sở để kiểm tra các yếu tố trong mô hình đề xuất, đồng thời là căn cứ quan trọng để điều chỉnh mô hình lý thuyết thành mô hình thực tiễn.

Xác định vấn đề và mục tiêu nghiên cứu

Bài viết này trình bày cơ sở lý thuyết và các nghiên cứu trước đó, từ đó xây dựng mô hình nghiên cứu cụ thể Tiếp theo, chúng tôi thiết kế bảng câu hỏi và thu thập dữ liệu cần thiết Sau đó, quá trình làm sạch, mã hóa và xử lý số liệu sẽ được thực hiện để đảm bảo tính chính xác Cuối cùng, chúng tôi sẽ phân tích kết quả nghiên cứu và đưa ra các khuyến nghị, làm cơ sở cho nghiên cứu chính thức và phục vụ cho việc xây dựng bảng câu hỏi trong nghiên cứu định lượng.

Để thực hiện nghiên cứu, chúng tôi đã tiến hành phỏng vấn trực tiếp 340 hộ gia đình thông qua bảng câu hỏi khảo sát được thiết kế dựa trên mô hình nghiên cứu chính thức Để đảm bảo tính chính xác của thông tin và sự hiểu biết của người được hỏi, chúng tôi sẽ thực hiện khảo sát thử với 5 đến 10 hộ gia đình sau khi hoàn thiện bảng câu hỏi Kết quả từ khảo sát thử sẽ là cơ sở để điều chỉnh bảng câu hỏi cho phù hợp trước khi tiến hành phỏng vấn rộng rãi.

Bài viết tiến hành tổng hợp và phân tích dữ liệu bằng thống kê mô tả và mô hình hồi quy đa biến, sử dụng phần mềm Excel và SPSS Mục tiêu là kiểm tra mối quan hệ giữa các biến theo giả thuyết ban đầu, kiểm định độ phù hợp của mô hình, và xác định mức độ ảnh hưởng của các biến độc lập đối với biến phụ thuộc Ngoài ra, phương pháp phân rã Blinder-Oaxaca decomposition cũng được áp dụng trong nghiên cứu.

Nghiên cứu năm 1973 nhằm phân tích sự khác biệt trong thu nhập hộ gia đình giữa các hộ ở xã đạt chuẩn và chưa đạt chuẩn nông thôn mới tại huyện Bình Chánh, từ đó đề xuất một số chính sách phù hợp để cải thiện tình hình kinh tế tại địa phương.

Phương pháp phân tích số liệu

Sau khi thu thập dữ liệu, cần kiểm tra và rà soát các bảng phỏng vấn để phát hiện lỗi và điều chỉnh hoặc loại bỏ những bảng không đạt yêu cầu Tiếp theo, tiến hành mã hóa, nhập liệu và làm sạch dữ liệu, sau đó thực hiện phân tích dữ liệu bằng phần mềm SPSS.

Sau khi phân tích và tổng hợp dữ liệu, báo cáo đã chỉ ra các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập của nông hộ tại 12 xã đạt chuẩn nông thôn mới và 2 xã còn lại ở huyện Bình Chánh Phương pháp phân rã Oaxaca – Blinder được áp dụng để xác định sự khác biệt về thu nhập giữa các hộ gia đình đạt và chưa đạt chuẩn nông thôn mới Từ đó, báo cáo đề xuất một số chính sách nhằm nâng cao thu nhập cho các hộ gia đình địa phương, hỗ trợ Ban chỉ đạo Xây dựng nông thôn mới huyện Bình Chánh trong việc cải thiện đời sống cư dân.

Giới thiệu phương pháp phân rã BlinderOaxaca decomposition

Theo Lê Bảo Lâm, Nguyễn Minh Hà và Lê Văn Hưởng (2015), phương pháp phân rã Oaxaca-Blinder là một công cụ phổ biến trong phân tích kinh tế nhằm xác định sự khác biệt về giá trị trung bình giữa các nhóm Phương pháp này đã được xây dựng và phát triển từ năm trước đó, giúp các nhà nghiên cứu hiểu rõ hơn về các yếu tố ảnh hưởng đến sự chênh lệch này.

Nghiên cứu năm 1973 đã chỉ ra rằng sự khác biệt giữa hai nhóm hộ gia đình chủ yếu do hai thành phần: một phần có thể giải thích được từ các đặc điểm khác nhau và phần còn lại không thể giải thích, phản ánh sự phân biệt đối xử Theo phương pháp Oaxaca, sự khác biệt về thu nhập giữa các nhóm hộ gia đình đạt chuẩn và chưa đạt chuẩn trong nông thôn mới được tính toán bằng cách so sánh biến thu nhập bình quân hộ gia đình (Y) và các biến độc lập (X) Câu hỏi đặt ra là sự khác biệt về giá trị trung bình của biến phụ thuộc giữa hai nhóm này là bao nhiêu Mô hình phân rã Oaxaca – Blinder cho phép biểu diễn biến thu nhập bình quân hộ gia đình (Y) theo một phương trình cụ thể.

-Phương trình nhóm hộ gia đình I: Y I = X I B I + u I

-Phương trình nhóm hộ gia đình II: Y II = X II B II + u II

Giá trị trung bình của các biến số và thông số trong mỗi nhóm được ước lượng thông qua hai phương trình: ̅ I = + ̅ I ̂ I + u I và ̅ II = + ̅ II ̂ II + u II.

Khoảng cách giữa nhóm hộ gia đình I và nhóm hộ gia đình II trong giá trị trung bình của biến phụ thuộc Y được thể hiện qua phương trình: ̅ I - ̅ II = ( - ) + ( ̅ I ̂ I - ̅ II ̂ II ) Phương trình này cho thấy sự khác biệt giữa hai nhóm hộ gia đình trong các giá trị trung bình của biến phụ thuộc, giúp phân tích và hiểu rõ hơn về tình hình kinh tế xã hội của từng nhóm.

Sau khi cộng và trừ ̅ II ̂ I , phương trình khoảng cách ở trên được biến đổi thành: ̅ I - ̅ II = ( - ) + [( ̅ I - ̅ II ) ̂ I - ̅ II ( ̂ I - ̂ II )]

Thành phần ( ̅ I – ̅ II ) ̂ I phản ánh khoảng cách giữa các biến phụ thuộc do sự khác biệt trung bình ở các đặc tính quan sát được giữa nhóm I và nhóm II Nếu các thành phần trong hai nhóm có cấp độ giống nhau ở biến X, thành phần này sẽ bằng O Ngoài ra, thành phần ̅ II ( ̂ I - ̂ II ) thể hiện sự khác biệt trong các hệ số hồi quy được ước lượng; nếu những hệ số này giống nhau giữa hai nhóm, thành phần này sẽ bằng 0 Điều này cho thấy khoảng cách chủ yếu phụ thuộc vào sự khác biệt trong các đặc điểm của từng thành phần trong hai nhóm.

Sự khác nhau giữa các nhóm hộ được phân thành ba loại chính: Thứ nhất, sự khác nhau do đặc tính của từng nhóm hộ, được biểu diễn bằng công thức E = ( ̅ I – ̅ II ) ̂ I Thứ hai, sự khác nhau xuất phát từ sự khác biệt trong các hệ số giữa các nhóm hộ, thể hiện qua công thức C = ̅ II ( ̂ I - ̂ II ) Cuối cùng, có một thành phần không thể lý giải được giữa các nhóm hộ, tạo ra sự khác biệt không rõ nguyên nhân.

U= - d) Thành phần khác biệt do sự phân biệt giữa các nhóm hộ tạo ra:

Để thực hiện phân rã trong mô hình hồi quy tuyến tính, bạn cần thực hiện các bước sau: đầu tiên, chạy hồi quy cho từng mẫu I và II; tiếp theo, ước lượng giá trị của XI và XII; sau đó, tính sự khác biệt tổng thể; tiếp theo, tính sự khác biệt do phần có thể giải thích dựa trên các đặc tính; và cuối cùng, tính sự khác biệt do phần không thể giải thích, tức là sự khác biệt do sự phân biệt giữa các nhóm hộ tạo ra.

Mô hình nghiên cứu

Dựa trên cơ sở lý thuyết và các nghiên cứu trước, bài viết này đề xuất mô hình nghiên cứu cho đề tài "Sự khác biệt trong thu nhập hộ gia đình giữa hộ ở xã đạt chuẩn và chưa đạt chuẩn nông thôn mới tại huyện Bình Chánh." Mô hình này được xây dựng dựa trên thực tiễn tại huyện Bình Chánh, nhằm phân tích sự chênh lệch thu nhập giữa các hộ gia đình trong các xã khác nhau.

Hình 3.2 Mô hình nghiên cứu

Nhóm yếu tố liên quan đặc điểm chủ hộ

- Trình độ học vấn chủ hộ

- Ngành nghề sinh sống của chủ hộ

- Giới tính của chủ hộ

Nhóm yếu tố liên quan đặc điểm hộ

- Quy mô hộ gia đình

- Số hoạt động tạo thu nhập

- Thời gian sống tại địa phương

Nhóm yếu tố liên quan xây dựng nông thôn mới

- Diện tích đất sản xuất

- Hộ tham gia Hợp tác xã

- Tiếp cận Cơ sở hạ tầng

Thu nhập bình quân hộ gia đình

Sự khác biệt thu nhập hộ gia đình giữa hộ ở xã đạt chuẩn và chưa đạt chuẩn NTM trên địa bàn huyện Bình Chánh

Biến độc lập Biến phụ thuộc

3.4.1 Phương trình nghiên cứu đưa ra:

* Phương trình các yếu tố ảnh hưởng đến TNHGĐ nhóm I và nhóm II

YI: là biến phụ thuộc (thu nhập bình quân hộ gia đình nhóm I)

YII: là biến phụ thuộc (thu nhập bình quân hộ gia đình nhóm II)

Nhóm I bao gồm các hộ gia đình tại 12 xã đã đạt chuẩn nông thôn mới, trong khi nhóm II gồm các hộ gia đình ở 02 xã chưa đạt chuẩn của huyện.

-β0: là hằng số hồi quy

-β1,β2, β12: là hệ số hồi quy

X1 Trình độ học vấn của chủ hộ

X2 Ngành nghề sinh sống của chủ hộ

X4 Giới tính của chủ hộ

X5 Quy mô hộ gia đình

X6 Số hoạt động tạo thu nhập

X7 Thời gian sống tại địa phương

X9 Diện tích đất sản xuất:

X10 Hộ tham gia Hợp tác xã

X11 Tiếp cận Cơ sở hạ tầng

3.4.2 Đo lường các biến trong mô hình và giả thuyết nghiên cứu

3.4.2.1 Đo lường các biến trong mô hình

YI: là thu nhập bình quân hộ gia đình nhóm I, được tính trong 1 năm (đơn vị tính: 1.000.000 đồng)

YII: là thu nhập bình quân hộ gia đình nhóm II, được tính trong 1 năm (đơn vị tính: 1.000.000 đồng)

Bảng 3.1 trình bày mô tả các biến độc lập được đưa vào mô hình nghiên cứu, bao gồm diễn giải, đơn vị đo lường và dấu kỳ vọng Các biến này được chọn dựa trên căn cứ lý thuyết và thực tiễn, nhằm đảm bảo tính chính xác và độ tin cậy của kết quả nghiên cứu Dấu kỳ vọng của từng biến cũng được chỉ rõ, giúp định hình hướng phân tích và dự đoán trong nghiên cứu.

X1 Trình độ học vấn của chủ hộ

Số năm đi học chủ hộ (năm) +

Vũ, 2015; Caponi và Plesca (2007); Nguyễn Xuân Thành (2006); Nguyễn Đức thắng

Hòa (2014), Trương Châu (2013), Võ Hồng Đức và cộng sự (2018), Okurut và cộng sự (2002); Marshall (1890); Wharton (1963)

X2 Ngành nghề sinh sống của chủ hộ

Nông nghiệp =1, Phi nông nghiệp

Van de Walle và Cratty (2004); Borjas (2005); Nguyễn Thị Yến Mai (2011); Phạm Tấn Hòa (2014); Đinh Phi Hổ và Đông Đức (2014)

X3 Tuổi của chủ hộ Số tuổi chủ hộ

Bojas (2005); Trần Quang Tuyến, Đinh Phi

X4 Giới tính của chủ hộ

Howard White and Edoardo Masset (2003); Aikaeli (2010); Nguyễn Trọng Hoài (2010); Tống Quốc Bảo (2015);

Võ Hồng Đức và cộng sự (2018)

X5 Quy mô hộ gia đình

Tổng số người trong hộ (người) -

Okurut và cộng sự (2002); Trương Châu (2013); Đinh Phi Hổ và Đông Đức (2014)

X6 Số hoạt động tạo thu nhập

Số hoạt động tạo thu nhập + Lê Quang Vũ (2015);

(2008); Đinh Phi Hổ và Hoàng Thị Thu Huyền (2010); Trương Châu

X7 Thời gian sống tại địa phương

Số năm sống tại địa phương + Phan Đình Nghĩa (2010)

Biến giả: Có vay vốn =1, không vay vốn =0

Lê Quang Vũ (2015); Đinh Phi Hổ và Đông Đức (2014); (Mwanza

X9 Diện tích đất sản xuất:

Tổng diện tích hộ đang sản xuất hoặc thuê (m2)

Hồ Quốc Công (2015); Nguyễn Sinh Công (2004); Mwanza (2011); Trương Châu (2013); Barker (2002)

X10 Hộ tham gia Hợp tác xã

Biến giả: tham gia=1, không tham gia =0

Chánh, Tác giả đề xuất

X11 Tiếp cận Cơ sở hạ tầng

Biến giả: Có tiếp cận =1, không tiếp cận= 0

Nguyễn Hữu Tín và Phan Thị Giác Tâm (2008), Marsh & cộng sự

(2007), Klasen và cộng sự(2013), Idowu và cộng sự(2011), Phạm Tấn Hòa (2014), Nguyễn Minh Hà và cộng sự(2018)

KHKT=1, Không + Nguyễn Thanh Bảo

(2015), Đinh Phi Hổ áp dụng KHKT=0

(2003), Nguyễn Thị Thu Cúc (2015), Thị Thanh Thúy (2016)

3.4.2.2 Các giả thuyết nghiên cứu

Nhóm yếu tố liên quan đặc điểm chủ hộ

Giả thuyết X1 đề cập đến mối liên hệ giữa trình độ học vấn của chủ hộ và hiệu quả lao động Theo Solow (1957), trình độ học vấn góp phần nâng cao năng suất lao động thông qua việc áp dụng các tiến bộ kỹ thuật Mincer cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của giáo dục trong việc cải thiện khả năng lao động.

Quá trình phát triển kinh tế từ năm 1993 cho thấy vai trò quan trọng của con người, đặc biệt là qua các kỹ năng được hình thành từ giáo dục và đào tạo Nghiên cứu của Caponi và Plesca (2007) chỉ ra rằng những người tốt nghiệp phổ thông có thu nhập thấp hơn từ 30% đến 40% so với những người tốt nghiệp đại học Marshall (1890, trích bởi Phạm Tấn Hòa, 2014) nhấn mạnh rằng sự khác biệt về trình độ và kiến thức sản xuất ảnh hưởng đến thu nhập Nguyễn Xuân Thành (2006) cũng cho rằng kinh nghiệm làm việc và số năm học có tác động lớn đến thu nhập của lao động Trong bối cảnh khoa học kỹ thuật tiến bộ và đô thị hóa nhanh chóng, giáo dục trở thành yếu tố then chốt giúp người lao động thích ứng hiệu quả hơn Các nghiên cứu của Nguyễn Đức Thắng (2002), Bùi Quang Bình (2008), Phạm Tấn Hòa (2014) và Lê Quang Vũ (2015) đều khẳng định tầm quan trọng của giáo dục trong phát triển nguồn nhân lực.

Nghiên cứu của Okurut và cộng sự (2002) cho thấy mối liên hệ giữa trình độ học vấn và thu nhập, trong đó những người có trình độ thấp thường có thu nhập thấp hơn Hơn nữa, Võ Hồng Đức và đồng nghiệp (2018) đã chỉ ra rằng nếu tỷ lệ sinh viên tham gia giáo dục đại học và cao đẳng tăng 1% so với tổng dân số địa phương, tổng thu nhập bình quân đầu người sẽ tăng 0.105%.

Số năm đi học cao nhất của chủ hộ được tính theo đơn vị năm, với giá trị 0 cho những người mù chữ Đối với bậc học trung học phổ thông trở xuống, số năm được tính theo lớp đã học Các bậc học cao hơn được tính như sau: Trung cấp là 13 năm, Cao đẳng 14 năm, Đại học 15 năm, và Sau đại học 16 năm.

Giả thuyết X2 Ngành nghề sinh sống của chủ hộ: Van de Walle và Cratty

Nghiên cứu năm 2004 chỉ ra rằng tham gia vào các hoạt động phi nông nghiệp có thể giúp giảm nghèo tại Việt Nam Borjas (2005) cũng nhấn mạnh rằng thu nhập của người lao động trong ngành công nghiệp và dịch vụ thường cao hơn so với lao động trong ngành nông nghiệp, nhờ vào trình độ chuyên môn và kỹ năng Cụ thể, tỷ lệ nghèo của hộ gia đình có chủ hộ làm nghề phi nông nghiệp chỉ là 32,39%, trong khi tỷ lệ này ở hộ gia đình có chủ hộ làm nghề nông nghiệp lên tới 54,96% (Nguyễn Thị Yến Mai, 2011) Phạm Tấn Hòa (2014) khẳng định rằng thu nhập của lao động trong lĩnh vực nông nghiệp không bằng lao động phi nông nghiệp.

Nghiên cứu của Bojas (2005) cho thấy tuổi tác ảnh hưởng đến thu nhập, với tiền lương tăng lên ở người lao động trưởng thành, thấp hơn ở người trẻ và có thể giảm ở người lớn tuổi Theo Trần Quang Tuyến, Đinh Phi Hổ và Đông Đức (2014), thu nhập hộ gia đình có mối tương quan thuận với tuổi của chủ hộ Mpuga (2004, trích bởi Nguyễn Minh Hà, 2018) chỉ ra rằng chủ hộ trẻ tuổi thường áp dụng kiến thức mới vào sản xuất một cách tích cực hơn so với người lớn tuổi, những người chủ yếu dựa vào kinh nghiệm.

Nghiên cứu của Howard White và Edoardo Masset (2003) cùng với Aikaeli chỉ ra rằng hộ gia đình có chủ hộ nam giới có xu hướng giàu có hơn Nguyễn Trọng Hoài (2010) cũng đồng tình với quan điểm này, nhấn mạnh rằng giới tính của chủ hộ ảnh hưởng đến khả năng nghèo đói của hộ, đặc biệt ở những vùng nông thôn nghèo nơi phụ nữ thường phụ thuộc vào nam giới Tống Quốc Bảo (2015) cho biết thu nhập của nam giới cao hơn nữ giới 13,4% Bất bình đẳng giới tính cũng có tác động khác nhau đến tăng trưởng kinh tế: bất bình đẳng nam giới có ảnh hưởng tích cực trong khi bất bình đẳng nữ giới lại tác động tiêu cực (Võ Hồng Đức và cộng sự, 2018).

Nhóm yếu tố liên quan đặc điểm của hộ

Giả thuyết X5 Quy mô hộ gia đình: Okurut và cộng sự (2002, trích bởi

Nghiên cứu của Phạm Tấn Hòa (2014) chỉ ra rằng quy mô hộ nhỏ hơn sẽ dẫn đến sự gia tăng sự giàu có của hộ gia đình tại Uganda Bên cạnh đó, nghiên cứu thực nghiệm của Trương Châu (2013) cho thấy khi quy mô hộ giảm 1 người, tổng nhu nhập bình quân (TNBQ) của hộ sẽ tăng thêm 133,935 ngàn đồng.

Theo nghiên cứu của Đinh Phi Hổ và cộng sự (2014), thu nhập của hộ nông dân sẽ giảm 3,8% do ảnh hưởng của quy mô hộ gia đình.

Giả thuyết X6 cho rằng hộ gia đình nông thôn có thể đối mặt với nhiều rủi ro và thu nhập không ổn định nếu không đa dạng hóa nguồn thu nhập từ nhiều hoạt động sản xuất, do nông nghiệp thường theo mùa và phụ thuộc vào thời tiết (Lê Quang Vũ, 2015) Nghiên cứu của Micevska & Rahut (2008) chỉ ra rằng thu nhập của hộ gia đình tăng thêm nhờ vào việc tham gia vào các hoạt động sản xuất phi nông nghiệp Các nghiên cứu thực nghiệm của Đinh Phi Hổ và cộng sự (2010) tại Phú Thọ, và Trương Châu (2013) tại Tây Ninh đã chứng minh rằng thu nhập hộ gia đình có mối quan hệ tích cực với số lượng hoạt động tạo thu nhập.

Giả thuyết X7 về thời gian sống tại địa phương của Phan Đình Nghĩa (2010) cho rằng người thân và chính quyền địa phương sẽ hỗ trợ nông hộ lâu năm về vốn và kinh nghiệm nhờ vào mối quan hệ cộng đồng Điều này dẫn đến điều kiện sống và sản xuất của các hộ này được cải thiện hơn, nhờ vào nguyên tắc “an cư lạc nghiệp” Thời gian sống tại địa phương được đo bằng số năm (ĐVT: năm) và kỳ vọng có dấu hiệu tích cực (+).

Nhóm yếu tố liên quan xây dựng nông thôn mới

Giả thuyết X8 cho rằng những hộ gia đình thiếu vốn sẽ không thể sản xuất, dẫn đến việc thu nhập của họ bị giảm sút Vốn được xem là điều kiện thiết yếu cho các nông hộ, đặc biệt là đối với những hộ không có kinh nghiệm và sản xuất kém hiệu quả Việc cung cấp vốn sẽ góp phần cải thiện thu nhập cho các hộ gia đình (Lê Quang Vũ, 2015).

Dữ liệu nghiên cứu và Mẫu nghiên cứu

Trong giai đoạn 2010-2019, các báo cáo từ Ban chỉ đạo Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng NTM của huyện đã cung cấp số liệu thứ cấp quan trọng Báo cáo tình hình phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh và ngân sách năm 2019 cùng kế hoạch năm 2020 của UBND huyện Bình Chánh cũng góp phần đáng kể vào việc đánh giá tình hình phát triển Thêm vào đó, kết quả điều tra thu nhập hộ gia đình năm 2019 đã phản ánh rõ nét thực trạng kinh tế của người dân trong khu vực.

2019 của Cục Thống kê Tp.HCM

Số liệu sơ cấp: Đề tài sử dung số liệu sơ cấp thông qua việc điều tra trực tiếp

Đã tiến hành khảo sát 340 hộ gia đình thông qua bảng câu hỏi chuẩn bị sẵn tại 12 xã đạt chuẩn NTM, bao gồm các xã: Tân Nhựt, Lê Minh Xuân, An Phú Tây, Bình Lợi, Bình Chánh, Phạm Văn Hai, Tân Kiên, Tân Quý Tây, Hưng Long, Đa Phước, Qui Đức, và Phong Phú Ngoài ra, còn có 02 xã Vĩnh Lộc A và Vĩnh Lộc B đang trong quá trình xây dựng theo tiêu chuẩn NTM.

Theo Green (1991), trích dẫn từ Trương Châu (2013), công thức tính kích thước mẫu cho hồi quy tuyến tính đa biến được xác định là n > 50 + 8p, trong đó n là kích thước mẫu tối thiểu và p là số lượng biến độc lập Với 12 biến độc lập trong nghiên cứu, kích thước mẫu tối thiểu cần thiết là n > 50 + 8 x 12 = 146 Số mẫu nghiên cứu thực tế là 340, vượt quá yêu cầu tối thiểu Dựa theo quy mô hộ gia đình và nhân khẩu tại huyện, 20 hộ sẽ được chọn từ 4 xã Lê Minh Xuân, Phong Phú, Phạm Văn Hai, Tân Kiên; 15 hộ từ 4 xã Bình Chánh, Tân Nhựt, Hưng Long, An Phú Tây; và 10 hộ từ 4 xã Tân Quý Tây, Đa Phước, Qui Đức, Bình Lợi Tại 2 xã Vĩnh Lộc A và Vĩnh Lộc B, mỗi xã sẽ điều tra 20 hộ gia đình.

80 hộ gia đình, lớn hơn 146 nên đạt yêu cầu về kích thước mẫu

Bảng 3.2 Tổng số hộ và nhân khẩu trên địa bàn Huyện

TT Xã - Thị trấn Tổng số hộ, nhân khẩu Chọn hộ

Nguồn dữ liệu được sử dụng trong nghiên cứu này là từ Cục Thống kê Huyện, dựa trên điều tra Thu nhập hộ gia đình năm 2019 của Cục Thống kê TPHCM Tác giả đã áp dụng phương pháp lấy mẫu thuận tiện, cho phép điều tra viên phỏng vấn bất kỳ hộ gia đình nào trong tổng số gần 2.620 hộ có trong bộ dữ liệu Tổng số hộ cần điều tra sẽ được xác định dựa trên quy trình này.

340 hộ Mẫu được chọn qua 2 giai đoạn: giai đoạn 1 chọn ấp; giai đoạn 2 chọn hộ

Huyện Bình Chánh có 14 xã, không tính thị trấn Tân Túc và xã Bình Hưng, trong đó mỗi xã sẽ chọn 2 ấp để tiến hành điều tra Tổng cộng sẽ có 28 ấp được khảo sát trong nghiên cứu này.

Trong nghiên cứu về nhóm I đạt chuẩn nông thôn mới, 180 hộ gia đình đã được khảo sát Mỗi xã chọn 2 ấp để tiến hành điều tra, riêng 4 xã Qui Đức, Tân Qúy Tây, Đa Phước và Bình Lợi, mỗi xã điều tra 10 hộ, với 5 hộ từ mỗi ấp, do tỷ lệ dân số của các xã này không cao.

Trong tổng số 8 xã được khảo sát, 4 xã gồm Lê Minh Xuân, Tân Kiên, Phong Phú và Phạm Văn Hai có dân số đông nên mỗi xã sẽ chọn 20 hộ để điều tra Đối với 4 xã còn lại, mỗi xã sẽ điều tra 15 hộ nhằm đảm bảo phản ánh tốt nhất tình hình, với mỗi ấp cũng được khảo sát 15 hộ.

Trong 160 hộ gia đình của nhóm II (nhóm chưa đạt chuẩn nông thôn mới) Mỗi xã chọn 2 ấp để điều tra, mỗi ấp 40 hộ

Tổng số mẫu điều tra là 340 mẫu nghiên cứu chính thức (không tính số mẫu nghiên cứu sơ bộ)

Phương pháp thu nhập số liệu: Phỏng vấn trực tiếp thông qua bảng câu hỏi Thời gian khảo sát: Tháng 6 năm 2020

Tóm tắt chương 3

Chương 3 xác định được các biến, cách đo lường, kỳ vọng chiều ảnh hưởng của các biến độc lập đến biến phụ thuộc, từ đó xây dựng mô hình nghiên cứu đề xuất Ngoài ra, còn đề cập đến dữ liệu nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu của luận văn Dữ liệu nghiên cứu của luận văn được lấy từ việc điều tra trực tiếp 340 hộ gia đình trên địa bàn huyện Phương pháp nghiên cứu định lượng và định lượng với các kỹ thuật: Thống kê mô tả và hồi quy đa biến, và phương pháp phân rã Oaxaca Blinder

CHƯƠNG 4 TỔNG QUAN KINH TẾ VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Chương 4 sẽ cung cấp cái nhìn tổng quan về tình hình kinh tế xã hội huyện Bình Chánh, bao gồm kết quả thống kê mô tả các biến trong mô hình nghiên cứu Bài viết sẽ thực hiện các kiểm định mô hình nghiên cứu, phân tích hồi quy và đánh giá các kết quả nghiên cứu Cuối cùng, sẽ có sự so sánh về mức độ khác biệt thu nhập giữa hộ gia đình đạt chuẩn nhóm I và hộ gia đình chưa đạt chuẩn nông thôn mới nhóm II.

Đặc điểm tình hình kinh tế- xã hội Huyện Bình Chánh

Bình Chánh là một trong năm huyện ngoại thành của TP.HCM, nằm ở phía Tây – Tây Nam, kết nối thành phố với các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long Huyện có tọa độ địa lý đặc trưng, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế và giao thông trong khu vực.

Huyện Bình Chánh, tọa lạc tại tọa độ 1060 27’51” – 1060 42’ kinh Đông và 1020 27’38’’- 100 52’30’’ vĩ Bắc, có vị trí địa lý giáp huyện Hóc Môn ở phía Bắc, quận Bình Tân, Quận 8, Quận 7 và huyện Nhà Bè ở phía Đông, huyện Bến Lức và huyện Cần Giuộc tỉnh Long An ở phía Nam, cùng huyện Đức Hoà tỉnh Long An ở phía Tây Huyện có tổng diện tích tự nhiên là 25.255,99 ha, chiếm 12% diện tích toàn Thành Phố, với dân số gần 686.840 người và hơn 176.870 hộ (tính đến tháng 1 năm 2019) Huyện bao gồm 15 xã và 1 thị trấn, trong đó thị trấn Tân Túc và xã Lê Minh Xuân có diện tích lớn nhất là 3.508,87 ha, trong khi xã An Phú Tây là xã nhỏ nhất với diện tích 586,58 ha.

Năm 2019, huyện ghi nhận thu ngân sách đạt hơn 2.190 tỷ đồng, tăng 12,89% so với năm trước Trong đó, thu từ thuế công thương nghiệp đạt 665 tỷ đồng, và tiền sử dụng đất đạt 600 tỷ đồng, với mức tăng lần lượt là 10,83% và 12,67% Tổng giá trị sản xuất theo giá so sánh 2010 đạt 56.636,340 tỷ đồng, tăng 20,7% so với cùng kỳ 2018, hoàn thành 100% kế hoạch Cụ thể, ngành Nông-Lâm-Thủy sản đạt 1.121,492 tỷ đồng, tăng 5,9%; ngành Công nghiệp-Xây dựng đạt 46.123,402 tỷ đồng, tăng 21,1%; và ngành Thương mại-Dịch vụ đạt 9.391,446 tỷ đồng, tăng 20,6%.

Huyện Bình Chánh nổi bật với các di tích lịch sử văn hóa như Đình Phú Lạc và Khu di tích lịch sử Rạch Gìa Đặc biệt, khu di tích Láng Le - Bàu Cò là nơi ghi dấu trận chống càn quan trọng, bảo vệ căn cứ kháng chiến và lực lượng võ trang Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.

Năm 2019, huyện ghi nhận tỷ lệ tăng dân số tự nhiên đạt 0,27%, trong khi tỷ lệ hộ nghèo và hộ cận nghèo giảm lần lượt 1,15% và 1,49% Huyện đã đào tạo nghề cho hơn 2.890 lao động nông thôn, đồng thời giới thiệu và giải quyết việc làm cho gần 7.100 lượt lao động Về y tế, huyện đạt tỷ lệ 9 bác sĩ trên 10.000 dân và 29 giường bệnh trên 10.000 dân, với tỷ lệ tham gia bảo hiểm y tế đạt 92% (649.551/705.508) Trong lĩnh vực giáo dục, huyện có gần 205,6 phòng học trên 10.000 dân và gần 100% các cơ sở giáo dục được trang bị đường truyền internet.

Gần 178.600 hộ dân, tương đương hơn 99,1%, đã được cung cấp nước sạch Tỷ lệ xử lý chất thải rắn thông thường và chất thải rắn nguy hại lần lượt đạt hơn 97% và 100% Đối với chất thải y tế, tỷ lệ xử lý đạt trên 98,5% Hơn 92,3% đơn vị áp dụng biện pháp xử lý nước thải, trong khi tỷ lệ xử lý khí thải đạt 85,1% Cuối cùng, tỷ lệ xử lý dứt điểm các cơ sở gây ô nhiễm môi trường đạt 82,55%.

4.1.5 Tình hình sản xuất nông nghiệp

Năm 2019, tổng giá trị sản xuất (GTSX) ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản đạt hơn 1.121,490 tỷ đồng Trong đó, ngành trồng trọt đạt 464,026 tỷ đồng, tăng 7,5%; ngành chăn nuôi đạt 380,039 tỷ đồng, tăng 3,8%; dịch vụ nông nghiệp đạt 66,199 tỷ đồng, tăng 7,6%; và ngành thủy sản đạt 211,492 tỷ đồng, tăng 5,8%.

Diện tích gieo trồng rau vụ Đông Xuân đạt 1.264 ha, rau vụ Hè Thu 810 ha, và rau vụ Mùa 820 ha Diện tích gieo trồng lúa vụ Hè Thu là 1.636 ha và vụ Mùa khoảng 1.400 ha, hoàn thành 65,14% so với kế hoạch, giảm 28,8% so với cùng kỳ Diện tích trồng hoa cây kiểng tăng 11,36% so với cùng kỳ, đạt 550 ha Về chăn nuôi, tổng đàn gia súc trong huyện là 29.633 con, với tổng đàn heo gần 22.680 con từ 268 hộ, giảm 303 hộ và 25.257 con so với năm 2018 Tổng đàn trâu, bò đạt 6.954 con từ 805 hộ, giảm 250 hộ và 2.058 con so với cùng kỳ năm 2018, trong đó có 1.554 con bò sữa từ 78 hộ.

Năm 2019, diện tích nuôi trồng thủy sản đạt gần 583 ha, bao gồm 442,6 ha nuôi cá thịt, 51 ha nuôi tôm, 56 ha nuôi cá cảnh và 37,4 ha cho các loại thủy sản khác Để nâng cao hiệu quả sản xuất, các cơ quan như Hội Nông dân, Trạm Khuyến nông và Ủy ban nhân dân các xã, thị trấn đã phối hợp tổ chức các buổi tham quan, học tập mô hình nuôi thủy sản “sông trong ao” tại Hà Nội cho nông dân.

4.1.6 Kết quả thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện Bình Chánh giai đoạn 2010-2019

Qua 10 năm thực hiện, được sự hỗ trợ của các đơn vị chung sức Thành phố, huyện Bình Chánh đã phát động trong toàn hệ thống chính trị từ huyện đến xã, nhân dân, doanh nghiệp cùng nhau chung sức xây dựng NTM giai đoạn 2010-2020, qua đó đã góp phần thay đổi bộ mặt nông thôn huyện và đạt được những kết quả khá tích cực: cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân nhận thức rõ trách nhiệm và lợi ích của chương trình, kinh tế nông nghiệp đều tăng trưởng khá qua hàng năm; nhận thức về kinh tế tập thể được củng cố, ứng dụng KHCN có được những kết quả cụ thể, cơ cấu kinh tế nông nghiệp chuyển dần theo hướng nông nghiệp đô thị, công nghệ cao…từng bước nâng cao thu nhập

Qua 10 năm, huyện Bình Chánh, đã có 12 xã được Thành phố công nhận hoàn thành 19/19 tiêu chí giai đoạn 2010-2015, và đã hoàn thành 19/19 tiêu chí nâng chất giai đoạn 2016-2020 Huyện đã hoàn thành và đạt 8/9 tiêu chí (tiêu chí môi trường chưa đạt)

Trong 14 xã thực hiện NTM trên địa bản huyện, 12/14 xã đã hoàn thành 19/19 tiêu chí nông thôn mới, 2 xã Vĩnh Lộc A và Vĩnh Lộc B chưa hoàn thành các tiêu chí như giao thông (tiêu chí 2), trường học (5), môi trường và an toàn thực phẩm

(17) và hệ thống chính trị- tiếp cận pháp luật (18)

Mặc dù huyện đã đạt được một số kết quả nhất định, nhưng với xuất phát điểm thấp, địa bàn rộng lớn và tình trạng dân nhập cư gia tăng, việc thực hiện tiêu chí về môi trường gặp nhiều khó khăn Đầu tư kết nối hạ tầng kỹ thuật chậm trễ ảnh hưởng đến hạ tầng chung của huyện Từ năm 2010, các xã trung bình chỉ đạt 5/19 tiêu chí nông thôn mới, làm chậm quá trình thực hiện Tình trạng xây dựng nhà trái phép, tai nạn giao thông gia tăng và ô nhiễm môi trường (rác thải, nước thải) cũng là những thách thức lớn Nguồn vốn huy động từ người dân để đầu tư cơ sở hạ tầng chưa đạt kỳ vọng do thu nhập thấp, cùng với khó khăn trong công tác bồi thường đất cho các công trình văn hóa và giáo dục, làm cho tiến độ thực hiện tiêu chí không theo kịp kế hoạch Mặc dù có nỗ lực tuyên truyền, nhưng chưa thu hút được sự tham gia tích cực của người dân và doanh nghiệp, trong khi tình trạng lấn chiếm lòng lề đường và số lượng học sinh quá đông tại các trường học vẫn chưa được giải quyết.

Kết quả nghiên cứu định lƣợng

4.2.1 Thống kê mô tả các biến trong mô hình

Bảng 4.1: Thống kê mô tả các biến trong mô hình nhóm I

N Minimum Maximum Mean Std Deviation

Tiếp cận CSHT 180 0 1 0.4444 0.49829 Áp dụng KHKT 180 0 1 0.4111 0.49341

Nguồn: SPSS Bảng 4.2: Thống kê mô tả các biến trong mô hình nhóm II

N Minimum Maximum Mean Std Deviation

Tiếp cận CSHT 160 0 1 0.4937 0.50153 Áp dụng KHKT 160 0 1 0.4438 0.49839

Thông qua việc sử dụng phần mềm SPSS 20.0, tác giả đã tiến hành xử lý dữ liệu bằng cách sàn lọc và mã hóa lại các biến để đảm bảo tính chính xác trong thống kê Sau đó, tác giả thực hiện một số phép thống kê và kiểm định các biến trong mô hình nghiên cứu.

Thu nhập bình quân của nông hộ

Bảng 4.3: TNBQ của hộ gia đình nhóm I và nhóm II

TNBQ ĐVT Số quan sát

Giá trị trung bình Độ lệch chuẩn Nhóm I 1.000.000 đồng 180 104 880 332.47 158.32

Nguồn: Điều tra khảo sát năm 2019 (ĐVT: 1.000.000Đ)

Theo thống kê từ 180 hộ gia đình nhóm I và 160 hộ gia đình nhóm II, thu nhập bình quân (TNBQ) của hộ gia đình nhóm I đạt 332,47 triệu đồng/năm, với độ lệch chuẩn 158,320; hộ có thu nhập cao nhất là 880 triệu đồng và thấp nhất là 104 triệu đồng Trong khi đó, TNBQ của hộ gia đình nhóm II là 198,80 triệu đồng/năm, với hộ có thu nhập cao nhất là 457 triệu đồng và thấp nhất là 66 triệu đồng.

Giới tính của chủ hộ

Kết quả khảo sát 180 hộ gia đình nhóm I cho thấy sự chênh lệch thu nhập giữa các chủ hộ nam và nữ Cụ thể, trong số 109 hộ do nam làm chủ, chiếm 60,6%, có mức thu nhập bình quân là 354,10 triệu đồng với độ lệch chuẩn 140,964 Trong khi đó, 71 hộ do nữ làm chủ, chiếm 39,4%, có thu nhập bình quân 299,25 triệu đồng và độ lệch chuẩn 177,734 Điều này cho thấy, chủ hộ nam có thu nhập bình quân cao hơn 54,85 triệu đồng so với chủ hộ nữ.

Bảng 4.4: Quan hệ giữa giới tính chủ hộ và thu nhập của hộ

Stt Giới tính chủ hộ Số chủ hộ Tỷ lệ % Thu nhập bình quân

Nhóm I Nhóm II Nhóm I Nhóm II Nhóm I Nhóm II

Nguồn: Điều tra khảo sát năm 2019 (ĐVT: 1.000.000Đ)

Kết quả khảo sát 160 hộ nhóm II cho thấy sự khác biệt rõ rệt về thu nhập giữa các giới tính của chủ hộ Cụ thể, trong số 72 hộ do nam làm chủ (chiếm 45,0%), mức thu nhập bình quân (TNBQ) đạt 259,35 triệu đồng với độ lệch chuẩn 81.250, trong khi 88 hộ do nữ làm chủ (chiếm 55,0%) chỉ có TNBQ 149,25 triệu đồng và độ lệch chuẩn 47.716 Điều này cho thấy, chủ hộ nam có mức TNBQ cao hơn 110,01 triệu đồng so với chủ hộ nữ.

Phân tích hai mẫu độc lập cho thấy sự khác biệt rõ rệt về thu nhập giữa nam và nữ trong hai nhóm Cụ thể, tại nhóm I, thu nhập trung bình của nam giới cao hơn nữ giới 54.85 triệu đồng, trong khi tại nhóm II, chênh lệch thu nhập giữa nam và nữ lên tới 110.1 triệu đồng.

Nghề nghiệp của chủ hộ

Kết quả khảo sát cho thấy trong Nhóm I, có 102 hộ làm trong ngành nghề nông nghiệp, chiếm 56,7% tổng số hộ, với mức thu nhập trung bình (TNTB) là 353,37 triệu đồng và độ lệch chuẩn 169,124 Trong khi đó, 78 hộ làm nghề phi nông nghiệp, chiếm 43,3%, có mức thu nhập bình quân (TNBQ) là 305,13 triệu đồng và độ lệch chuẩn 139,333 Điều này cho thấy sự khác biệt rõ rệt về thu nhập giữa hai nhóm hộ nghề.

NN có TNBQ cao hơn 48.24 triệu đồng các chủ hộ làm PNN

Bảng 4.5: Quan hệ giữa thu nhập hộ với nghề nghiệp sinh sống của chủ hộ

Ngành nghề Số chủ hộ Tỷ lệ %

Nhóm I Nhóm II Nhóm I Nhóm II Nhóm I Nhóm II

Nguồn: Điều tra khảo sát năm 2019 (ĐVT: 1.000.000Đ)

Kết quả thống kê từ 160 nông hộ nhóm II cho thấy, trong số các hộ làm nông nghiệp, có 81 hộ (50,6%) với thu nhập bình quân (TNBQ) chỉ đạt 170,79 triệu đồng và độ lệch chuẩn 70,115 Ngược lại, 79 hộ làm phi nông nghiệp (49,4%) có TNBQ cao hơn, đạt 227,506 triệu đồng và độ lệch chuẩn 89,505 Điều này cho thấy, các hộ làm nghề phi nông nghiệp có TNBQ cao hơn 56,716 triệu đồng so với các hộ làm nghề nông nghiệp.

Kết quả điều tra tại nhóm I cho thấy sự khác biệt rõ rệt về thu nhập giữa các hộ có vay vốn sản xuất (VVSX) và không có VVSX Cụ thể, trong số 94 hộ có VVSX, chiếm 52,2%, thu nhập bình quân đạt 431,26 triệu đồng với độ lệch chuẩn 140,170 Trong khi đó, nhóm 86 hộ không có VVSX, chiếm 47,8%, có mức thu nhập bình quân chỉ 224,49 triệu đồng và độ lệch chuẩn 93,265.

Bảng 4.6: Quanhệ giữa thu nhập hộ với vay vốn sản xuất của chủ hộ

Stt Vay vốn sản xuất Số chủ hộ Tỷ lệ % Thu nhập bình quân

Nhóm I Nhóm II Nhóm I Nhóm II Nhóm I Nhóm II

2 Không vay vốn sản xuất 86 79 47,8 49,4 224.49 146.39

Theo điều tra khảo sát năm 2019, trong nhóm II, hộ có VVSX chiếm 50,6% với 81 hộ, có mức thu nhập bình quân 249,90 triệu đồng và độ lệch chuẩn 81.257 Ngược lại, nhóm hộ không có VVSX gồm 79 hộ, chiếm 49,4%, với mức thu nhập bình quân là 146,39 triệu đồng và độ lệch chuẩn 49.367.

Phân tích hai mẫu độc lập cho thấy nhóm hộ vay vốn sản xuất (VVSX) có thu nhập cao hơn nhóm hộ không vay Cụ thể, hộ trong nhóm I có thu nhập cao hơn 206.77 triệu đồng so với hộ không VVSX, trong khi hộ trong nhóm II có thu nhập cao hơn 103.51 triệu đồng.

Tham gia hợp tác xã

Kết quả thống kê từ 180 hộ nhóm I cho thấy có 92 hộ (51,1%) tham gia HTX với mức thu nhập bình quân (TNBQ) đạt 443,24 triệu đồng và độ lệch chuẩn 138,915 Trong khi đó, 88 hộ (48,9%) không tham gia HTX có TNBQ chỉ 216,66 triệu đồng và độ lệch chuẩn 69,605 Điều này cho thấy, hộ có chủ hộ tham gia HTX có số lượng nhiều hơn và mức TNBQ cao hơn 226,58 triệu đồng so với hộ không tham gia HTX.

Bảng 4.7: Quan hệ giữa thu nhập hộ với việc tham gia HTX của chủ hộ

HTX Số chủ hộ Tỷ lệ % Thu nhập bình quân

Nhóm I Nhóm II Nhóm I Nhóm II Nhóm I Nhóm II

Không có tham gia HTX

Nguồn: Điều tra khảo sát năm 2019 (ĐVT: 1.000.000Đ)

Theo kết quả thống kê từ 160 hộ nhóm II, có 102 hộ không tham gia HTX, chiếm 63,8%, với mức thu nhập bình quân (TNBQ) là 165,18 triệu đồng và độ lệch chuẩn 63,229 Trong khi đó, 58 hộ tham gia HTX, chiếm 36,3%, có TNBQ đạt 257,91 triệu đồng và độ lệch chuẩn 86,351 Điều này cho thấy tỷ lệ hộ không tham gia HTX cao hơn, nhưng TNBQ của hộ tham gia HTX lại cao hơn 92,73 triệu đồng so với hộ không tham gia.

Tiếp cận cơ sở hạ tầng

Theo bảng 4.8, nhóm hộ không tiếp cận chính sách hỗ trợ có 100 hộ, chiếm 55,6%, với mức thu nhập bình quân là 337,54 triệu đồng và độ lệch chuẩn 172,276 Ngược lại, nhóm hộ có tiếp cận chính sách gồm 80 hộ, chiếm 44,4%, với mức thu nhập bình quân 326,13 triệu đồng và độ lệch chuẩn 139,753 Kết quả cho thấy thu nhập của nhóm không tiếp cận chính sách hỗ trợ cao hơn 11,41 triệu đồng so với nhóm có tiếp cận.

Bảng 4.8: Quan hệ giữa việc tiếp cận cơ sở hạ tầng của chủ hộ với thu nhập hộ

Stt Tiếp cận cơ sở hạ tầng Số chủ hộ Tỷ lệ % Thu nhập bình quân Nhóm I Nhóm II Nhóm I Nhóm II Nhóm I Nhóm II

Nguồn: Điều tra khảo sát năm 2019 (ĐVT: 1.000.000Đ)

Trong nhóm II, điều tra 160 hộ cho thấy 79 hộ (49,4%) có tiếp cận cơ sở hạ tầng (CSHT) với mức thu nhập bình quân đạt 241,68 triệu đồng và độ lệch chuẩn 83,403 Ngược lại, 81 hộ (50,6%) không có tiếp cận CSHT, với mức thu nhập bình quân chỉ 156,96 triệu đồng và độ lệch chuẩn 62,966 Sự chênh lệch thu nhập giữa hai nhóm này là 84,72 triệu đồng, cho thấy việc tiếp cận CSHT có ảnh hưởng tích cực đến thu nhập của hộ gia đình.

Theo thống kê từ 180 nông hộ nhóm I, có 106 hộ (58,9%) không áp dụng khoa học kỹ thuật (KHKT) với thu nhập bình quân (TNBQ) là 236,70 triệu đồng, trong khi 74 hộ (41,1%) áp dụng KHKT có TNBQ đạt 469,65 triệu đồng Điều này cho thấy số hộ không áp dụng KHKT chiếm ưu thế hơn, nhưng thu nhập của các hộ áp dụng KHKT cao hơn 232,95 triệu đồng so với các hộ không áp dụng.

Bảng 4.9: Quan hệ giữa thu nhập hộ với việc áp dụng KHKT của chủ hộ

KHKT Số chủ hộ Tỷ lệ % Thu nhập bình quân

Nhóm I Nhóm II Nhóm I Nhóm II Nhóm I Nhóm II

Nguồn: Điều tra khảo sát năm 2019 (ĐVT: 1.000.000Đ)

Kết quả nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập bình quân của hộ

4.4.1 Kiểm định sự tương quan và Đa cộng tuyến nhóm II

Dựa vào kết quả ma trận tương quan từ phần mềm SPSS, hầu hết các hệ số tương quan đều có giá trị tuyệt đối gần 0, đặc biệt là giữa trình độ và nghề nghiệp với hệ số 0.731 (sig < 0.01) Do đó, có thể kết luận rằng phần lớn các biến độc lập không có mối tương quan chặt chẽ với thu nhập bình quân của hộ gia đình.

Bảng 4.23: Ma trận hệ số tương quan các biến trong mô hình nhóm II

Trì nh độ hộ nghề nghiệp của chủ hộ, tuổi tác và giới tính của chủ hộ, quy mô hộ gia đình, số hoạt động và thời gian sống, vay vốn sản xuất, diện tích đất sản xuất, hộ tham gia hợp tác xã, và tiếp cận cơ sở hạ tầng khoa học kỹ thuật là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế và xã hội của các hộ gia đình.

Giới tính chủ hộ 299 ** 288 ** - 0.151 1 Quy mô hộ gia đình 333 ** 314 ** - 0.006 570 ** 1

Số hoạt động 298 ** 219 ** - 0.131 504 ** 571 ** 1 Thời gian sống 421 ** 367 ** - 0.096 549 ** 619 ** 462 ** 1 Vay vốn sản xuất 254 ** 225 ** - 0.077 567 ** 545 ** 453 ** 520 ** 1 Diện tích đất sản xuất 180 * 206 ** - -0.01 0.135 251 ** 0.062 0.131 0.108 1

Hộ tham gia HTX 184 * 191 - * 0.054 494 ** 436 ** 297 ** 479 ** 511 ** 0.077 1 Tiếp cận CSHT 185 * -0.15 0.146 489 ** 486 ** 377 ** 433 ** 725 ** 158 * 452 ** 1 Khoa học kỹ thuật 210 ** -0.12 0.044 482 ** 407 ** 342 ** 410 ** 630 ** 183 * 399 ** 628 ** 1

Nguồn: Xử lý số liệu từ SPSS

Kết quả kiểm định đa cộng tuyến từ bảng 4.24 cho thấy các hệ số VIF nằm trong khoảng từ 1,088 đến 2,848, điều này chứng tỏ không có hiện tượng đa cộng tuyến trong mô hình và các biến được đưa vào mô hình đều được chấp nhận.

Bảng 4.24 Kiểm định VIF (hộ gia đình nhóm II)

Trình độ học vấn chủ hộ 2.347

Quy mô hộ gia đình 2.353

Số hoạt động tạo thu nhập 1.699

Thời gian sống tại địa 2.088 phương

Diện tích đất sản xuất 1.136

Hộ tham gia hợp tác xã 1.578

Tiếp cận Cơ sở hạ tầng 2.476 Áp dụng khoa học kỹ thuật 1.976

Nguồn: Xử lý số liệu từ SPSS

Bảng 4.25: Kết quả hồi quy mô hình (hộ gia đình nhóm II)

Vay vốn sản xuất 18.538 10.812 0.109 1.714 0.089 Diện tích đất sx 0.014 0.003 0.194 4.817 0

Tiếp cận CSHT -9.457 10.082 -0.056 -0.938 0.35 Áp dụng KHKT 8.233 9.063 0.048 0.908 0.365

Lập luận tương tự như nhóm I, kết quả bảng 4.25 cho thấy

Có 3 biến có mức ý nghĩa thống kê 1% (Sig

Ngày đăng: 12/01/2022, 23:49

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Hình 3.1 : Quy trình nghiên cứu - Sự khác biệt trong thu nhập hộ gia đình giữa hộ ở xã đạt chuẩn và chưa đạt chuẩn nông thôn mới trên địa bàn huyện bình chánh
Hình 3.1 Quy trình nghiên cứu (Trang 40)
Hình 3.2 Mô hình nghiên cứu - Sự khác biệt trong thu nhập hộ gia đình giữa hộ ở xã đạt chuẩn và chưa đạt chuẩn nông thôn mới trên địa bàn huyện bình chánh
Hình 3.2 Mô hình nghiên cứu (Trang 45)
Bảng 3.1 Mô tả các biến độc lập đưa vào mô hình nghiên cứu và dấu kỳ vọng  Biến  Diễn giãi  Đơn vị đo lường  Dấu kỳ vọng  Căn cứ chọn biến - Sự khác biệt trong thu nhập hộ gia đình giữa hộ ở xã đạt chuẩn và chưa đạt chuẩn nông thôn mới trên địa bàn huyện bình chánh
Bảng 3.1 Mô tả các biến độc lập đưa vào mô hình nghiên cứu và dấu kỳ vọng Biến Diễn giãi Đơn vị đo lường Dấu kỳ vọng Căn cứ chọn biến (Trang 47)
Bảng 3.2 Tổng số hộ và nhân khẩu trên địa bàn Huyện - Sự khác biệt trong thu nhập hộ gia đình giữa hộ ở xã đạt chuẩn và chưa đạt chuẩn nông thôn mới trên địa bàn huyện bình chánh
Bảng 3.2 Tổng số hộ và nhân khẩu trên địa bàn Huyện (Trang 55)
Bảng 4.1: Thống kê mô tả các biến trong mô hình nhóm I - Sự khác biệt trong thu nhập hộ gia đình giữa hộ ở xã đạt chuẩn và chưa đạt chuẩn nông thôn mới trên địa bàn huyện bình chánh
Bảng 4.1 Thống kê mô tả các biến trong mô hình nhóm I (Trang 61)
Bảng 4.3: TNBQ của hộ gia đình nhóm I và nhóm II - Sự khác biệt trong thu nhập hộ gia đình giữa hộ ở xã đạt chuẩn và chưa đạt chuẩn nông thôn mới trên địa bàn huyện bình chánh
Bảng 4.3 TNBQ của hộ gia đình nhóm I và nhóm II (Trang 62)
Bảng 4.4: Quan hệ giữa giới tính chủ hộ và thu nhập của hộ - Sự khác biệt trong thu nhập hộ gia đình giữa hộ ở xã đạt chuẩn và chưa đạt chuẩn nông thôn mới trên địa bàn huyện bình chánh
Bảng 4.4 Quan hệ giữa giới tính chủ hộ và thu nhập của hộ (Trang 63)
Bảng 4.8: Quan hệ giữa việc tiếp cận cơ sở hạ tầng của chủ hộ với thu nhập hộ - Sự khác biệt trong thu nhập hộ gia đình giữa hộ ở xã đạt chuẩn và chưa đạt chuẩn nông thôn mới trên địa bàn huyện bình chánh
Bảng 4.8 Quan hệ giữa việc tiếp cận cơ sở hạ tầng của chủ hộ với thu nhập hộ (Trang 67)
Bảng 4.9: Quan hệ giữa thu nhập hộ với việc áp dụng KHKT của chủ hộ - Sự khác biệt trong thu nhập hộ gia đình giữa hộ ở xã đạt chuẩn và chưa đạt chuẩn nông thôn mới trên địa bàn huyện bình chánh
Bảng 4.9 Quan hệ giữa thu nhập hộ với việc áp dụng KHKT của chủ hộ (Trang 68)
Bảng 4.10: Quan hệ giữa trình độ học vấn và thu nhập hộ gia đình - Sự khác biệt trong thu nhập hộ gia đình giữa hộ ở xã đạt chuẩn và chưa đạt chuẩn nông thôn mới trên địa bàn huyện bình chánh
Bảng 4.10 Quan hệ giữa trình độ học vấn và thu nhập hộ gia đình (Trang 69)
Bảng 4.11: Quan hệ giữa thu nhập hộ và độ tuổi - Sự khác biệt trong thu nhập hộ gia đình giữa hộ ở xã đạt chuẩn và chưa đạt chuẩn nông thôn mới trên địa bàn huyện bình chánh
Bảng 4.11 Quan hệ giữa thu nhập hộ và độ tuổi (Trang 70)
Bảng 4.12: Quan hệ giữa thu nhập hộ gia đình và quy mô hộ - Sự khác biệt trong thu nhập hộ gia đình giữa hộ ở xã đạt chuẩn và chưa đạt chuẩn nông thôn mới trên địa bàn huyện bình chánh
Bảng 4.12 Quan hệ giữa thu nhập hộ gia đình và quy mô hộ (Trang 72)
Bảng 4.13: Quan hệ giữa số hoạt động tạo thu nhập với thu nhập hộ gia đình - Sự khác biệt trong thu nhập hộ gia đình giữa hộ ở xã đạt chuẩn và chưa đạt chuẩn nông thôn mới trên địa bàn huyện bình chánh
Bảng 4.13 Quan hệ giữa số hoạt động tạo thu nhập với thu nhập hộ gia đình (Trang 73)
Bảng 4.14: Quan hệ giữa thời gian sống với thu nhập hộ gia đình. - Sự khác biệt trong thu nhập hộ gia đình giữa hộ ở xã đạt chuẩn và chưa đạt chuẩn nông thôn mới trên địa bàn huyện bình chánh
Bảng 4.14 Quan hệ giữa thời gian sống với thu nhập hộ gia đình (Trang 75)
Bảng 4.15: Quan hệ giữa diện tích và thu nhập hộ gia đình - Sự khác biệt trong thu nhập hộ gia đình giữa hộ ở xã đạt chuẩn và chưa đạt chuẩn nông thôn mới trên địa bàn huyện bình chánh
Bảng 4.15 Quan hệ giữa diện tích và thu nhập hộ gia đình (Trang 77)

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w