1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Tác động của đa dạng hóa hội đồng quản trị và khoảng cách giữa chủ tịch hội đồng quản trị tổng giám đốc đến rủi ro của các ngân hàng thương mại

123 5 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 123
Dung lượng 10,97 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU TỔNG QUAN ĐỀ TÀI (14)
    • 1.1 Lý do nghiên cứu (14)
    • 1.2 Mục tiêu nghiên cứu (17)
    • 1.3 Câu hỏi nghiên cứu (18)
    • 1.4 Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu (18)
    • 1.5 Phương pháp nghiên cứu và dữ liệu nghiên cứu (18)
      • 1.5.1 Phương pháp nghiên cứu (18)
      • 1.5.2 Dữ liệu nghiên cứu (19)
    • 1.6 Ý nghĩa của nghiên cứu (19)
    • 1.7 Kết cấu của Luận văn (20)
  • CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT (21)
    • 2.1 Hội đồng quản trị (21)
      • 2.1.1 Khái niệm (21)
      • 2.1.2 Nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng quản trị (22)
      • 2.1.3 Nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch hội đồng quản trị (25)
      • 2.1.4 Các đặc tính đa dạng trong hội đồng quản trị (25)
    • 2.2 Tổng giám đốc (26)
      • 2.2.1 Khái niệm về Tổng giám đốc (26)
      • 2.2.2 Nhiệm vụ, quyền hạn của Tổng giám đốc (27)
    • 2.3 Rủi ro của các ngân hàng thương mại (28)
      • 2.3.1 Khái niệm về các loại rủi ro (28)
      • 2.3.2 Các loại rủi ro tín dụng (30)
      • 2.3.3 Chỉ số đo lường rủi ro tín dụng (32)
    • 2.4 Lý thuyết về khoảng cách giữa chủ tịch hội đồng quản trị và giám đốc điều hành (34)
    • 2.5 Ảnh hưởng của hội đồng quản trị và tổng giám đốc đến rủi ro (36)
      • 2.5.1 Vai trò của nhà quản trị trong hoạt động của doanh nghiệp (36)
      • 2.5.2 Mối quan hệ giữa sự đa dạng của hội đồng quản trị và rủi ro (37)
      • 2.5.3 Mối quan hệ giữa khoảng cách Chair-CEO với rủi ro (39)
    • 2.6 Các nghiên cứu đi trước (40)
  • CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU (46)
    • 3.1 Dữ liệu nghiên cứu (46)
    • 3.2 Phương pháp nghiên cứu (47)
    • 3.3 Các biến và giả thuyết nghiên cứu (48)
      • 3.3.1 Khoảng cách giữa Chair-CEO và rủi ro của ngân hàng (48)
      • 3.3.2 Sự đa dạng giới tính của thành viên HĐQT và rủi ro của ngân hàng36 (49)
      • 3.3.3 Sự đa dạng về quy mô HĐQT và rủi ro của ngân hàng (51)
      • 3.3.4 Sự đa dạng về thành viên độc lập trong HĐQT và rủi ro của ngân hàng (52)
      • 3.3.5 Các biến kiểm soát đặc tính của ngân hàng (53)
    • 3.4 Mô hình nghiên cứu (54)
  • CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU (58)
    • 4.1 Thống kê mô tả và ma trận hệ số tương quan (58)
      • 4.1.1 Thống kê mô tả (58)
      • 4.1.2 Ma trận hệ số tương quan (60)
    • 4.3 Kết quả phân tích hồi quy các mô hình nghiên cứu (62)
      • 4.3.1 Chọn lựa phương pháp ước lượng tối ưu (62)
      • 4.3.2 Kiểm định các khuyết tật của mô hình (62)
      • 4.3.3 Kết quả hồi quy bằng phương pháp SGMM (65)
      • 4.3.4 Kiểm định tính phù hợp và sự ổn định của phương pháp SGMM (68)
      • 4.3.5 Thảo luận kết quả nghiên cứu (70)
  • CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ (78)
    • 5.1 Kết luận (78)
    • 5.2 Kiến nghị (79)
    • 5.3 Hạn chế và hướng nghiên cứu tiếp theo (81)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (83)
  • PHỤ LỤC (92)

Nội dung

GIỚI THIỆU TỔNG QUAN ĐỀ TÀI

Lý do nghiên cứu

Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007 – 2009 đã chỉ ra rằng hành vi chấp nhận rủi ro gia tăng tại các ngân hàng thương mại có thể dẫn đến bất ổn trong hệ thống tài chính Đội ngũ quản trị ngân hàng được xem là một yếu tố quan trọng trong cuộc khủng hoảng này, và việc cải thiện hệ thống quản trị ngân hàng là cần thiết để kiềm chế hành vi chấp nhận rủi ro quá mức Hoạt động của ngân hàng phức tạp, đòi hỏi sự kiểm soát chặt chẽ từ cả đội ngũ quản trị và chính phủ Tổng tài sản của ngân hàng đến từ nhiều nguồn khác nhau, khiến việc kiểm soát chất lượng tài sản trở nên khó khăn Thông tin không rõ ràng về chất lượng tài sản có thể khuyến khích ngân hàng chấp nhận rủi ro quá mức Bảo hiểm tiền gửi không đủ cao cũng có thể dẫn đến rủi ro đạo đức Nghiên cứu cho thấy cơ chế quản trị doanh nghiệp thông qua hội đồng quản trị đóng vai trò quan trọng trong việc giám sát và kiểm soát rủi ro, đồng thời sự đa dạng trong hội đồng quản trị có thể nâng cao hiệu quả quản trị doanh nghiệp.

Sự đa dạng trong Hội đồng quản trị (HĐQT) đóng vai trò quan trọng, đến từ nhiều khía cạnh như kỹ năng, kinh nghiệm và đặc điểm nhân khẩu học của các thành viên Những yếu tố này không chỉ giúp cải thiện hiệu quả hoạt động của HĐQT thông qua việc đưa ra quyết định tốt hơn nhờ vào những quan điểm đa dạng (Walt và cộng sự, 2006), mà còn nâng cao tính độc lập trong suy nghĩ của các thành viên, từ đó thực hiện hiệu quả các chức năng tư vấn và giám sát (Adams và Ferreira, 2009).

Trong thời gian gần đây, nhiều nghiên cứu đã phân tích sự đa dạng trong hội đồng quản trị và rủi ro của các ngân hàng, tuy nhiên, vẫn còn thiếu các nghiên cứu đề cập đến khoảng cách giữa chủ tịch hội đồng quản trị và tổng giám đốc liên quan đến rủi ro ngân hàng Nghiên cứu của Adams và Ferreira (2007) đã chỉ ra tầm quan trọng của sự đa dạng trong việc quản lý rủi ro ngân hàng.

HĐQT đã cải thiện quy trình ra quyết định thông qua sự tương tác giữa các thành viên, nhưng xung đột nhận thức có thể ảnh hưởng đến hiệu quả của quyết định (Goergen và cộng sự, 2015) Sự khác biệt về nhân khẩu học trong HĐQT giúp đánh giá tốt hơn các vấn đề chiến lược trong ngân hàng (McPherson và cộng sự, 2001) Các đặc điểm nhân khẩu học cũng tác động lớn đến khả năng hiểu biết của HĐQT về tình huống quản lý và quyết định của họ (Hambrick và Mason, 1984) Sự tương đồng về kỹ năng, kinh nghiệm và nhân khẩu học trong HĐQT có thể dẫn đến ít xung đột và thiếu đa dạng quan điểm, trong khi sự đa dạng cao sẽ nâng cao chất lượng quyết định trong môi trường ngân hàng đặc thù (Forbes và Milliken).

Sự đa dạng về tuổi tác trong Hội đồng Quản trị (HĐQT) có vai trò quan trọng trong việc tương tác giữa các thành viên (Ferris và cộng sự, 1991) Các thành viên cùng thế hệ thường chia sẻ những sự kiện lịch sử và xu hướng xã hội tương tự, dẫn đến sự tương đồng trong tư duy và quản trị (Harrison và cộng sự, 1998) Khi Chủ tịch và Giám đốc điều hành (CEO) có cùng độ tuổi, khả năng xảy ra xung đột về nhận thức giảm, điều này có thể làm giảm hiệu quả giám sát của HĐQT Ngược lại, sự khác biệt về tuổi tác giữa Chủ tịch và CEO có thể tạo ra nhiều xung đột hơn, từ đó thúc đẩy HĐQT hoạt động độc lập và giám sát tốt hơn (Goergen và cộng sự, 2015) Tuy nhiên, nghiên cứu của Talavera và cộng sự (2018) lại không tìm thấy mối liên hệ giữa sự đa dạng về tuổi trong HĐQT và rủi ro ngân hàng tại Trung Quốc Gần đây, nghiên cứu của Zhou và cộng sự cũng tiếp tục khai thác vấn đề này.

Nghiên cứu năm 2019 cho thấy khoảng cách giữa Chair-CEO, đặc biệt là sự khác biệt về tuổi tác, có ảnh hưởng tích cực đến việc giảm rủi ro trong các ngân hàng Sự chênh lệch tuổi tác giữa hai vị trí này đóng vai trò quan trọng trong việc hạn chế rủi ro ngân hàng, chứng minh rằng việc có những quan điểm và kinh nghiệm khác nhau có thể giúp tăng cường sự ổn định tài chính.

Nghiên cứu của Bùi Văn Dương và Ngô Hoàng Điệp (2017) chỉ ra rằng sự đa dạng trong Hội đồng Quản trị (HĐQT), bao gồm trình độ, số lượng thành viên nữ và chuyên môn, có ảnh hưởng đáng kể đến lợi nhuận của các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Thêm vào đó, nghiên cứu của Hoàng Cẩm Trang và Võ Văn Nhị cũng góp phần làm rõ những yếu tố này.

Nghiên cứu năm 2014 chỉ ra rằng sự đa dạng trong Hội đồng quản trị (HĐQT), đặc biệt là số lượng thành viên nữ, có tác động tích cực đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn thiếu các nghiên cứu về khoảng cách giữa Chủ tịch và Tổng giám đốc (Chair-CEO) liên quan đến rủi ro trong lĩnh vực ngân hàng, đặc biệt là tại Việt Nam Mặc dù đã có nhiều nghiên cứu về sự đa dạng trong HĐQT và rủi ro, nhưng trong bối cảnh ngân hàng, số lượng nghiên cứu vẫn còn hạn chế Hệ thống ngân hàng có nhiều cấp giám sát, nhưng vai trò của Chair và CEO là rất quan trọng Sự khác biệt về khoảng cách giữa Chair và CEO, đặc biệt là về tuổi tác, có thể ảnh hưởng lớn đến thái độ và hành vi của họ Do đó, việc nghiên cứu mối quan hệ giữa khoảng cách Chair-CEO, sự đa dạng của HĐQT và rủi ro ngân hàng là cần thiết, dẫn đến việc thực hiện nghiên cứu “Tác động của đa dạng hóa hội đồng quản trị và khoảng cách giữa Chủ tịch hội đồng quản trị - Tổng giám đốc đến rủi ro của các NHTM”.

Mục tiêu nghiên cứu

Trong nghiên cứu này tác giả tập trung vào các mục tiêu chính gồm:

+ Đa dạng hóa HĐQT và khoảng cách giữa Chair-CEO tác động tích cực hay tiêu cực đến rủi ro của các NHTM

Để hạn chế rủi ro cho các ngân hàng thương mại (NHTM), cần đề xuất một số giải pháp và chính sách phù hợp với sự đa dạng hóa trong Hội đồng Quản trị (HĐQT) cũng như giảm thiểu khoảng cách giữa Chủ tịch và Giám đốc Điều hành (CEO) Việc này không chỉ nâng cao tính minh bạch và trách nhiệm trong quản lý, mà còn giúp tăng cường sự đồng thuận và hiệu quả trong quyết định chiến lược của ngân hàng.

Câu hỏi nghiên cứu

Để trả lời cho các mục tiêu trên, câu hỏi nghiên cứu của đề tài gồm:

+ Các yếu tố nào đại diện cho khoảng cách giữa Chair-CEO và đa dạng hóa HĐQT có ảnh hưởng đến rủi ro của các NHTM ?

+ Các chính sách, giải pháp nào là cần thiết để phát huy sự đa dạng của HĐQT và khoảng cách giữa Chair-CEO đến rủi ro của các NHTM ?

Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Nghiên cứu này tập trung vào tác động của sự đa dạng hóa trong hội đồng quản trị và khoảng cách giữa Chủ tịch hội đồng quản trị và Tổng giám đốc đối với rủi ro của các ngân hàng thương mại Việc hiểu rõ mối quan hệ này có thể giúp cải thiện quản trị và giảm thiểu rủi ro trong ngành ngân hàng.

Tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2017, Việt Nam có 31 ngân hàng thương mại cổ phần trong nước và 4 ngân hàng thương mại cổ phần do nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ Tuy nhiên, do sự cạnh tranh gay gắt, nợ xấu tồn đọng và hoạt động mua bán sáp nhập diễn ra phổ biến, số lượng ngân hàng có số liệu đầy đủ trong giai đoạn từ 2007 đến 2017 đã giảm đáng kể.

Theo Thông tư 52/2012/TT-BTC ngày 05/04/2012, 26 ngân hàng thương mại (NHTM) dưới sự chỉ đạo của Bộ Tài Chính đã thực hiện báo cáo và công bố thông tin định kỳ Điều này đảm bảo rằng nguồn số liệu của các NHTM này là đầy đủ, chất lượng tốt và có độ tin cậy cao.

- Phạm vi về thời gian: Nghiên cứu trong giai đoạn từ 2007 – 2017

Phương pháp nghiên cứu và dữ liệu nghiên cứu

Nghiên cứu thu thập và xử lý số liệu bằng phần mềm Excel, sau đó nhập vào Stata để phân tích hồi quy dữ liệu bảng Mục tiêu là xem xét tác động của đa dạng hóa Hội đồng quản trị và khoảng cách giữa Chủ tịch và Giám đốc điều hành đến rủi ro của các ngân hàng thương mại.

- Thống kê mô tả các biến: biến phụ thuộc, biến độc lập, biến kiểm soát

- Phân tích ma trận hệ số tương quan giữa các biến trong mô hình

- Kiểm tra hiện tượng: đa cộng tuyến, tự tương quan và phương sai thay đổi

Phân tích hồi quy dữ liệu bảng sử dụng các phương pháp ước lượng như ước lượng bình phương gộp nhỏ nhất (Pooled OLS), ước lượng tác động cố định (FEM) và ước lượng tác động ngẫu nhiên (REM) để xác định phương pháp phù hợp thông qua kiểm định Hausman Do mô hình hồi quy dữ liệu bảng có biến trễ, khả năng gặp phải các vấn đề như nội sinh và tự tương quan là cao, vì vậy nghiên cứu áp dụng phương pháp Moomen tổng quát dạng hệ thống (SGMM) để khắc phục những khuyết tật này và các vấn đề khác nếu phát sinh.

Nghiên cứu này sử dụng dữ liệu từ các báo cáo tài chính hợp nhất hàng năm của 26 ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn từ 2007 đến 2017 Dữ liệu được thu thập từ báo cáo tài chính và báo cáo thường niên, đảm bảo đã được kiểm toán và công bố công khai với Ngân hàng Nhà nước và Ủy ban Chứng khoán Nhà nước Để đảm bảo tính chính xác, nghiên cứu tuân thủ hai tiêu chí quan trọng: (1) thời gian nghiên cứu kéo dài 11 năm từ 2007 đến 2017 và (2) dữ liệu phải có tính liên tục tối thiểu 5 năm.

Ý nghĩa của nghiên cứu

Về lý thuyết: nghiên cứu sẽ kiểm định mối liên hệ giữa khoảng cách giữa Chair-CEO và đa dạng hóa của HĐQT đến rủi ro của các NHTM

Nghiên cứu cho thấy sự khác biệt giữa vị trí Chủ tịch và Giám đốc điều hành (Chair-CEO) có ảnh hưởng đến rủi ro của các ngân hàng thương mại (NHTM) Đồng thời, sự đa dạng hóa trong Hội đồng quản trị (HĐQT) đóng vai trò quan trọng trong việc giảm thiểu rủi ro cho các NHTM Dựa trên các kết quả này, bài viết đề xuất những kiến nghị phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả quản trị và giảm thiểu rủi ro cho các ngân hàng trong hệ thống.

NHTM Việt Nam để giảm thiểu rủi ro trong hoạt động góp phần đảm bảo sự phát triển ổn định của toàn bộ hệ thống ngân hàng.

Kết cấu của Luận văn

Nghiên cứu gồm 5 chương, cụ thể như sau:

Chương 1: Giới thiệu tổng quan về đề tài Ở chương này, tác giả trình bày lý do nghiên cứu, mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu và cấu trúc của đề tài

Chương 2: Cơ sở lý thuyết Chương này tác giả trình bày cơ sở lý thuyết và tổng quan các nghiên cứu trước đây về tác động của của khoảng cách giữa Chair-CEO cũng như sự đa dạng hóa của HĐQT lên rủi ro của các NHTM

Chương 3: Phương pháp nghiên cứu Chương này tác giả xây dựng mô hình và các giả thuyết, đồng thời trình bày các bước thực hiện mô hình

Chương 4: Kết quả nghiên cứu Chương này tác giả trình bày kết quả nghiên cứu và phân tích số liệu có được từ mô hình

Chương 5: Kết luận và kiến nghị Ở chương này tác giả tóm gọn kết quả chính của bài nghiên cứu đồng thời đưa ra những kiến nghị cho các NHTM

Trong chương 1, tác giả trình bày lý do chọn đề tài nghiên cứu, nhấn mạnh sự cần thiết của việc thực hiện nghiên cứu này thông qua việc tổng hợp ưu và nhược điểm của các nghiên cứu trước đây cũng như tình hình thực tế về hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại (NHTM), đặc biệt là vai trò của Hội đồng Quản trị (HĐQT) và Ban Giám đốc, bao gồm Chair và CEO Từ đó, tác giả phác thảo các mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu quan trọng, cùng với phương pháp thực hiện nghiên cứu Cuối cùng, tác giả giới thiệu tổng quát nội dung của 5 chương mà nghiên cứu sẽ triển khai.

CƠ SỞ LÝ THUYẾT

Hội đồng quản trị

Khái niệm về HĐQT trong ngân hàng được quy định cụ thể Điều 43, Luật các Tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 Cụ thể như sau:

HĐQT là cơ quan quản trị ngân hàng, có quyền quyết định và thực hiện các quyền, nghĩa vụ của ngân hàng, trừ những vấn đề thuộc thẩm quyền của Đại hội đồng cổ đông, chủ sở hữu hoặc thành viên góp vốn Điều này áp dụng cho các loại hình ngân hàng khác nhau như ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng thương mại nhà nước, và ngân hàng liên doanh.

HĐQT của ngân hàng phải có từ 03 đến 11 thành viên, với quy định cụ thể từ Điều lệ ngân hàng Ít nhất 50% tổng số thành viên phải là người không điều hành và bao gồm tối thiểu 02 thành viên độc lập, trong đó Chủ tịch có thể là thành viên độc lập Cá nhân và người có liên quan không được chiếm quá 1/3 tổng số thành viên HĐQT, điều này áp dụng cho ngân hàng thương mại cổ phần Đồng thời, số thành viên HĐQT chưa có bằng Đại học không được vượt quá 25% tổng số thành viên.

Nhiệm kỳ của Hội đồng quản trị (HĐQT) là 5 năm, và mỗi thành viên HĐQT không được quá 5 năm Các thành viên có thể được bầu hoặc bổ nhiệm lại không giới hạn số nhiệm kỳ Trong trường hợp có thành viên HĐQT mất tư cách, miễn nhiệm hoặc bị bãi nhiệm, nhiệm kỳ của thành viên bổ sung sẽ tương ứng với thời gian còn lại của nhiệm kỳ HĐQT HĐQT của nhiệm kỳ trước sẽ tiếp tục hoạt động cho đến khi HĐQT mới chính thức nhận nhiệm vụ.

Nếu số thành viên Hội đồng quản trị (HĐQT) giảm xuống dưới 1/3 hoặc không đủ số lượng tối thiểu theo quy định pháp luật, ngân hàng phải bổ sung đủ số lượng thành viên HĐQT trong vòng 60 ngày kể từ ngày không đủ.

HĐQT sử dụng con dấu ngân hàng để thực hiện nhiệm vụ của mình, và Thư ký HĐQT hỗ trợ HĐQT trong công việc Chức năng và nhiệm vụ của Thư ký HĐQT được quy định bởi HĐQT.

Hội đồng quản trị (HĐQT) cần thành lập các ủy ban để thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của mình, trong đó tối thiểu phải có hai ủy ban: ủy ban quản lý rủi ro và ủy ban nhân sự.

2.1.2 Nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng quản trị

Nhiệm vụ, quyền hạn HĐQT trong ngân hàng được quy định cụ thể tại Điều 59, 63, 128, Luật các Tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 Cụ thể như sau:

Chịu trách nhiệm triển khai thành lập và khai trương hoạt động của tổ chức tín dụng sau cuộc họp Đại hội đồng cổ đông đầu tiên, đồng thời phải báo cáo và chịu trách nhiệm trước Đại hội đồng cổ đông về việc thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn được giao Ngoài ra, cần trình Đại hội đồng cổ đông quyết định các vấn đề thuộc thẩm quyền theo quy định tại khoản 2 Điều 59 của Luật này, cũng như quyết định thành lập chi nhánh, văn phòng đại diện và đơn vị sự nghiệp.

Bài viết đề cập đến quy trình bổ nhiệm, miễn nhiệm, bãi nhiệm, kỷ luật và đình chỉ đối với các chức danh quan trọng như CEO, Phó Tổng giám đốc, Kế toán trưởng, Thư ký HĐQT, cũng như các vị trí trong bộ phận kiểm toán nội bộ và các quản lý, điều hành khác, theo quy định nội bộ của Hội đồng quản trị (HĐQT) Đồng thời, cũng nêu rõ việc quyết định mức lương và các lợi ích khác cho các chức danh này.

Thông qua việc góp vốn hoặc mua cổ phần tại doanh nghiệp, tổ chức tín dụng có thể sở hữu dưới 20% vốn điều lệ của tổ chức tín dụng, theo báo cáo tài chính đã được kiểm toán gần nhất Đồng thời, tổ chức tín dụng cần cử người đại diện cho phần vốn góp của mình tại doanh nghiệp hoặc tổ chức tín dụng khác.

Quyết định đầu tư và giao dịch mua, bán tài sản của tổ chức tín dụng phải đạt từ 10% trở lên so với vốn điều lệ được ghi trong báo cáo tài chính đã được kiểm toán gần nhất Tuy nhiên, các khoản đầu tư và giao dịch này sẽ không bao gồm những trường hợp được quy định tại điểm p khoản 2 Điều.

Theo quy định tại khoản 7 Điều 128 của Luật này, việc quyết định các khoản cấp tín dụng sẽ được thực hiện, ngoại trừ các giao dịch thuộc thẩm quyền của Đại hội đồng cổ đông theo điểm q khoản 2 Điều 59.

Các hợp đồng giữa tổ chức tín dụng và công ty con, công ty liên kết, cũng như các hợp đồng với thành viên HĐQT, Ban kiểm soát, CEO, cổ đông lớn và người có liên quan, chỉ có giá trị bằng hoặc nhỏ hơn 20% vốn điều lệ ghi trong báo cáo tài chính đã được kiểm toán gần nhất, hoặc tỷ lệ thấp hơn theo quy định của Điều lệ tổ chức tín dụng Trong những trường hợp này, các thành viên có liên quan sẽ không được quyền biểu quyết.

- Kiểm tra, giám sát, chỉ đạo CEO thực hiện nhiệm vụ được phân công; đánh giá hằng năm về hiệu quả làm việc của CEO

Các tổ chức tín dụng cần ban hành quy định nội bộ phù hợp với các quy định của Luật và pháp luật liên quan, ngoại trừ những vấn đề thuộc thẩm quyền của Ban kiểm soát hoặc Đại hội đồng cổ đông.

Quyết định về chính sách quản lý rủi ro và giám sát thực thi các biện pháp phòng ngừa rủi ro của tổ chức tín dụng là rất quan trọng Đồng thời, việc xem xét và phê duyệt báo cáo thường niên cũng đóng vai trò then chốt trong quá trình này.

Lựa chọn một tổ chức định giá chuyên nghiệp là cần thiết để thực hiện việc định giá tài sản góp vốn không phải là tiền Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi và vàng, theo quy định của pháp luật.

- Đề nghị Thống đốc Ngân hàng Nhà nước chấp thuận các vấn đề theo quy định của pháp luật

Tổng giám đốc

2.2.1 Khái niệm về Tổng giám đốc Điều hành hoạt động Ngân hàng là Tổng giám đốc, giúp việc cho CEO có một số phó Tổng giám đốc, Kế toán trưởng và bộ máy chuyên môn, nghiệp vụ

HĐQT sẽ bổ nhiệm một thành viên trong số mình hoặc một cá nhân khác làm CEO, đồng thời ký kết hợp đồng lao động quy định rõ mức lương, chế độ bồi thường, quyền lợi và các điều khoản liên quan đến vị trí CEO.

CEO là người chịu trách nhiệm trước HĐQT, trước pháp luật về việc điều hành hoạt động của ngân hàng

Nhiệm kỳ của CEO là 03 năm, trừ khi HĐQT có quy định khác CEO có thể được tái bổ nhiệm, và việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, bãi nhiệm hoặc từ chức của CEO phải tuân thủ theo Luật CTCTD và quy định của NHNN Hợp đồng lao động cũng quy định các điều kiện có thể làm cho việc bổ nhiệm CEO hết hiệu lực Đặc biệt, những cá nhân bị cấm giữ chức vụ này không được phép đảm nhiệm vị trí CEO.

CEO không được đảm nhận bất kỳ vị trí quản lý, kiểm soát hay điều hành nào tại tổ chức tín dụng hoặc công ty khác, ngoại trừ trường hợp là công ty con của ngân hàng Trong trường hợp này, CEO chỉ được giữ chức danh quản lý hoặc kiểm soát tại công ty trực thuộc đó.

2.2.2 Nhiệm vụ, quyền hạn của Tổng giám đốc

CEO là người đại diện pháp luật của Ngân hàng, có quyền hạn và nhiệm vụ như sau:

- Tổ chức thực hiện nghị quyết, quyết định của Đại hội cổ đông, HĐQT

- Quyết định các vấn đề thuộc thẩm quyền liên quan đến hoạt động kinh doanh hằng ngày của ngân hàng

- Thiết lập, duy trì hệ thống kiểm soát nội bộ hoạt động có hiệu quả

HĐQT có trách nhiệm lập và trình báo cáo tài chính để cấp có thẩm quyền phê duyệt HĐQT cũng phải đảm bảo tính chính xác và trung thực của báo cáo tài chính, báo cáo thống kê, số liệu quyết toán và các thông tin tài chính khác.

Ban hành quy chế và quy định nội bộ theo thẩm quyền là cần thiết để thiết lập quy trình và thủ tục tác nghiệp, nhằm đảm bảo hệ thống điều hành kinh doanh và hệ thống thông tin báo cáo hoạt động hiệu quả.

Báo cáo hoạt động và kết quả kinh doanh của tổ chức tín dụng cần được gửi đến HĐQT, Ban kiểm soát, Đại hội cổ đông và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Trong trường hợp thiên tai, dịch họa hoặc sự cố, cần quyết định áp dụng biện pháp vượt thẩm quyền và chịu trách nhiệm về quyết định đó Đồng thời, việc kịp thời báo cáo cho Hội đồng quản trị là rất quan trọng.

- Kiến nghị, đề xuất cơ cấu tổ chức và hoạt động của ngân hàng trình HĐQT hoặc Đại hội cổ đông quyết định theo thẩm quyền

- Đề nghị HĐQT họp bất thường theo quy định của pháp luật

Bổ nhiệm, miễn nhiệm và bãi nhiệm các chức danh quản lý, điều hành của ngân hàng được thực hiện, ngoại trừ các chức danh thuộc thẩm quyền quyết định của Đại hội cổ đông và Hội đồng quản trị.

Ký kết hợp đồng nhân danh ngân hàng phải tuân thủ Điều lệ và quy định nội bộ Các quyết định không cần nghị quyết của HĐQT bao gồm việc đại diện ngân hàng ký hợp đồng tài chính và thương mại, cũng như tổ chức và điều hành hoạt động kinh doanh hàng ngày theo những thông lệ quản lý tốt nhất.

- Kiến nghị phương án sử dụng lợi nhuận, xử lý lỗ trong kinh doanh của ngân hàng

- Tuyển dụng lao động, quyết định lương, thưởng của người lao động theo thẩm quyền

- Các quyền và nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật.

Rủi ro của các ngân hàng thương mại

2.3.1 Khái niệm về các loại rủi ro

Theo Koch và MacDonald (2009, trang 108), rủi ro ngân hàng được phân loại thành 6 loại chính: rủi ro thanh khoản (RRTK), rủi ro tín dụng (RRTD), rủi ro thị trường (RRTT), rủi ro hoạt động (RRHĐ), rủi ro danh tiếng (RRDT) và rủi ro pháp lý (RRPL) Mỗi loại rủi ro này có những đặc điểm riêng biệt mà cần được nhận diện và quản lý hiệu quả để đảm bảo sự ổn định của hệ thống ngân hàng.

Rủi ro thanh khoản (RRTK) được định nghĩa bởi Theo Duttweiler (2008) là tình trạng mà ngân hàng thương mại (NHTM) không thể thực hiện nghĩa vụ thanh toán vào một thời điểm nhất định, hoặc phải huy động vốn với chi phí cao để đáp ứng nhu cầu thanh toán Ngoài ra, RRTK cũng có thể phát sinh từ các nguyên nhân chủ quan khác, dẫn đến việc mất khả năng thanh toán của NHTM, từ đó gây ra những hậu quả không mong muốn.

Theo Thông tư 02/2013/TT-NHTN, rủi ro tín dụng (RRTD) trong hoạt động ngân hàng được định nghĩa là tổn thất có khả năng xảy ra đối với nợ của tổ chức tín dụng hoặc chi nhánh ngân hàng nước ngoài do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ theo cam kết RRTD chủ yếu xảy ra trong quá trình cho vay, khi khoản vay không được hoàn trả đúng hạn hoặc không đủ vốn và lãi Rủi ro này cũng liên quan đến các hoạt động như chiết khấu công cụ chuyển nhượng, giấy tờ có giá và cho thuê tài chính, đồng thời ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của ngân hàng.

Theo Thông tư 08/2017/TT-NHNN, rủi ro tài chính (RRTT) được định nghĩa là rủi ro phát sinh từ sự biến động bất lợi của lãi suất, tỷ giá, giá chứng khoán và giá hàng hóa trên thị trường RRTT bao gồm rủi ro hoạt động (RRHĐ) và rủi ro đầu tư (RRDT), được quy định cụ thể tại Khoản 27 Điều 2 Thông tư 41/2016/TT-NHNN.

Rủi ro hoạt động (RRHĐ) là những tổn thất tài chính và tác động tiêu cực phi tài chính đối với ngân hàng, bao gồm cả rủi ro pháp lý, phát sinh từ quy trình nội bộ không đầy đủ hoặc có sai sót, yếu tố con người, lỗi hệ thống hoặc yếu tố bên ngoài Theo Khoản 28 Điều 2 Thông tư 41/2016 TT-NHNN, rủi ro danh tiếng (RRDT) xảy ra khi khách hàng, đối tác, cổ đông, nhà đầu tư hoặc công chúng có phản ứng tiêu cực đối với uy tín của ngân hàng hoặc chi nhánh ngân hàng nước ngoài.

Theo nghiên cứu của Theo Santomero và cộng sự (1977), RRPL được định nghĩa là rủi ro phát sinh từ các vấn đề pháp lý liên quan đến hợp đồng tài chính Những thay đổi về quy định, thuế suất, phán quyết của tòa án và các luật lệ khác có thể tác động đến khả năng thực hiện giao dịch của ngân hàng.

Ngành ngân hàng đóng vai trò trung gian tài chính quan trọng trong phát triển kinh tế, vì vậy tính ổn định và hiệu quả của ngành này được chú trọng để đạt được tăng trưởng kinh tế cao và ứng phó với khủng hoảng Rủi ro tín dụng (RRTD) được xem là loại rủi ro quan trọng nhất trong ngân hàng, chiếm tới 84.9% tổng các nhân tố rủi ro (Bangladesh Bank, 2014) Nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng tăng trưởng tín dụng kèm theo chất lượng tín dụng thấp và quản trị RRTD không hiệu quả là nguyên nhân chính dẫn đến khủng hoảng tài chính (Chaplinska, 2012; Gropp và Heider, 2010) Nhằm ứng phó với tác động của RRTD, ủy ban Basel đã đưa ra các yêu cầu nghiêm ngặt hơn trong Basel II và Basel III Nghiên cứu này sẽ tập trung vào RRTD như một loại rủi ro ngân hàng chủ yếu, phản ánh rõ nét hoạt động của ngành ngân hàng.

2.3.2 Các loại rủi ro tín dụng

RRTD (Rủi ro tín dụng) xuất phát từ khả năng không trả nợ đúng hạn của người vay, là rủi ro cơ bản có thể ảnh hưởng đến các ngân hàng thương mại (NHTM) Dự báo RRTD là cần thiết để NHTM đưa ra quyết định tín dụng chính xác và chủ động trong xử lý rủi ro Các công ty như S&P, Moody's, và FitchRatings cung cấp thông tin về RRTD, trong khi nhiều NHTM tự xây dựng hệ thống đánh giá hoặc tuyển dụng chuyên viên phân tích RRTD Mục tiêu cuối cùng là xác định chính xác RRTD để có biện pháp xử lý hiệu quả, đồng thời cân nhắc lợi ích và chi phí Theo tiêu chuẩn Basel II, NHTM có thể đo lường RRTD qua ba phương pháp: Phương pháp chuẩn hóa, Phương pháp xếp hạng tín nhiệm nội bộ cơ bản (Foundation IRB), và Phương pháp xếp hạng tín nhiệm nội bộ cải tiến (Advanced IRB) Phương pháp chuẩn hóa sử dụng bảng xếp hạng tín nhiệm từ bên ngoài, trong khi hai phương pháp còn lại cho phép NHTM tự xây dựng hệ thống xếp hạng tín nhiệm nội bộ để đánh giá khả năng vỡ nợ (PD) và các chỉ số khác như EAD và LGD nhằm tính toán tài sản có rủi ro trung bình (RWA).

Hiện nay, nhiều ngân hàng thương mại (NHTM) trên thế giới sử dụng phương pháp chuẩn hóa để đánh giá rủi ro tín dụng (RRTD) của khách hàng trong các khoản tín dụng Rủi ro tập trung xảy ra khi NHTM tập trung danh mục tín dụng vào một doanh nghiệp, ngành hoặc khu vực cụ thể, dẫn đến khó khăn trong việc thu hồi nợ khi gặp rủi ro Ngoài ra, rủi ro quốc gia cũng ảnh hưởng đến khả năng thu hồi nợ khi các quốc gia ra lệnh cấm chi trả cho chủ nợ nước ngoài Tại Việt Nam, các NHTM thường áp dụng phương pháp xếp hạng tín nhiệm nội bộ để đánh giá khách hàng, tuy nhiên, hiệu quả dự báo vẫn còn nhiều hạn chế Do đó, cần thiết phải phát triển các chỉ tiêu dự báo RRTD của khách hàng một cách hiệu quả và nhanh chóng.

2.3.3 Chỉ số đo lường rủi ro tín dụng

Trong bối cảnh doanh nghiệp gặp khó khăn tài chính, khả năng thanh toán nợ đến hạn, đặc biệt với các ngân hàng thương mại, trở nên nghiêm trọng hơn Nhiều loại rủi ro như rủi ro pháp lý, lãi suất, tỷ giá, lạm phát, tín dụng, thanh khoản, quản trị và đầu tư có thể dẫn đến tình trạng này, với hậu quả nghiêm trọng nhất là phá sản Phá sản không chỉ ảnh hưởng đến chủ sở hữu mà còn tác động đến người lao động, cơ quan thuế, đối tác và thị trường, trong đó ngân hàng thương mại là bên chịu tổn thất lớn Để phát hiện sớm rủi ro, việc tìm kiếm công cụ nhận diện dấu hiệu phá sản là rất quan trọng Chỉ số Z của Altman, được phát triển vào năm 1968 bởi giáo sư Edward I Altman, là một trong những công cụ được công nhận rộng rãi trong nghiên cứu tài chính doanh nghiệp, với khả năng áp dụng hiệu quả tại nhiều quốc gia.

Rủi ro phá sản (Z_score) xuất phát từ các nguyên nhân như chính sách lãi suất không hợp lý và khả năng quản lý của các ngân hàng Cơ sở lý luận của Z_score được xây dựng dựa trên nghiên cứu của Roy (1952), đo lường tình trạng mất khả năng thanh toán, xảy ra khi tổn thất vượt quá vốn chủ sở hữu ngân hàng Rủi ro phá sản có thể được biểu diễn dưới dạng xác suất (E/TA < ).

ROA (tỷ suất lợi nhuận trên tài sản) và E TA (tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tài sản) là hai chỉ số quan trọng để đánh giá sức khỏe tài chính của ngân hàng Z_score, được định nghĩa là nghịch đảo của xác suất phá sản, phản ánh mức độ ổn định và lành mạnh của ngân hàng Chỉ số Z_score đã được áp dụng rộng rãi trong các nghiên cứu của Berger và cộng sự (2009) cũng như Cihak và Hesse, góp phần vào việc phân tích và đánh giá tình hình tài chính của các tổ chức tín dụng.

Z_score là chỉ số kết hợp giữa tỷ lệ vốn chủ sở hữu và lợi nhuận, đồng thời xem xét các rủi ro mà ngân hàng phải đối mặt, được đo bằng độ lệch chuẩn của lợi nhuận Chỉ số Z_score càng cao cho thấy khả năng xảy ra mất thanh khoản càng thấp, tức là ngân hàng có mức độ rủi ro càng ít Công thức tính Z_score được áp dụng để đánh giá sức khỏe tài chính của ngân hàng.

ROAA, hay Tỉ suất lợi nhuận trên tổng tài sản trung bình, được tính bằng cách chia lợi nhuận trước thuế cho tổng tài sản trung bình của hai năm liên tiếp Độ lệch chuẩn của ROAA phản ánh sự biến động của tỉ suất sinh lợi trên tài sản trung bình.

E / TA là Tỉ lệ vốn chủ trên tổng tài sản trung bình

Trong quá trình tính toán Z_score, nghiên cứu sử dụng logarit tự nhiên của Z_score để kiểm soát vấn đề lệch dữ liệu, dựa trên nghiên cứu của Võ Xuân Vinh và Đặng Bửu Kiếm (2016) Chỉ số Z_score phản ánh rủi ro của các ngân hàng thương mại (NHTM) trong hoạt động điều chỉnh theo lợi nhuận, tuy nhiên, sự cạnh tranh gay gắt đã thúc đẩy NHTM tìm kiếm nguồn thu nhập phi lãi từ dịch vụ, bất động sản, cổ phiếu và các công ty con Mặc dù điều này giúp đa dạng hóa hoạt động và tăng nguồn thu, nhưng nếu ban giám đốc và CEO thiếu kinh nghiệm trong các lĩnh vực mới, lợi nhuận có thể giảm Để làm rõ khía cạnh này và khẳng định vai trò của Chair-CEO, nghiên cứu đề xuất thêm biến phụ thuộc là tỷ số lợi nhuận trên tổng tài sản trung bình (ROAA), đại diện cho khả năng sinh lời của ngân hàng, được xác định bằng tổng lợi nhuận trước thuế trên tổng tài sản trung bình hai năm liên tiếp (Lee và cộng sự, 2014; Võ Xuân Vinh và Trần Thị Phương Mai, 2015).

Lý thuyết về khoảng cách giữa chủ tịch hội đồng quản trị và giám đốc điều hành

Thuyết đại diện ra đời vào những năm 1970, trong bối cảnh nền kinh tế thế giới phát triển mạnh mẽ, yêu cầu lý thuyết để nghiên cứu mối quan hệ giữa cổ đông và giám đốc điều hành Jensen và Meckling (1976) cho rằng mối quan hệ này giống như một hợp đồng, trong đó cổ đông ủy quyền cho giám đốc thực hiện nghĩa vụ quản lý và ra quyết định cho công ty Dù cả hai bên đều muốn tối đa hóa lợi ích, nhưng không có gì đảm bảo rằng giám đốc sẽ luôn hành động vì lợi ích của cổ đông Để giảm thiểu rủi ro, cổ đông thường phải chi phí giám sát nhằm hạn chế tổn hại từ hành động của giám đốc điều hành.

Mục tiêu của cổ đông và giám đốc không giống nhau, dẫn đến bất cân xứng thông tin, gây khó khăn cho cổ đông trong việc xác minh hành động của giám đốc điều hành Eisenhardt (1989) cho rằng cần tách biệt quyền kiểm soát và quyền quản lý để hạn chế quyền lực của người ra quyết định, bảo vệ lợi ích của cổ đông Fama và Jensen (1983) đề xuất cổ đông nên thành lập hội đồng quản trị để giám sát hoạt động của giám đốc, đảm bảo mọi hành động đều vì lợi ích công ty Điều này khẳng định vai trò quan trọng của hội đồng quản trị như một hệ thống thông tin giúp cổ đông theo dõi hành vi của giám đốc Johnson (1996) đã chỉ ra ba vai trò chính của hội đồng quản trị.

Việc giám sát hoạt động của ban giám đốc điều hành và tham gia xây dựng chiến lược kinh doanh là rất quan trọng để nâng cao giá trị công ty Sự giám sát chặt chẽ giúp hội đồng quản trị giảm chi phí đại diện, từ đó tăng hiệu quả hoạt động Giám đốc điều hành, với vai trò quyết định trong các hoạt động công ty, cùng với chủ tịch hội đồng quản trị, có thể tạo ra xung đột khi có sự khác biệt về nhân khẩu học như tuổi tác và giới tính Tuổi tác, một yếu tố quan trọng trong việc phân loại nhóm, ảnh hưởng đến hành vi giao tiếp, ra quyết định và thiết lập mối quan hệ xã hội trong tổ chức Các thành viên cùng độ tuổi có khả năng chia sẻ kinh nghiệm và quan điểm tương tự, nhờ vào việc trải qua những sự kiện lịch sử và thay đổi xã hội chung, đặc biệt là trong các giai đoạn khủng hoảng kinh tế.

Ảnh hưởng của hội đồng quản trị và tổng giám đốc đến rủi ro

2.5.1 Vai trò của nhà quản trị trong hoạt động của doanh nghiệp

Sự thành công của một công ty phụ thuộc vào nỗ lực của từng cá nhân, trong đó CEO đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển Tuy nhiên, những quyết định sai lầm của CEO có thể dẫn đến tổn thất nghiêm trọng nếu họ ưu tiên lợi ích cá nhân hơn lợi ích chung Điều này đặt ra câu hỏi về khả năng phát triển bền vững của công ty Để quản lý hành vi của CEO, Hội đồng quản trị cần đầu tư nhiều công sức và tài chính.

Theo Luật Doanh Nghiệp 2014, CEO phải chịu trách nhiệm cá nhân hoặc liên đới trước các thành viên về hành động của mình nhân danh công ty Các nhà quản lý thường điều hành doanh nghiệp theo cách riêng, thiếu siêng năng và mẫn cán, dẫn đến việc họ lợi dụng vị trí để thu lợi ích cá nhân thay vì phục vụ cho cổ đông và công ty Trong quá trình mở rộng hoạt động kinh doanh, nhà quản lý sử dụng tiền để củng cố vị trí và quyền lực của mình, đồng thời nhận chế độ đãi ngộ, lương thưởng và trợ cấp cao, tạo gánh nặng chi phí cho cổ đông và doanh nghiệp.

Trong môi trường doanh nghiệp, các nhà quản lý có thể tham gia vào các khoản đầu tư mạo hiểm nhằm thu lợi ngắn hạn Theo lý thuyết đại diện của Alchian và Demsetz (1975), để đảm bảo hoạt động của doanh nghiệp diễn ra hiệu quả, cần thiết lập cơ chế đãi ngộ hợp lý cho nhà quản lý và thiết lập cơ chế giám sát hiệu quả nhằm hạn chế hành vi tư lợi Điều này cho thấy vai trò quyết định của nhà quản lý trong việc định hình sự phát triển hoặc thất bại của doanh nghiệp.

2.5.2 Mối quan hệ giữa sự đa dạng của hội đồng quản trị và rủi ro

Gần đây, nghiên cứu về mối quan hệ giữa sự đa dạng của Hội đồng Quản trị (HĐQT) và rủi ro ngân hàng đã gia tăng đáng kể Một số nghiên cứu chỉ ra rằng số lượng thành viên HĐQT có ảnh hưởng tích cực đến hiệu quả hoạt động ngân hàng (García-Meca và cộng sự, 2015), trong khi những nghiên cứu khác lại phát hiện mối quan hệ ngược chiều hoặc không có mối liên hệ rõ ràng (Pathan và Faff, 2013; Minton và cộng sự, 2014) Các ngân hàng với HĐQT đông thành viên thường có khả năng giám sát Ban Giám đốc tốt hơn, từ đó giảm thiểu rủi ro hoạt động Tuy nhiên, trong cuộc khủng hoảng tài chính 2007-2009, các ngân hàng có HĐQT lớn lại được cho là có rủi ro cao hơn (Battaglia và Gallo, 2015), trong khi trước khủng hoảng, quy mô HĐQT lại có mối quan hệ ngược chiều với rủi ro ngân hàng (Faleye và Krishnan, 2015).

Rủi ro ngân hàng, đặc biệt là rủi ro tín dụng, có thể bị ảnh hưởng bởi sự đa dạng của Hội đồng quản trị (HĐQT) về giới tính, năng lực, số lượng thành viên độc lập và tuổi tác Nghiên cứu của Berger và cộng sự (2014) cho thấy rằng ngân hàng có tỷ lệ thành viên nữ cao trong HĐQT thường gặp nhiều rủi ro tín dụng hơn, trong khi nghiên cứu của Muller-Kahle và cộng sự (2011) lại chỉ ra rằng sự gia tăng thành viên nữ có thể giảm nợ xấu trước khủng hoảng tài chính Năng lực của HĐQT, thể hiện qua kinh nghiệm, chuyên môn và trình độ học vấn, có ảnh hưởng đáng kể đến rủi ro ngân hàng (Srivastav và Hagendorff, 2016) HĐQT cần có chuyên môn và kinh nghiệm để thực hiện tốt vai trò tư vấn và giám sát rủi ro (Jermiasa và Gani, 2014) Nghiên cứu chỉ ra rằng HĐQT với bằng cấp cao như Tiến sĩ có khả năng giảm rủi ro về danh mục cho vay (Berger và cộng sự, 2014), trong khi thiếu chuyên môn tài chính có thể làm tăng rủi ro (Hau và Thum, 2009) Tuy nhiên, một số nghiên cứu cũng cho rằng chuyên môn tài chính có thể dẫn đến rủi ro cao hơn do HĐQT có thể đánh giá các chính sách rủi ro có lợi cho cổ đông, làm tăng rủi ro trong hoạt động ngân hàng (IMF, 2014).

Các thành viên độc lập trong Hội đồng Quản trị (HĐQT) đóng vai trò quan trọng trong việc giám sát hiệu quả hoạt động của ngân hàng, nhờ vào uy tín và khả năng giảm thiểu xung đột lợi ích với các thành viên khác Tuy nhiên, mối liên hệ giữa số lượng thành viên độc lập và rủi ro ngân hàng vẫn chưa được chứng minh rõ ràng Một số nghiên cứu chỉ ra rằng HĐQT đông thành viên có thể dẫn đến việc ngân hàng chấp nhận rủi ro cao hơn, trong khi các nghiên cứu khác lại cho thấy kết quả ngược lại hoặc không có mối liên hệ rõ ràng.

Tuổi tác của các thành viên HĐQT là yếu tố nhân khẩu học quan trọng, ảnh hưởng đến thái độ và hành vi đầu tư của họ Nghiên cứu cho thấy, khi tuổi tác tăng lên, khả năng chấp nhận rủi ro của cá nhân giảm (Bucciol và Miniaci, 2011) Các thành viên HĐQT lớn tuổi thường có nhiều kinh nghiệm về rủi ro từ những thăng trầm trong sự nghiệp, trong khi những người trẻ tuổi lại thiếu kinh nghiệm và dễ mắc sai lầm (Agarwal và cộng sự, 2009) HĐQT có nhiều thành viên trẻ thường chấp nhận các danh mục đầu tư rủi ro hơn, vì họ được khuyến khích tìm kiếm lợi nhuận cao cho ngân hàng (Berger, 2009).

2.5.3 Mối quan hệ giữa khoảng cách Chair-CEO với rủi ro

Theo Forbes và Milliken (1999), để đảm bảo hiệu quả của Hội đồng Quản trị (HĐQT), các thành viên cần độc lập về tư duy và nhận thức, cho phép các quan điểm khác nhau xuất hiện và các quyết định được xem xét kỹ lưỡng Tuy nhiên, sự tương đồng về nhân khẩu học, đặc biệt là tuổi tác giữa Chair và CEO, có thể hạn chế tính độc lập này, như McPherson và cộng sự (2001) đã chỉ ra Việc tương đồng này dẫn đến sự đồng thuận trong phản hồi, làm giảm sự bất đồng và có thể dẫn đến quản trị doanh nghiệp kém hiệu quả, như nghiên cứu của Fracassi và Tate (2012) cũng như Lee và cộng sự (2014) đã xác nhận Thêm vào đó, khi Chair-CEO có đặc điểm nhân khẩu học tương tự, CEO thường nhận lương cao hơn (Westphal và Zajac, 1995a) Ngược lại, sự khác biệt về tuổi giữa Chair và CEO có thể gia tăng hiệu quả giám sát của HĐQT, tạo ra mâu thuẫn và yêu cầu CEO cung cấp thông tin chi tiết hơn để thuyết phục Chair Điều này không chỉ tăng tính minh bạch mà còn dẫn đến sự giám sát chặt chẽ hơn từ Chair và HĐQT đối với hoạt động của CEO và Ban Giám đốc.

Các nghiên cứu đi trước

Nghiên cứu về tác động của đa dạng hóa Hội đồng Quản trị (HĐQT) đến hiệu quả hoạt động của các Ngân hàng Thương mại (NHTM) đã được thực hiện bởi nhiều tác giả nước ngoài Các nghiên cứu này chỉ ra rằng sự đa dạng trong HĐQT không chỉ cải thiện khả năng ra quyết định mà còn nâng cao hiệu suất và sự đổi mới trong các tổ chức ngân hàng.

Nghiên cứu của García-Meca và cộng sự (2014) đã chỉ ra ảnh hưởng của sự đa dạng trong Hội đồng Quản trị (HĐQT), bao gồm giới tính và quốc tịch, đến hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại (NHTM) trong giai đoạn 2004-2010, với mẫu nghiên cứu gồm 159 ngân hàng từ 9 quốc gia Các biến độc lập được sử dụng để đại diện cho sự đa dạng của HĐQT bao gồm tỷ lệ thành viên nữ, tỷ lệ thành viên người nước ngoài, quy mô HĐQT, tỷ lệ thành viên độc lập và số lượng cuộc họp hàng năm.

Nghiên cứu cho thấy sự đa dạng trong Hội đồng Quản trị (HĐQT) của các Ngân hàng Thương mại (NHTM) có ảnh hưởng tích cực đến hiệu quả hoạt động Cụ thể, tỷ lệ thành viên nữ, tỷ lệ thành viên người nước ngoài, quy mô HĐQT, tỷ lệ thành viên độc lập và số lượng cuộc họp hàng năm đều là những yếu tố quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả quản trị và hoạt động của NHTM.

Nghiên cứu của Talavera và cộng sự (2018) phân tích ảnh hưởng của sự đa dạng trong Hội đồng Quản trị (HĐQT) đối với lợi nhuận và rủi ro của 97 ngân hàng tại Trung Quốc trong giai đoạn 2009 – 2013 Nghiên cứu xem xét các khía cạnh đa dạng như tuổi tác, quy mô HĐQT, sự kiêm nhiệm chức vụ CEO của Chủ tịch, tỷ lệ thành viên độc lập, thành viên nước ngoài và thành viên nữ Kết quả cho thấy sự đa dạng về tuổi tác có ảnh hưởng tiêu cực đến lợi nhuận và rủi ro ngân hàng, gây ra xung đột trong giao tiếp và nhận thức, dẫn đến hoạt động không hiệu quả Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng hiệu quả hoạt động của HĐQT phụ thuộc vào mức độ tương tác giữa các thành viên Thêm vào đó, tác động của khoảng cách giữa Chủ tịch và CEO đến hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại đã được nhiều nghiên cứu nước ngoài khám phá.

Nghiên cứu của Serfling (2014) trên 2,356 công ty từ năm 1992 đến 2010 chỉ ra rằng khi CEO lớn tuổi, hành vi chấp nhận rủi ro của họ giảm, dẫn đến mối quan hệ ngược giữa tuổi tác và biến động lợi nhuận cổ phiếu CEO lớn tuổi thường ít gặp rủi ro trong các chính sách đầu tư, tập trung vào quản lý các công ty đa dạng và duy trì đòn bẩy tài chính thấp, thay vì đầu tư vào nghiên cứu và phát triển rủi ro Đặc biệt, rủi ro doanh nghiệp được giảm thiểu khi CEO và Chủ tịch đều lớn tuổi Nghiên cứu nhấn mạnh mối liên hệ giữa tuổi của CEO, hành vi chấp nhận rủi ro và hiệu quả hoạt động doanh nghiệp.

Nghiên cứu của Goergen và cộng sự (2015) về mối quan hệ giữa Chair- CEO với hiệu quả động của các doanh nghiệp tại Đức trong giai đoạn từ 2005-

Nghiên cứu năm 2010 với 172 doanh nghiệp đã phân tích mối quan hệ giữa Chủ tịch và Giám đốc điều hành (CEO) thông qua các yếu tố như khoảng cách tuổi, chênh lệch tuổi và đặc điểm cá nhân Kết quả cho thấy rằng khoảng cách tuổi giữa Chủ tịch và CEO ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, với những khác biệt về tuổi dẫn đến xung đột nhận thức, từ đó thúc đẩy giám sát chặt chẽ hơn trong quản lý Ngoài ra, đặc điểm của CEO cũng đóng vai trò quan trọng Nghiên cứu khuyến nghị không nên áp đặt quy định chung về độ tuổi cho các thành viên trong Hội đồng quản trị và Ban Giám đốc.

Nghiên cứu của Zhou và cộng sự (2019) về khoảng cách giữa Chair-CEO với rủi ro của các ngân hàng trên 100 ngân hàng tại khu vực Châu Âu từ 2005-

Nghiên cứu năm 2014 chỉ ra rằng khoảng cách giữa Chair và CEO, được đo bằng các biến như chênh lệch tuổi và giới tính, có ảnh hưởng đến rủi ro của các ngân hàng thương mại Các yếu tố như kinh nghiệm và nhiệm kỳ của Chair và CEO cũng được xem xét, cho thấy sự đa dạng trong hội đồng quản trị (HĐQT) có thể tạo ra xung đột về nhận thức, từ đó nâng cao tính độc lập và hiệu quả giám sát Đặc biệt, sự khác biệt về tuổi giữa Chair và CEO là yếu tố nhân khẩu học quan trọng, với khoảng cách ít nhất 20 năm giúp giảm thiểu rủi ro trong hoạt động ngân hàng.

Các nghiên cứu trong nước về sự đa dạng hóa trong Hội đồng Quản trị (HĐQT) và rủi ro hoạt động của ngân hàng còn hạn chế Đặc biệt, chưa có nghiên cứu nào tập trung vào mối quan hệ giữa khoảng cách giữa Chủ tịch và Giám đốc điều hành (CEO) với rủi ro hoạt động của các ngân hàng.

Nghiên cứu của Bùi Văn Dương và Ngô Hoàng Điệp (2017) phân tích tác động của các yếu tố như HĐQT, quy mô công ty, đòn bẩy tài chính và ROA đến hành vi quản trị lợi nhuận dựa trên cơ sở dồn tích Kết quả cho thấy, kích thước HĐQT, tỷ lệ thành viên có chuyên môn tài chính và tỷ lệ thành viên nữ trong HĐQT có mối quan hệ tích cực với dồn tích bất thường (DA), trong khi quy mô doanh nghiệp, đòn bẩy tài chính và ROA lại có mối quan hệ tiêu cực với DA Hơn nữa, mô hình kiêm nhiệm chức danh Chair và CEO, tỷ lệ thành viên HĐQT độc lập không điều hành, cũng như số lần họp HĐQT không ảnh hưởng đến hành vi quản trị lợi nhuận Nghiên cứu dựa trên dữ liệu tài chính của 430 công ty phi tài chính niêm yết tại Việt Nam trong giai đoạn 2010-2015.

Nghiên cứu của Hoàng Cẩm Trang và Võ Văn Nhị (2014) phân tích ảnh hưởng của thành viên nữ trong Hội đồng Quản trị (HĐQT) đến hiệu quả hoạt động của 100 công ty niêm yết tại Sở Giao dịch Chứng khoán Tp.HCM và Hà Nội, đại diện cho 89,74% tổng giá trị vốn hóa thị trường Việt Nam vào cuối năm 2013 Kết quả cho thấy tỷ lệ phụ nữ trong HĐQT có mối quan hệ tích cực với hiệu quả hoạt động của công ty dựa trên giá trị thị trường, nhưng không tác động đến hiệu quả theo giá trị kế toán Đặc biệt, khi số lượng thành viên nữ trong HĐQT đạt từ 3 trở lên, hiệu quả hoạt động của công ty cả theo giá trị thị trường và giá trị kế toán đều tăng lên.

Nghiên cứu của Hoàng Thị Phương Thảo và cộng sự (2015) đã phân tích mối quan hệ giữa đa dạng hoá giới tính trong bộ máy quản trị doanh nghiệp và thành quả công ty Tác giả đã sử dụng dữ liệu bảng từ các báo cáo tài chính đã kiểm toán của 699 công ty phi tài chính niêm yết trên Sở Giao dịch Chứng khoán TP.HCM và Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội trong giai đoạn 2007-2015.

Nghiên cứu năm 2013 cho thấy rằng CEO nữ có xu hướng chấp nhận rủi ro thấp hơn so với CEO nam, nhưng lại đạt được thành quả cao hơn Bên cạnh đó, tỷ lệ nữ giới trong Hội đồng quản trị không cải thiện thành quả công ty Hơn nữa, sở hữu nhà nước đóng vai trò quan trọng trong mối quan hệ giữa đa dạng giới tính và hiệu quả hoạt động của công ty.

Nghiên cứu của Lê Đạt Chí và Trần Hoài Nam (2016) đã chỉ ra rằng hành vi quá tự tin của Tổng giám đốc có thể dẫn đến việc doanh nghiệp Việt Nam sử dụng nợ vay cao hơn gấp ba lần so với các CEO bình thường Nghiên cứu này được thực hiện trên 85 công ty niêm yết tại Thị trường Chứng khoán VN trong giai đoạn 2011–2014, với các yếu tố như độ tuổi, giới tính, bằng cấp, kinh nghiệm và những biến cố lớn trong cuộc đời của CEO được kiểm soát Kết quả cũng xem xét quy mô công ty, tăng trưởng doanh thu và điều kiện tài chính vĩ mô.

Nghiên cứu của Hoàng Thị Phương Anh và Nguyễn Ngọc Hồng Trang

Nghiên cứu năm 2018 đã xem xét tác động của sự đa dạng giới tính trong hội đồng quản trị (HĐQT) đến hiệu quả hoạt động của 170 doanh nghiệp phi tài chính niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn 2010-2015 Kết quả cho thấy, tỉ lệ thành viên nữ và số lượng nữ giới trong HĐQT có ảnh hưởng tích cực đến thành quả hoạt động của doanh nghiệp Đặc biệt, HĐQT có từ ba thành viên nữ trở lên sẽ mang lại hiệu quả hoạt động tốt hơn so với HĐQT chỉ có từ hai thành viên nữ trở xuống.

Trong chương 2, tác giả tập trung vào cơ sở lý thuyết liên quan đến Hội đồng quản trị (HĐQT), vai trò của Chủ tịch (Chair) và Giám đốc điều hành (CEO), cùng với mối liên hệ giữa sự đa dạng của HĐQT, khoảng cách giữa Chair và CEO với rủi ro trong các ngân hàng thương mại (NHTM) Chương này cũng phác thảo những điểm chính cần nghiên cứu của luận văn, dựa trên các nghiên cứu trước đó, nhằm nhấn mạnh sự cần thiết của nghiên cứu này.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Ngày đăng: 12/01/2022, 23:48

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Bảng 3.1 Mô tả các biến đƣợc sử dụng trong nghiên cứu - Tác động của đa dạng hóa hội đồng quản trị và khoảng cách giữa chủ tịch hội đồng quản trị   tổng giám đốc đến rủi ro của các ngân hàng thương mại
Bảng 3.1 Mô tả các biến đƣợc sử dụng trong nghiên cứu (Trang 56)
Bảng 4.1 trích từ phụ lục 1 tóm tắt kết quả thống kê mô tả các biến trong - Tác động của đa dạng hóa hội đồng quản trị và khoảng cách giữa chủ tịch hội đồng quản trị   tổng giám đốc đến rủi ro của các ngân hàng thương mại
Bảng 4.1 trích từ phụ lục 1 tóm tắt kết quả thống kê mô tả các biến trong (Trang 58)
Bảng 4.2 Ma trận hệ số tương quan - Tác động của đa dạng hóa hội đồng quản trị và khoảng cách giữa chủ tịch hội đồng quản trị   tổng giám đốc đến rủi ro của các ngân hàng thương mại
Bảng 4.2 Ma trận hệ số tương quan (Trang 61)
Bảng 4.3 Kiểm định đa cộng tuyến với biến phụ thuộc Z_score - Tác động của đa dạng hóa hội đồng quản trị và khoảng cách giữa chủ tịch hội đồng quản trị   tổng giám đốc đến rủi ro của các ngân hàng thương mại
Bảng 4.3 Kiểm định đa cộng tuyến với biến phụ thuộc Z_score (Trang 63)
Bảng 4.5  Tổng hợp giá trị p_value từ kiểm định  oolridge - Tác động của đa dạng hóa hội đồng quản trị và khoảng cách giữa chủ tịch hội đồng quản trị   tổng giám đốc đến rủi ro của các ngân hàng thương mại
Bảng 4.5 Tổng hợp giá trị p_value từ kiểm định oolridge (Trang 64)
Bảng 4.7 Kết quả ƣớc lƣợng  về khoảng cách giữa Chair-CEO và sự đa dạng  của HĐQT với Z_score - Tác động của đa dạng hóa hội đồng quản trị và khoảng cách giữa chủ tịch hội đồng quản trị   tổng giám đốc đến rủi ro của các ngân hàng thương mại
Bảng 4.7 Kết quả ƣớc lƣợng về khoảng cách giữa Chair-CEO và sự đa dạng của HĐQT với Z_score (Trang 66)
Bảng 4.8 Kết quả ƣớc lƣợng về khoảng cách giữa Chair-CEO và sự đa dạng  của HĐQT với ROAA - Tác động của đa dạng hóa hội đồng quản trị và khoảng cách giữa chủ tịch hội đồng quản trị   tổng giám đốc đến rủi ro của các ngân hàng thương mại
Bảng 4.8 Kết quả ƣớc lƣợng về khoảng cách giữa Chair-CEO và sự đa dạng của HĐQT với ROAA (Trang 67)

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w