1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Tác động của tập trung thị trường lên ổn định tài chính trong ngành ngân hàng tại các nền kinh tế mới nổi1

92 5 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 92
Dung lượng 1,24 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN ĐỀ TÀI (12)
    • 1.1. Lý do nghiên cứu (12)
    • 1.2. Vấn đề nghiên cứu (15)
    • 1.3. Câu hỏi nghiên cứu (16)
    • 1.4. Mục tiêu nghiên cứu (16)
    • 1.5. Dữ liệu và phương pháp nghiên cứu (16)
    • 1.6. Cấu trúc luận văn (17)
  • CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT (18)
    • 2.1. Một số khái niệm (18)
      • 2.1.1. Tập trung thị trường (18)
      • 2.1.2. Ổn định tài chính (19)
      • 2.1.3. Thị trường mới nổi (21)
    • 2.2. Cơ sở lý thuyết (22)
      • 2.2.1. Các lý thuyết về khả năng sinh lời (22)
        • 2.2.1.1. Lý thuyết Cấu trúc - Ứng xử - Hiệu suất (SCP) (22)
        • 2.2.1.2. Lý thuyết lý thuyết Hiệu quả - Cấu trúc (ESH) (23)
        • 2.2.1.3. Lý thuyết Chi phí – Ƣu tiên (EPH) (0)
      • 2.2.2. Lý thuyết thông tin bất cân xứng (25)
        • 2.2.2.1. Lựa chọn bất lợi (25)
        • 2.2.2.2. Rủi ro đạo đức (26)
      • 2.2.3. Chính sách “Quá lớn để thất bại” (TBTF) (26)
      • 2.2.4. Giả thuyết Tập trung - Ổn định (27)
      • 2.2.5. Giả thuyết Tập trung – Bất ổn (28)
    • 2.3. Các nghiên cứu trước (29)
      • 2.3.1. Giả thuyết Tập trung - Ổn định (29)
      • 2.3.2. Giả thuyết Tập trung – Bất ổn (35)
  • CHƯƠNG 3: DỮ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU (39)
    • 3.1. Dữ liệu nghiên cứu (39)
    • 3.2. Phương pháp nghiên cứu (40)
      • 3.2.1. Phương pháp hồi quy (40)
        • 3.2.1.1. Phương pháp bình phương nhỏ nhất gộp – Pooled OLS (40)
        • 3.2.1.2. Phương pháp tác động cố định – FEM (41)
        • 3.2.1.3. Phương pháp tác động ngẫu nhiên – REM (41)
        • 3.2.1.4. Phương pháp bình phương nhỏ nhất tổng quát – GLS (42)
        • 3.2.1.5. Phương pháp mô-men tổng quát – GMM (42)
      • 3.2.2. Kiểm định lựa chọn phương pháp hồi quy (44)
        • 3.2.2.1. Kiểm định Breusch – Pagan LM: Lựa chọn mô hình giữa hai mô hình Pooled OLS và REM (44)
      • 3.2.3. Các vi phạm trong mô hình hồi quy (45)
        • 3.2.3.1. Đa cộng tuyến (45)
        • 3.2.3.2. Sự phụ thuộc của các đơn vị chéo (45)
        • 3.2.3.3. Tự tương quan (45)
        • 3.2.3.4. Phương sai sai số thay đổi (46)
    • 3.3. Mô hình nghiên cứu (46)
    • 3.4. Giải thích các biến và giả thuyết nghiên cứu (48)
      • 3.4.1. Ổn định tài chính – Z-score (50)
      • 3.4.2. Chỉ số đo lường mức độ tập trung thị trường – CR 3 (50)
      • 3.4.3. Tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên tổng tài sản bình quân – ROA . 40 3.4.4. Tỷ số thu nhập lãi thuần – NIM (51)
      • 3.4.5. Tỷ số vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản – CTA (52)
      • 3.4.6. Tỷ số chi phí trên thu nhập – CIR (52)
      • 3.4.7. Tỷ lệ nợ xấu – NLR (53)
      • 3.4.8. Tỷ lệ tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội GDP – GDPG (53)
      • 3.4.9. Tỷ lệ lạm phát theo chỉ số giá CPI – INF (53)
  • CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU (55)
    • 4.1. Phân tích thống kê mô tả (55)
    • 4.2. Phân tích ma trận tương quan (59)
    • 4.3. Phân tích kết quả hồi quy (60)
      • 4.3.1. Kết quả hồi quy dữ liệu bảng và kiểm định lựa chọn mô hình (60)
      • 4.3.2. Kiểm định những vi phạm của mô hình REM (62)
        • 4.3.2.1. Kiểm định sự phụ thuộc của các đơn vị chéo – Pesaran test (62)
        • 4.3.2.2. Kiểm định tự tương quan và phương sai sai số thay đổi (63)
      • 4.3.3. Kết quả hồi quy theo phương pháp bình phương nhỏ nhất tổng quát – Generalized Least Square (GLS) (64)
      • 4.3.4. Kết quả hồi theo phương pháp Mô-men tổng quát - Generalized (67)
      • 4.3.5. Phân tích kết quả hồi quy (69)
        • 4.3.5.1. Tập trung thị trường – CR3 (70)
        • 4.3.5.2. Tỷ lệ thu nhập lãi thuần – NIM (71)
        • 4.3.5.3. Tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên tổng tài sản bình quân – (72)
        • 4.3.5.4. Tăng trưởng GDP – GDPG (73)
  • CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ (74)
    • 5.1. Kết luận (74)
    • 5.2. Kiến nghị (75)
    • 5.3. Đóng góp của đề tài (77)
    • 5.4. Hạn chế và hướng nghiên cứu tiếp theo (78)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (80)
  • PHỤ LỤC (86)

Nội dung

CƠ SỞ LÝ THUYẾT

Một số khái niệm

Theo OECD (2002), tập trung thị trường là tình trạng khi một số ít công ty chiếm lĩnh một tỷ lệ lớn trong các hoạt động kinh tế, thể hiện qua tổng doanh thu, tài sản hoặc số lượng lao động.

Tập trung thị trường trong ngành ngân hàng có thể được đánh giá qua nhiều chỉ số khác nhau Theo nghiên cứu của Bikker và Haaf (2002), có mười chỉ số chính để đo lường mức độ tập trung, bao gồm chỉ số tập trung ngân hàng k (CR k ), chỉ số Herfindahl-Hirchman (HHI), chỉ số Hall-Tideman (HTI), chỉ số Rosenbluth (RI), chỉ số tập trung công nghiệp toàn diện (CCI), chỉ số Hannah and Kay (HKI), chỉ số U (U), chỉ số nhân Hause (H m ), chỉ số cộng Hause (H a ), và chỉ số đo lường Entropy (E) Trong số các chỉ số này, mức độ phổ biến của từng chỉ số cũng đóng vai trò quan trọng trong việc đánh giá sự tập trung thị trường.

Chỉ số CR k và HHI đã được áp dụng tại 20 quốc gia để đánh giá khả năng đo lường và xếp hạng mức độ tập trung ngân hàng Tuy nhiên, nghiên cứu này chỉ tập trung vào chỉ số CR k, cụ thể là chỉ số CR 3, để đại diện cho sự ổn định tài chính.

Chỉ số tập trung ngân hàng k (CR k) là chỉ số phổ biến nhất trong nghiên cứu thực nghiệm, dựa trên dữ liệu giới hạn CR k được tính bằng tổng thị phần (tài sản, vốn huy động, cho vay, ) của k ngân hàng lớn, với công thức cụ thể để xác định mức độ tập trung của ngành ngân hàng.

Trong đó, s_i đại diện cho thị phần của ngân hàng thứ i, trong khi k là số lượng ngân hàng được sử dụng để tính toán Thực tế cho thấy không có quy tắc cụ thể nào để xác định giá trị k, do đó, k phụ thuộc vào quan điểm của từng nhà nghiên cứu.

Nếu trên thị trường có n ngân hàng có cùng thị phần như nhau thì khi đó chỉ số

CR k đƣợc tính nhƣ sau:

Ổn định tài chính là khái niệm quan trọng trong việc phát triển các công cụ phân tích và chính sách điều hành an toàn vĩ mô Theo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, nhiều định nghĩa khác nhau về ổn định tài chính đã được đưa ra trên thế giới Chẳng hạn, Ngân hàng Trung ương Thụy Sỹ định nghĩa ổn định hệ thống tài chính là khả năng của các trung gian tài chính, thị trường và hạ tầng tài chính trong việc thực hiện tốt chức năng của mình và chống đỡ các cú sốc tiềm ẩn Ngân hàng Trung ương Đức nhấn mạnh rằng ổn định tài chính cho phép hệ thống tài chính hoạt động hiệu quả ngay cả trong thời kỳ kinh tế khó khăn, giúp phân bổ nguồn lực và rủi ro tài chính một cách hiệu quả Ngân hàng Trung ương Úc cho rằng ổn định hệ thống tài chính thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua việc phân bổ tốt luồng vốn giữa tiết kiệm và đầu tư Cuối cùng, Ngân hàng Trung ương Châu Âu khẳng định rằng ổn định tài chính giúp giảm thiểu khả năng sụp đổ của các trung gian tài chính, từ đó bảo vệ việc phân bổ tiết kiệm và đầu tư.

Mặc dù chưa có định nghĩa chính thức cho thuật ngữ “Ổn định tài chính”, qua tổng kết quan điểm của một số Ngân hàng trung ương trên thế giới, có thể thấy rằng thuật ngữ này bao gồm nhiều nội hàm quan trọng.

Hệ thống tài chính bao gồm các yếu tố chính như thị trường tài chính, các định chế tài chính và hạ tầng tài chính, thực hiện các chức năng của mình một cách thông suốt, từ đó góp phần phân bổ hiệu quả nguồn lực trong nền kinh tế.

Rủi ro cấp độ hệ thống cần được đánh giá chính xác và quản lý hiệu quả nhằm ngăn chặn khả năng sụp đổ của hệ thống tài chính.

Để duy trì sự ổn định của hệ thống tài chính, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong hệ thống giám sát tài chính quốc gia Trong hầu hết các mô hình tổ chức giám sát tài chính, Ngân hàng Trung ương (NHTW) đóng vai trò chủ đạo trong việc thực hiện chức năng ổn định tài chính.

Sự ổn định tài chính có nhiều định nghĩa và phương pháp đo lường khác nhau, nhưng hầu hết đều nhấn mạnh rằng đây là giai đoạn mà toàn bộ hệ thống tài chính không gặp khủng hoảng Do đó, nghiên cứu này sẽ áp dụng chỉ số Z-score để đánh giá mức độ ổn định tài chính.

Nguyên tắc cơ bản trong đo lường chỉ số Z-score là mối quan hệ giữa mức vốn chủ sở hữu của ngân hàng và sự thay đổi trong lợi nhuận, cho phép xác định mức biến thiên trong lợi nhuận mà ngân hàng có thể hấp thụ mà không bị phá sản Biến thiên trong lợi nhuận, được đo bằng độ lệch chuẩn của tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản bình quân (ROA), là mẫu số của Z-score, trong khi tử số là tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản cộng với ROA Giả thuyết cho rằng khả năng thanh toán của ngân hàng giảm khi vốn chủ sở hữu xuống 0, tuy nhiên điều này không thực tế vì ngân hàng cần một mức vốn tối thiểu để hoạt động Kết luận chính là ngân hàng có rủi ro thấp sẽ có giá trị Z-score cao và ngược lại.

ROA it là tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản bình quân ngân hàng;

ETA đại diện cho tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản của ngân hàng, trong khi σ ROA là độ lệch chuẩn của tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản bình quân trong giai đoạn nghiên cứu.

Thị trường mới nổi là những quốc gia sở hữu một số đặc điểm của thị trường phát triển nhưng chưa đạt tiêu chuẩn để được công nhận là thị trường phát triển Các quốc gia này có tiềm năng trở thành thị trường phát triển trong tương lai hoặc đã từng là thị trường phát triển trong quá khứ.

Số lượng các nước được phân loại là thị trường mới nổi có thể khác nhau tùy theo quan điểm và tiêu chí của từng tổ chức Bài nghiên cứu này sẽ dựa vào phân loại của Goldman Sachs năm 2005 để lựa chọn các nước thuộc nhóm BRICS và Next Eleven cho nghiên cứu.

Cơ sở lý thuyết

2.2.1 Các lý thuyết về khả năng sinh lời

Nhiều lý thuyết về khả năng sinh lời đã được nghiên cứu để xác định mối liên hệ giữa cấu trúc thị trường và khả năng sinh lời Dựa trên giả định truyền thống, các nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều dự đoán về hành vi tối đa hóa lợi nhuận của ngân hàng, xuất phát từ hiệu quả hoạt động của các ngành.

Bài nghiên cứu này tập trung vào ba lý thuyết chính để giải thích hiệu quả hoạt động và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại, dựa theo nghiên cứu của Rasiah (2010) Đầu tiên là lý thuyết Cấu trúc - Ứng xử - Hiệu suất (SCP), một lý thuyết nổi tiếng nhưng vẫn gây nhiều tranh cãi Thứ hai là lý thuyết Hiệu quả - Cấu trúc (ESH), và cuối cùng là lý thuyết Chi phí - Ƣu tiên (EPH) Những lý thuyết này cung cấp cái nhìn sâu sắc về mối quan hệ giữa cấu trúc thị trường, hành vi của ngân hàng và hiệu suất tài chính.

2.2.1.1 Lý thuyết Cấu trúc - Ứng xử - Hiệu suất (SCP)

Lý thuyết SCP, phát triển từ các phân tích của kinh tế học tân cổ điển, được hình thành tại Harvard và phổ biến trong giai đoạn 1940-1960 Lý thuyết này tập trung vào việc nghiên cứu mối quan hệ giữa cấu trúc ngành và hiệu quả hoạt động, từ đó đã ảnh hưởng lớn đến việc áp dụng các luật chống độc quyền.

SCP đã được phát triển mạnh mẽ bởi trường Chicago từ những năm 1960 đến 1980, tập trung vào tính hợp lý trong sự phát triển của các doanh nghiệp, lý thuyết giá cả và ước lượng trong kinh tế lượng Từ 1980 đến 1990, lý thuyết trò chơi đã trở thành trung tâm trong việc đưa ra các quyết định chiến lược, với khái niệm cân bằng Nash đóng vai trò quan trọng.

Sau năm 1990, các tổ chức công nghiệp thực nghiệm đã áp dụng lý thuyết kinh tế và kinh tế lượng, dẫn đến sự phát triển của các mô hình thực nghiệm phức tạp Những mô hình này giúp phân tích quá trình sáp nhập, gia nhập và rút lui khỏi thị trường, đồng thời nhận diện sức mạnh thị trường (Edwards và ctg, 2006).

Lý thuyết SCP cho rằng sự tập trung thị trường cao, với một vài doanh nghiệp chiếm thị phần lớn, dẫn đến khả năng thông đồng giữa các công ty trong ngành Khi thị trường trở nên tập trung, khả năng sinh lợi của các doanh nghiệp cũng tăng lên, theo nghiên cứu của Gilbert (1984) Lý thuyết này nhấn mạnh mối quan hệ tích cực giữa mức độ tập trung và hiệu quả hoạt động, cho rằng các doanh nghiệp trong thị trường tập trung sẽ đạt được lợi nhuận cao hơn so với các doanh nghiệp trong thị trường ít tập trung, bất chấp các yếu tố như độc quyền hay thông đồng (Lloyad-Williams và cộng sự, 1994).

Mối quan hệ giữa sự tập trung thị trường và khả năng sinh lời trong ngành ngân hàng đã được nhiều nghiên cứu thực nghiệm khám phá, cung cấp những kết quả ủng hộ cho lý thuyết SCP Các nghiên cứu tiêu biểu bao gồm các tác phẩm của Rose và Fraser (1976), Short (1979), Gilbert (1984) và Lloyad-Williams cùng các cộng sự.

Năm 1994, một số nhà nghiên cứu không tìm thấy bằng chứng ủng hộ lý thuyết SCP, đồng thời cũng không bác bỏ giả thuyết rằng sự tập trung thị trường có ảnh hưởng tích cực đến hiệu suất của các ngân hàng Các nghiên cứu của Smirlock (1985), Miller và Van Hoose (1993), Athanasoglou và cộng sự (2008), cùng với Pawlowska (2016) đã chỉ ra điều này.

2.2.1.2 Lý thuyết lý thuyết Hiệu quả - Cấu trúc (ESH)

Lý thuyết ESH chỉ ra rằng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp tỉ lệ thuận với năng suất của họ Điều này xảy ra nhờ vào sự tập trung thị trường do cạnh tranh, nơi mà các doanh nghiệp có cấu trúc chi phí thấp có thể tăng lợi nhuận thông qua việc giảm giá và mở rộng thị phần Mối quan hệ tích cực giữa lợi nhuận và cơ cấu thị trường xuất phát từ lợi ích mà các doanh nghiệp hiệu quả thu được từ thị phần, dẫn đến sự gia tăng tập trung thị trường.

Lợi nhuận tăng lên được cho là do các doanh nghiệp hoạt động hiệu quả hơn, không phải do thông đồng như giả thuyết SCP truyền thống (Edwards, 1977) Samad (2008) cũng nhấn mạnh rằng sự tập trung thị trường không phải là nguyên nhân chính dẫn đến hiệu suất cao của doanh nghiệp Theo giả thuyết ESH, sự kết hợp giữa tập trung thị trường và hiệu quả hoạt động cao là hệ quả của hiệu suất vượt trội của các doanh nghiệp Các doanh nghiệp lớn trong thị trường tập trung thường hưởng lợi nhuận cao hơn nhờ vào hiệu quả kinh tế theo quy mô Khi một doanh nghiệp có hiệu quả cao hơn so với đối thủ, họ có thể chiếm lĩnh thị phần bằng cách hạ giá và thu về lợi nhuận kinh tế Do đó, động lực để đạt được thị phần lớn và tập trung thị trường chính là hiệu quả của doanh nghiệp Các công ty hiệu quả nhất sẽ chiếm lĩnh thị phần và kiếm được lợi nhuận kinh tế Tuy nhiên, Smirlock (1985), người đầu tiên áp dụng giả thuyết ESH trong ngành ngân hàng tại Mỹ, đã không tìm thấy bằng chứng về mối quan hệ giữa tập trung thị trường và khả năng sinh lời, nhưng lại phát hiện ra mối liên hệ giữa thị phần và lợi nhuận ngân hàng.

2.2.1.3 Lý thuyết Chi phí – Ƣu tiên (EPH)

Lý thuyết EPH chỉ ra rằng các nhà quản lý doanh nghiệp thường ưu tiên tối đa hóa lợi ích thay vì lợi nhuận Họ có xu hướng đầu tư vào các lĩnh vực như quy mô nhân viên, văn phòng và hiện đại hóa cơ sở vật chất Hành vi này có thể xuất phát từ sự phân tách giữa quyền sở hữu và quyền kiểm soát, cũng như từ đặc điểm của thị trường hàng hóa và vốn không hoàn hảo (Hannan và Mavinga, 1980).

Edwards (1977) chỉ ra rằng quy mô nhân viên và chi phí tiền lương tại các ngân hàng ở Mỹ gia tăng cùng với sức mạnh độc quyền, điều này cho thấy sự tồn tại của EPH Các nghiên cứu tiếp theo của Hannan, Mavinga (1980) và Verbrugge cũng đã xác nhận những phát hiện này.

Jahera (1981) đã áp dụng phương pháp kiểm định tương tự như Edwards (1977) và kết luận rằng số lượng nhân viên tại các ngân hàng sẽ cao hơn ở những thị trường có sức mạnh độc quyền, so với các ngân hàng hoạt động trong môi trường cạnh tranh.

2.2.2 Lý thuyết thông tin bất cân xứng

Theo Mishkin (2003), thông tin bất cân xứng xảy ra khi một bên thiếu hiểu biết về bên kia trong giao dịch, dẫn đến quyết định không chính xác Đây là một yếu tố quan trọng trong thị trường tài chính.

Người đi vay thường hiểu rõ hơn về tiềm năng lợi nhuận và rủi ro của các dự án đầu tư mà họ sử dụng khoản vay để thực hiện, so với người cho vay Thiếu thông tin có thể gây ra nhiều vấn đề trong hệ thống tài chính, cả trước và sau giao dịch Hơn nữa, các nhà quản lý trong một doanh nghiệp thường nắm bắt thông tin chính xác và chi tiết hơn về hoạt động kinh doanh so với các cổ đông.

Sự hiện diện của thông tin bất cân xứng dẫn đến những lựa chọn bất lợi và nguy cơ rủi ro đạo đức

Các nghiên cứu trước

Các tác giả đã áp dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau để phân tích tác động của sự tập trung thị trường lên ổn định tài chính trong ngân hàng Kết quả nghiên cứu chủ yếu hỗ trợ hai giả thuyết quan trọng: giả thuyết Tập trung - Ổn định và giả thuyết Tập trung - Bất ổn.

2.3.1 Giả thuyết Tập trung - Ổn định

Nghiên cứu cho thấy tập trung thị trường có ảnh hưởng tích cực đến ổn định tài chính, không chỉ trực tiếp mà còn gián tiếp thông qua các yếu tố như củng cố vốn chủ sở hữu, cải thiện chất lượng tín dụng, đa dạng hóa và tăng cường kiểm soát giám sát.

 Tác động trực tiếp của tập trung thị trường lên ổn định tài chính

Trong nghiên cứu của Beck và cộng sự (2006a), tác động của sự tập trung ngân hàng đối với bất ổn của hệ thống ngân hàng đã được khám phá qua dữ liệu của 69 quốc gia và 47 giai đoạn khủng hoảng Nghiên cứu tiến hành nhiều phân tích độ nhạy cảm để mở rộng các kết quả cốt lõi, cho thấy mối quan hệ giữa tập trung ngân hàng và ổn định tài chính Kết quả cho thấy mức độ tập trung ngân hàng có xu hướng giảm xác suất xảy ra khủng hoảng hệ thống ngân hàng ở các quốc gia Những phát hiện này nhất quán khi áp dụng các định nghĩa khác nhau về khủng hoảng và tập trung, cùng với các biến kiểm soát về kinh tế vĩ mô, quy định và thể chế.

Các quy định và thể chế không cho thấy rằng cạnh tranh làm tăng sự bất ổn trong hệ thống ngân hàng Thực tế, các ngân hàng ở những nơi có quy định hạn chế gia nhập và hoạt động phi tín dụng có nguy cơ cao hơn về khủng hoảng Ngoài ra, các quốc gia với thể chế phát triển hơn có khả năng ít bị khủng hoảng ngân hàng khi thúc đẩy cạnh tranh Do đó, cả sự tập trung và cạnh tranh trong hệ thống ngân hàng đều liên quan tích cực đến sự ổn định ngân hàng, đồng thời cho thấy rằng việc tập trung ngân hàng không đủ để đo lường mức độ cạnh tranh.

Nghiên cứu chỉ ra rằng hệ thống ngân hàng tập trung cao ít có khả năng gặp khủng hoảng hệ thống, tuy nhiên, nhóm tác giả không khám phá khía cạnh cơ chế Mặc dù có liên quan đến chính sách, các kết quả không nên được coi là khuyến cáo cho các nhà hoạch định chính sách nhằm thúc đẩy sự tập trung ngân hàng Các nghiên cứu trong tương lai cần xem xét cách mà sự tập trung và khả năng cạnh tranh của hệ thống tài chính ảnh hưởng đến sự ổn định.

Nghiên cứu của Beck và cộng sự (2006b) sử dụng dữ liệu từ bảng đa quốc gia về khủng hoảng hệ thống ngân hàng cho thấy rằng sự tập trung ngân hàng lớn hơn có liên quan đến khả năng chịu đựng khủng hoảng Bài nghiên cứu không chỉ ra rằng sự tập trung gây ra sự bất ổn, mà dữ liệu và kết quả nghiên cứu về các cuộc khủng hoảng hệ thống lại ủng hộ quan điểm Tập trung - Ổn định Cụ thể, một hệ thống ngân hàng tập trung thường có các ngân hàng lớn hơn và đa dạng hơn, tạo ra mối liên hệ tích cực giữa sự tập trung và sự ổn định.

Nhóm tác giả không phát hiện bằng chứng cho thấy hệ thống ngân hàng tập trung với một số ngân hàng lớn có tính ổn định hơn so với hệ thống ngân hàng phân tán.

 Kênh lợi nhuận củng cố vốn chủ sở hữu

Mô hình tiền tệ được đề xuất bởi Champ và ctg (1996) cùng Smith (2002), và được Boyd (2004) xem xét, chỉ ra rằng hệ thống ngân hàng độc quyền có tiềm năng tạo ra lợi nhuận kỳ vọng cao hơn so với hệ thống ngân hàng cạnh tranh Boyd (2004) đã phân tích các yếu tố vĩ mô như GDP, tỷ lệ lạm phát và tỷ lệ tăng trưởng cung tiền trong chính sách tiền tệ quốc gia để chứng minh rằng lợi nhuận từ hệ thống ngân hàng độc quyền có thể được bổ sung vào vốn chủ sở hữu, tạo ra một tấm đệm vững chắc chống lại rủi ro bên trong và các cú sốc bên ngoài Boyd cũng nêu rõ xác suất xảy ra khủng hoảng trong hệ thống ngân hàng độc quyền so với hệ thống ngân hàng cạnh tranh.

Xác suất xảy ra khủng hoảng ngân hàng trong hệ thống ngân hàng độc quyền và cạnh tranh có mối quan hệ chặt chẽ với chính sách tiền tệ Khi tỷ lệ lạm phát thấp hơn một ngưỡng nhất định, hệ thống ngân hàng độc quyền có nguy cơ khủng hoảng cao hơn so với hệ thống ngân hàng cạnh tranh Ngược lại, nếu tỷ lệ lạm phát vượt ngưỡng đó, khả năng khủng hoảng lại cao hơn ở hệ thống ngân hàng cạnh tranh Hệ thống ngân hàng độc quyền có thể tạo ra lợi nhuận kỳ vọng cao hơn bằng cách hạn chế dự trữ tiền mặt, từ đó làm tăng nguy cơ khủng hoảng Tuy nhiên, lãi suất tiền gửi trong hệ thống này thường thấp hơn, giúp giảm khả năng xảy ra khủng hoảng Hai tác động này đều bị chi phối bởi tỷ lệ lạm phát, ảnh hưởng đến khả năng xảy ra khủng hoảng ngân hàng.

Trong bối cảnh khủng hoảng, tổn thất đầu ra ở hệ thống ngân hàng cạnh tranh thường cao hơn so với ngân hàng độc quyền Nguyên nhân là do ngân hàng độc quyền sở hữu tiềm lực mạnh mẽ và khả năng tạo ra lợi nhuận, giúp họ thanh lý tài sản một cách hiệu quả hơn.

 Cuối cùng, tỷ lệ lạm phát cao làm tăng xác suất xảy ra khủng hoảng ngân hàng ở cả hệ thống ngân hàng cạnh tranh và độc quyền

Bretschger và cộng sự (2012) đã tiến hành nghiên cứu với dữ liệu từ 160 quốc gia trong giai đoạn 1970-2009, nhằm kiểm tra ý nghĩa của các kênh kinh tế thông qua biến ROA cho giả thuyết Tập trung - Ổn định và NIM cho giả thuyết Tập trung – Bất ổn Kết quả nghiên cứu cho thấy, đối với các nước đang phát triển, có bằng chứng rõ ràng ủng hộ giả thuyết Tập trung - Ổn định qua ROA Tuy nhiên, đối với các nước phát triển, kết quả lại không rõ ràng.

Lợi nhuận đóng vai trò quan trọng trong việc củng cố vốn chủ sở hữu, từ đó tạo ra sự ổn định tài chính cho ngân hàng Nghiên cứu của Keeley (1990) chỉ ra rằng các chính sách chống cạnh tranh khác nhau tạo ra sức mạnh thị trường cho ngân hàng, làm tăng giá trị điều lệ Điều này dẫn đến khả năng tổn thất vốn điều lệ trong trường hợp phá sản trở nên cao, khiến cho các nhà quản lý ngân hàng thận trọng hơn trong việc chấp nhận rủi ro Cụ thể, ngân hàng có sức mạnh thị trường cao sẽ có giá trị sổ sách lớn hơn, tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tài sản cao hơn và rủi ro phá sản thấp hơn.

Gia tăng cạnh tranh trong ngành ngân hàng và dịch vụ tài chính góp phần vào bất ổn tài chính, chủ yếu do sự suy giảm giá trị điều lệ.

Gần đây, các khủng hoảng ngân hàng chủ yếu xuất phát từ sự sụt giảm tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản Việc giảm tỷ lệ này có thể làm gia tăng nguy cơ thất bại của ngân hàng vì hai lý do chính.

Vốn chủ sở hữu thấp hơn trong khi số lượng tài sản rủi ro không thay đổi dẫn đến khả năng bảo vệ trước những thất bại bị hạn chế.

DỮ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Dữ liệu nghiên cứu

Để đảm bảo tính chính xác và thống nhất của dữ liệu nghiên cứu, các biến trong luận văn được lấy từ nguồn dữ liệu mở trên trang web của Ngân hàng Thế giới (World Bank), tập trung vào 15 nền kinh tế mới nổi.

BRICS và Next Eleven (trừ Iran)) theo tiêu chí của tổ chức kinh tế Goldman Sachs

Phương pháp nghiên cứu

Để tiến hành xử lý dữ liệu bảng, bài luận văn thực hiện lần lượt các phương pháp hồi quy và các kiểm định nhƣ sau:

Hồi quy là quá trình mô tả và đánh giá mối quan hệ giữa một biến cụ thể và một hoặc nhiều biến khác Mục tiêu của hồi quy là giải thích xu hướng của một biến thông qua việc tham chiếu đến xu hướng của các biến liên quan, như đã nêu bởi Brooks (2014).

Có nhiều phương pháp hồi quy phù hợp với từng loại dữ liệu và giả định nhất định, bao gồm các phương pháp cơ bản như bình phương nhỏ nhất gộp (Pooled OLS), tác động cố định (FEM) và tác động ngẫu nhiên (REM) Ngoài ra, các phương pháp nâng cao như bình phương nhỏ nhất tổng quát (GLS) và mô- men tổng quát (GMM) được sử dụng để khắc phục sai phạm và vấn đề nội sinh trong mô hình nghiên cứu.

3.2.1.1 Phương pháp bình phương nhỏ nhất gộp – Pooled OLS

Theo Gujarati (2004), giả thuyết Pooled OLS cho rằng hệ số chặn và hệ số ước lượng là không đổi theo thời gian và không gian (chủ thể), trong khi sai số chuẩn phản ánh sự khác biệt này.

Cách tiếp cận Pooled OLS đơn giản bỏ qua yếu tố không gian và thời gian của dữ liệu, coi tất cả các quan sát (N×T) là bình đẳng Mặc dù các hệ số có ý nghĩa thống kê và giá trị R² cao, mô hình này giả định rằng hệ số chặn và các hệ số ước lượng của các biến X là giống nhau cho tất cả các chủ thể trong mẫu dữ liệu Điều này dẫn đến những hạn chế lớn trong giả định của Pooled OLS, có thể làm sai lệch mối quan hệ thực sự giữa Y và các biến X.

Kết quả hồi quy sẽ đƣợc cân nhắc cùng với kết quả hồi quy theo FEM bằng kiểm định F-test và với REM bằng kiểm định Breusch – Pagan LM

3.2.1.2 Phương pháp tác động cố định – FEM

Phương pháp tác động cố định (FEM) giả định rằng hệ số ước lượng của các biến X là không đổi giữa các chủ thể, trong khi hệ số chặn sẽ thay đổi tùy theo từng chủ thể.

Một cách để xem xét "yếu tố cá thể" của từng đơn vị chéo là áp dụng các hệ số chặn khác nhau cho mỗi chủ thể, trong khi giả định rằng hệ số ước lượng của các biến X không thay đổi Sự khác biệt trong các hệ số chặn có thể phản ánh những đặc thù riêng của từng chủ thể Cần lưu ý rằng, mặc dù các hệ số chặn có sự khác biệt giữa các chủ thể, nhưng chúng không thay đổi theo thời gian.

Kết quả hồi quy sẽ đƣợc cân nhắc cùng với kết quả hồi quy theo Pooled OLS bằng kiểm định F-test và với REM bằng kiểm định Hausman test

3.2.1.3 Phương pháp tác động ngẫu nhiên – REM

Phương pháp tác động ngẫu nhiên (REM) được trình bày bởi Gujarati (2004) cho rằng hệ số chặn không phải là cố định như trong phương pháp tác động cố định (FEM), mà là một biến ngẫu nhiên với giá trị trung bình β0 Giá trị của hệ số chặn cho từng chủ thể có thể được diễn đạt dưới dạng β0i = β0 + εi, trong đó εi là sai số chuẩn ngẫu nhiên với giá trị trung bình bằng 0 và phương sai σ².

Sự khác biệt về giá trị của hệ số chặn giữa các chủ thể được thể hiện qua sai số chuẩn ε i Sai số chuẩn hỗn hợp w it bao gồm hai thành phần không tương quan: ε i, là sai số chuẩn riêng cho từng chủ thể, và u it, là sai số chuẩn của dữ liệu bảng, kết hợp giữa dữ liệu chuỗi thời gian và dữ liệu chéo.

Sự khác biệt giữa FEM và REM nằm ở việc FEM sử dụng hệ số chặn cố định cho tất cả các chủ thể, trong khi REM có hệ số chặn β0 đại diện cho giá trị trung bình của tất cả các hệ số chặn theo từng chủ thể, với sai số chuẩn εi phản ánh độ lệch ngẫu nhiên cho từng β0i Tuy nhiên, εi không thể được quan sát trực tiếp.

Kết quả hồi quy theo REM sẽ được so sánh với kết quả hồi quy Pooled OLS thông qua kiểm định Breusch – Pagan LM, đồng thời cũng sẽ được đối chiếu với kết quả hồi quy FEM bằng cách sử dụng kiểm định Hausman.

3.2.1.4 Phương pháp bình phương nhỏ nhất tổng quát – GLS

Theo Shewhart và Wilks (2004) mô hình hồi quy theo phương pháp GLS có dạng: y = Xβ + ε

Cấu trúc hiệp phương sai chung của sai số chuẩn ε được biểu diễn bằng ma trận hiệp phương sai  = σ²  Ma trận này phụ thuộc vào một tham số không biết, nhưng có thể ước lượng được thông qua θ.

Mô hình này bao gồm các trường hợp đặc biệt của các mô hình cụ thể, được áp dụng trong nhiều tình huống khác nhau Nó không chỉ bao gồm các mô hình hồi quy tuyến tính đơn biến như mô hình tương quan chuỗi, mà còn các mô hình tương quan cân bằng và mô hình phương sai sai số thay đổi.

Khi phương pháp REM không còn hiệu quả do vấn đề tự tương quan và phương sai sai số thay đổi, mô hình GLS sẽ được áp dụng để khắc phục tình trạng này, theo Gujarati (2004).

3.2.1.5 Phương pháp mô-men tổng quát – GMM

Trong kinh tế lượng, vấn đề nội sinh xuất hiện khi biến giải thích có mối tương quan với sai số chuẩn, gây ra bởi các yếu tố như lỗi đo lường, quan hệ nhân quả đồng thời và việc bỏ sót các biến quan trọng Để giải quyết các tác động tiêu cực của vấn đề này, phương pháp ước lượng GMM sai phân (Difference Generalized Method of Moments) của Arellano-Bond được áp dụng.

Nghiên cứu năm 1991 không sử dụng phương pháp GMM hệ thống do Arellano và Bover (1995), Blundell và Bond (1998) đề xuất do mẫu dữ liệu nhỏ Việc áp dụng mô hình GMM giúp khắc phục các vấn đề như tự tương quan, phương sai thay đổi và biến nội sinh, từ đó mang lại kết quả ước lượng chính xác và hiệu quả hơn Phương pháp Arellano - Bond cũng được thiết kế để xử lý hiệu ứng tác động cố định trong sai số của mô hình, do các biến quốc gia như vị trí địa lý và nhân khẩu học không thay đổi theo thời gian có thể liên quan đến các biến giải thích Để kiểm tra tính phù hợp của kết quả ước lượng theo GMM, kiểm định Sargan (hay còn gọi là kiểm định Hansen hoặc kiểm định J) và Arellano-Bond sẽ được sử dụng, trong đó kiểm định Sargan xác định tính phù hợp của các biến công cụ trong mô hình GMM và kiểm tra các ràng buộc xác định quá mức.

Mô hình nghiên cứu

Để đánh giá sự ổn định tài chính, Laeven và Valencia (2010) cùng Beck và cộng sự (2006a,b) cho rằng ổn định tài chính xảy ra khi một quốc gia không phải đối mặt với khủng hoảng hệ thống Cụ thể, sự xuất hiện của khủng hoảng được định nghĩa qua biến nhị phân SYSC, trong đó giá trị bằng 1 nếu quốc gia i gặp khủng hoảng tài chính tại thời điểm t, và ngược lại bằng 0 nếu không có khủng hoảng.

0 Tuy nhiên, bài nghiên cứu sẽ kế thừa theo quan điểm của De Nicolo (2004), Uhde và Heimeshoff (2009) để quyết định chọn chỉ số Z-score là một kênh đại diện cho ổn định tài chính vì ba lý do sau:

Khủng hoảng ngân hàng ở các quốc gia khác nhau được công bố và mô tả theo những cách khác nhau, dẫn đến việc xác định chính xác thời gian bắt đầu và kết thúc của khủng hoảng hệ thống ngân hàng trở nên rất khó khăn.

Một cuộc khủng hoảng ngân hàng mang tính hệ thống có thể phản ánh sự thất bại trong pháp lý của một quốc gia Do đó, các cơ quan giám sát có thẩm quyền thường hạn chế việc công bố thông tin đầy đủ về diễn biến của cuộc khủng hoảng này trong nội bộ quốc gia.

Sự yếu kém của các ngân hàng quan trọng trong hệ thống thường được kiểm soát thông qua các chương trình tái cơ cấu tài chính với sự hỗ trợ của chính phủ, nhằm ngăn chặn sự lây lan và giảm thiểu nguy cơ khủng hoảng hệ thống Tuy nhiên, điều này không thể che giấu được thực trạng rằng hệ thống ngân hàng đã bị tổn hại, suy yếu và mất ổn định.

Tóm lại, việc xác định có hay không một cuộc khủng hoảng hệ thống ngân hàng là rõ ràng, nhưng ba nguyên nhân đã nêu có thể dẫn đến kết quả sai lệch khi sử dụng biến SYSC trong phân tích Do đó, Z-score sẽ được sử dụng như một chỉ số đại diện cho sự ổn định tài chính trong ngân hàng, chịu ảnh hưởng bởi sự tập trung thị trường được đo bằng chỉ số CR3, các biến đặc thù của ngân hàng và các yếu tố kinh tế vĩ mô.

Theo Ben Ali và các tác giả (2015), đặc thù ngân hàng được thể hiện qua tỷ lệ lãi biên (NIM) và tỷ số lợi nhuận trên tài sản (ROA) để đánh giá khả năng sinh lời từ hoạt động cho vay Nghiên cứu của Bretschger và các tác giả (2012) đã sử dụng tốc độ tăng trưởng GDP (GDPG) và tỷ lệ lạm phát (INF) làm các biến kinh tế vĩ mô Do đó, mô hình được mô phỏng như sau:

Z it là chỉ số Z-score của quốc gia thứ i vào năm t;

CR3 it là chỉ số tập trung thị trường (ba ngân hàng có tài sản lớn nhất) của ngành ngân hàng tại quốc gia thứ i vào năm t;

NIM it là tỷ lệ thu nhập lại thuần của ngành ngân hàng tại quốc gia thứ i vào năm t;

ROA it là tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên tổng tài sản bình quân của ngành ngân hàng tại quốc gia thứ i vào năm t;

CTA it là tỷ số vốn chủ trên tổng tài sản của ngành ngân hàng tại quốc gia thứ i vào năm t;

CIR it là tỷ số chi phí trên tổng thu nhập của ngành ngân hàng tại quốc gia thứ i vào năm t;

NLR it là tỷ số nợ xấu trên tổng dư nợ của ngành ngân hàng tại quốc gia thứ i vào năm t;

GDPG it là tỷ lệ tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội – GDP tại quốc gia thứ i vào năm t;

Tỷ lệ lạm phát theo chỉ số giá CPI tại quốc gia thứ i vào năm t được biểu thị bằng INF it, với các hệ số ước lượng β i (i từ 0 đến 8) và sai số ước lượng u it trong mô hình Hệ số α i cho thấy sự khác biệt theo chủ thể ước lượng (quốc gia), trong khi hệ số γ t phản ánh sự khác biệt theo thời gian ước lượng (năm).

Giải thích các biến và giả thuyết nghiên cứu

Bài nghiên cứu này sẽ cung cấp bảng tóm tắt các biến trong mô hình và kỳ vọng về chiều hướng tác động của chúng đến ổn định tài chính, giúp người đọc dễ dàng hình dung và hiểu rõ hơn về các yếu tố liên quan.

Bảng 3.1: Tóm tắt các biến và kỳ vọng dấu của các biến trong mô hình

Ký hiệu biến Tên biến Kỳ vọng dấu Các nghiên cứu trước

Z Chỉ số Z-score De Nicolo (2004), Uhde và

CR3 Chỉ số tập trung thị trường CR3 +

(2017), Ben Ali và ctg (2015), Bretschger và ctg (2012), Uhde và Heimeshoff (2009), Beck và ctg (2006a,b) ROA

Tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên tổng tài sản bình quân

Ben Ali và ctg (2015), Bretschger và ctg (2012) và Boyd và ctg (2004)

NIM Tỷ số thu nhập lãi thuần - Ben Ali và ctg (2015) và

Tỷ số vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản

+ Berger và ctg (2009), Boyd và ctg (2004)

CIR Tỷ số chi phí trên thu nhập -

Ben Ali và ctg (2015), Bretschger và ctg (2012), và Uhde và Heimeshoff (2009)

NLR Tỷ lệ nợ xấu -

(2015), Berger và ctg (2009) và Chang và ctg (2008)

Tỷ lệ tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội GDP

(2017), Ben Ali và ctg (2015), Mirzaei và ctg (2013), và Uhde và Heimeshoff (2009)

INF Tỷ lệ lạm phát theo chỉ số giá CPI -

Ben Ali và ctg (2015), Uhde và Heimeshoff (2009), Chang và ctg (2008), và Beck và ctg

Nguồn: Tổng hợp của tác giả

3.4.1 Ổn định tài chính – Z-score

Chỉ số Z-score là công cụ quan trọng để đánh giá khả năng thất bại của công ty, kết hợp lợi nhuận, đòn bẩy và biến động lợi nhuận thành một chỉ số duy nhất Nó được sử dụng để đại diện cho sự ổn định tài chính trong các nghiên cứu của De Nicolo (2004) và Uhde và Heimeshoff (2009) Cách tính chỉ số Z-score cụ thể như sau:

ROA it là tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản bình quân ngân hàng,

ETA đại diện cho tỷ lệ vốn chủ sở hữu so với tổng tài sản của ngân hàng, trong khi σ ROA thể hiện độ lệch chuẩn của tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản bình quân của ngân hàng trong giai đoạn nghiên cứu.

3.4.2 Chỉ số đo lường mức độ tập trung thị trường – CR 3

Nghiên cứu của Bikker và Haaf (2002) chỉ ra rằng có nhiều chỉ số để đo lường mức độ tập trung thị trường Tuy nhiên, bài nghiên cứu này chọn sử dụng chỉ số CR3 như một đại diện cho sự tập trung thị trường, tương tự như các tác giả Karkowska và Pawlowska (2017), Ben Ali và cộng sự (2015), Bretschger và cộng sự (2012), Uhde và những người khác.

Heimeshoff (2009), Beck và ctg (2006a,b) CR 3 đƣợc sử dụng có công thức tính nhƣ sau:

Giả thuyết H 1 : Tập trung thị trường ảnh hưởng tích cực đến ổn định tài chính trong ngành ngân hàng

3.4.3 Tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên tổng tài sản bình quân – ROA Để đo lường khả năng sinh lời của ngân hàng, bài nghiên cứu này sử dụng chỉ số cơ bản là tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên tổng tài sản bình quân (ROA) Rất nhiều bài nghiên cứu (Ben Ali và ctg, 2015, Bretschger và ctg, 2012, và Boyd và ctg, 2004) đã tìm thấy mối quan hệ tích cực giữa ROA và ổn định tài chính và ủng hộ lập luận rằng hệ thống ngân hàng tập trung sẽ có sức mạnh thị trường lớn hơn và do đó có doanh thu đáng kể nhờ đó có thể tăng khả năng chịu đựng những cú sốc vĩ mô bên ngoài Chỉ số này được đo lường như sau:

Giả thuyết H 2 : Lợi nhuận ảnh hưởng tích cực đến ổn định tài chính trong ngành ngân hàng

3.4.4 Tỷ số thu nhập lãi thuần – NIM

Biến tỷ lệ thu nhập lãi thuần (NIM) đã được nhiều nhà nghiên cứu ủng hộ lý thuyết Tập trung – Bất ổn, cho rằng NIM có mối quan hệ ngược chiều với ổn định tài chính trong ngành ngân hàng Cụ thể, khi thu nhập lãi thuần tăng lên, ngân hàng có nguy cơ gặp rủi ro phá sản cao hơn Tuy nhiên, không thể phủ nhận rằng NIM đóng vai trò quan trọng trong việc gia tăng lợi nhuận của ngân hàng, từ đó góp phần nâng cao sự ổn định theo lý thuyết Tập trung Do đó, NIM là một biến đặc biệt có ý nghĩa trong nghiên cứu và phân tích, được nhiều tác giả như Ben Ali và cộng sự đề cập đến trong các công trình của họ.

(2015) và Bretschger và ctg (2012) Biến NIM đƣợc tính bằng công thức:

Giả thuyết H 3 : Tỷ số thu nhập lãi thuần ảnh hưởng tiêu cực đến ổn định tài chính trong ngành ngân hàng

3.4.5 Tỷ số vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản – CTA

Tỷ số vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản (CTA) của ngân hàng là một chỉ số quan trọng phản ánh sự ổn định tài chính Theo nghiên cứu của Berger và các cộng sự (2009), giá trị cao của CTA cho thấy rủi ro của ngân hàng giảm đi đáng kể.

Vốn sở hữu đóng vai trò như một tấm đệm bảo vệ ngân hàng trước các rủi ro vĩ mô bên ngoài (2004) Keeley (1990) cũng chỉ ra rằng nguồn vốn điều lệ cao có thể ngăn chặn hành vi mạo hiểm quá mức của các nhà quản lý ngân hàng Tuy nhiên, giá trị của vốn sở hữu còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác liên quan đến pháp lý và an toàn tài chính của từng quốc gia trong từng thời kỳ cụ thể Công thức tính toán vốn sở hữu được xác định như sau:

Giả thuyết H4: Tỷ số vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản ảnh hưởng tích cực đến ổn định tài chính trong ngành ngân hàng

3.4.6 Tỷ số chi phí trên thu nhập – CIR

Tỷ lệ chi phí trên thu nhập (CIR) là chỉ số quan trọng phản ánh hiệu quả hoạt động của ngân hàng, được tính bằng tỷ số giữa chi phí hoạt động và thu nhập Các yếu tố chính cấu thành chi phí hoạt động bao gồm chi phí hành chính, lương nhân viên và lợi ích, cùng với chi phí tài sản, tất cả đều liên quan đến việc điều hành ngân hàng Nhiều nghiên cứu trong lĩnh vực ngân hàng, như của Ben Ali và cộng sự (2015), Bretschger và cộng sự (2012), cùng Uhde và Heimeshoff (2009), đã sử dụng CIR như một biến đặc thù để phân tích hiệu quả hoạt động của ngành.

Giả thuyết H 5 : Cơ cấu chi phí trên thu nhập ảnh hưởng tiêu cựu đến ổn định tài chính trong ngành ngân hàng

3.4.7 Tỷ lệ nợ xấu – NLR

Kasman, S và Kasman, A (2015), Berger và ctg (2009) và Chang và ctg

Theo nghiên cứu năm 2008, mức NLR cao không được kiểm soát có thể dẫn đến sự thất bại của ngân hàng, làm giảm lợi nhuận và gia tăng rủi ro tổng thể Vì vậy, NLR là một chỉ số vĩ mô quan trọng cần được giám sát bởi các nhà quản lý để đánh giá tính khả thi của hệ thống ngân hàng NLR thường được tính bằng cách

NLR it = Tổng các khoản vay quá hạn từ 90 ngày trở lên

Giả thuyết H 6 : Tỷ lệ nợ xấu ảnh hưởng tiêu cực đến ổn định tài chính trong ngành ngân hàng

3.4.8 Tỷ lệ tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội GDP – GDPG

Tỷ lệ tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDPG) là chỉ số quan trọng được nhiều tác giả nghiên cứu, cho thấy ảnh hưởng tích cực đến ổn định tài chính, như Karkowska và Pawlowska (2017), Ben Ali và cộng sự (2015), Mirzaei và cộng sự (2013), cùng Uhde và Heimeshoff (2009) GDPG được đo lường theo phần trăm, phản ánh tốc độ thay đổi của GDP thực (GDPr) đã được điều chỉnh theo lạm phát từ giai đoạn này sang giai đoạn khác, thường là từ năm này sang năm kế tiếp.

Giả thuyết H 7 : Tăng trưởng kinh tế ảnh hưởng tích cực đến ổn định tài chính trong ngành ngân hàng

3.4.9 Tỷ lệ lạm phát theo chỉ số giá CPI – INF

Lạm phát là sự gia tăng liên tục của mức giá chung của hàng hóa và dịch vụ trong một nền kinh tế, dẫn đến việc giảm sức mua của tiền tệ Tỷ lệ lạm phát, thường được đo bằng phần trăm thay đổi hàng năm trong chỉ số giá tiêu dùng, là thước đo chính của lạm phát Nghiên cứu của các tác giả như Ben Ali và cộng sự (2015), Uhde và Heimeshoff (2009), Chang và cộng sự (2008), và Beck và cộng sự (2006a) đã chỉ ra rằng tỷ lệ lạm phát là yếu tố quan trọng trong việc phân tích tác động của sự tập trung thị trường lên ổn định tài chính trong ngành ngân hàng.

Giả thuyết H 8 : Lạm phát ảnh hưởng tiêu cực đến ổn định tài chính trong ngành ngân hàng.

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Ngày đăng: 12/01/2022, 23:18

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Bảng 3.1: Tóm tắt các biến và kỳ vọng dấu của các biến trong mô hình - Tác động của tập trung thị trường lên ổn định tài chính trong ngành ngân hàng tại các nền kinh tế mới nổi1
Bảng 3.1 Tóm tắt các biến và kỳ vọng dấu của các biến trong mô hình (Trang 49)
Bảng 4.1: Bảng thống kê mô tả các biến trong mô hình nghiên cứu - Tác động của tập trung thị trường lên ổn định tài chính trong ngành ngân hàng tại các nền kinh tế mới nổi1
Bảng 4.1 Bảng thống kê mô tả các biến trong mô hình nghiên cứu (Trang 56)
Bảng 4.2: Ma trận hệ số tương quan - Tác động của tập trung thị trường lên ổn định tài chính trong ngành ngân hàng tại các nền kinh tế mới nổi1
Bảng 4.2 Ma trận hệ số tương quan (Trang 60)
Bảng  4.2  thể  hiện  ma  trận  hệ  số  tương  quan  giữa  các  cặp  biến  với  giá  trị  p-value  được  đặt  trong  dấu  ngoặc  đơn - Tác động của tập trung thị trường lên ổn định tài chính trong ngành ngân hàng tại các nền kinh tế mới nổi1
ng 4.2 thể hiện ma trận hệ số tương quan giữa các cặp biến với giá trị p-value được đặt trong dấu ngoặc đơn (Trang 60)
Bảng 4.3: Tổng hợp kết quả hồi quy theo phương pháp Pooled OLS, FEM và  REM - Tác động của tập trung thị trường lên ổn định tài chính trong ngành ngân hàng tại các nền kinh tế mới nổi1
Bảng 4.3 Tổng hợp kết quả hồi quy theo phương pháp Pooled OLS, FEM và REM (Trang 61)
Bảng 4.4: Kết quả kiểm định tự tương quan và phương sai sai số thay đổi - Tác động của tập trung thị trường lên ổn định tài chính trong ngành ngân hàng tại các nền kinh tế mới nổi1
Bảng 4.4 Kết quả kiểm định tự tương quan và phương sai sai số thay đổi (Trang 64)
Bảng  4.5:  Tổng  hợp  kết  quả  hồi  quy  theo  phương  pháp  Pooled  OLS,  FEM,  REM và GLS - Tác động của tập trung thị trường lên ổn định tài chính trong ngành ngân hàng tại các nền kinh tế mới nổi1
ng 4.5: Tổng hợp kết quả hồi quy theo phương pháp Pooled OLS, FEM, REM và GLS (Trang 65)
Bảng  4.6:  Tổng  hợp  kết  quả  hồi  quy  theo  phương  pháp  Pooled  OLS,  FEM,  REM, GLS và GMM - Tác động của tập trung thị trường lên ổn định tài chính trong ngành ngân hàng tại các nền kinh tế mới nổi1
ng 4.6: Tổng hợp kết quả hồi quy theo phương pháp Pooled OLS, FEM, REM, GLS và GMM (Trang 68)
Bảng 4.7: Tóm tắt kết quả hồi quy theo phương pháp GMM - Tác động của tập trung thị trường lên ổn định tài chính trong ngành ngân hàng tại các nền kinh tế mới nổi1
Bảng 4.7 Tóm tắt kết quả hồi quy theo phương pháp GMM (Trang 70)

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w