1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Ảnh hưởng của rủi ro thanh khoản đến rủi ro phá sản ngân hàng

76 12 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Ảnh Hưởng Của Rủi Ro Thanh Khoản Đến Rủi Ro Phá Sản Ngân Hàng
Tác giả Nguyễn Hồ Thiên Lý
Người hướng dẫn TS. Dương Quỳnh Nga
Trường học Trường Đại Học Mở Tp.Hcm
Chuyên ngành Tài Chính - Ngân Hàng
Thể loại luận văn thạc sỹ
Năm xuất bản 2018
Thành phố Tp. Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 76
Dung lượng 1,37 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN (11)
    • 1.1 Tính cấp thiết của luận văn (11)
    • 1.2 Vấn đề nghiên cứu (13)
    • 1.3 Mục tiêu nghiên cứu (14)
    • 1.4 Câu hỏi nghiên cứu (15)
    • 1.5 Phạm vi và đối tượng nghiên cứu (15)
    • 1.6 Phương pháp nghiên cứu (16)
    • 1.7 Ý nghĩa nghiên cứu (16)
    • 1.8 Kết cấu của luận văn (17)
  • CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT (19)
    • 2.1 Lý thuyết về rủi ro trong kinh doanh Ngân hàng thương mại (19)
      • 2.1.1 Định nghĩa rủi ro (19)
      • 2.1.2 Rủi ro trong kinh doanh Ngân hàng thương mại (20)
      • 2.1.3 Các loại rủi ro trong kinh doanh Ngân hàng thương mại (22)
    • 2.2 Rủi ro thanh khoản (28)
    • 2.3 Tính thanh khoản và rủi ro thanh khoản (29)
      • 2.3.1 Tính thanh khoản là gì? (29)
      • 2.3.2 Thanh khoản so với khả năng thanh toán (31)
      • 2.3.2 Các nguyên nhân dẫn đến rủi ro thanh khoản (32)
      • 2.3.3 Đo lường rủi ro thanh khoản các Ngân hàng thương mại (32)
    • 2.4 Rủi ro phá sản Ngân hàng (35)
      • 2.4.1 Khái niệm rủi ro phá sản Ngân hàng (35)
      • 2.4.2 Chỉ số đo lường rủi ro phá sản Ngân hàng (37)
    • 2.5 Mối quan hệ giữa rủi ro thanh khoản và rủi ro phá sản Ngân hàng (37)
    • 2.6 Các nghiên cứu trước về mối quan hệ giữa rủi ro thanh khoản và khả năng phá sản Ngân hàng (39)
    • 2.7 Giả thuyết nghiên cứu (41)
  • CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ MÔ HÌNH (43)
    • 3.1 Dữ liệu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu (0)
    • 3.2 Phương pháp xử lý số liệu (44)
    • 3.3 Mô hình nghiên cứu và các biến nghiên cứu (44)
      • 3.3.1 Mô hình nghiên cứu (44)
      • 3.3.2 Các biến nghiên cứu (49)
        • 3.3.2.1 Rủi ro phá sản Ngân hàng (49)
        • 3.3.2.2 Rủi ro thanh khoản (49)
        • 3.3.2.3 Tỷ lệ dư nợ cho vay trên tổng tài sản (49)
        • 3.3.2.4 Tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản (50)
        • 3.3.2.5 Tỷ lệ thu nhập lãi thuần (51)
        • 3.3.2.6 Tỷ lệ dự phòng nợ xấu (51)
        • 3.3.2.7 Quy mô Ngân hàng (52)
    • 3.4 Phương pháp nghiên cứu (52)
      • 3.4.1 Khảo sát và các kiểm định sử dụng (53)
        • 3.4.1.1 Trình bày thống kê mô tả dữ liệu (53)
        • 3.4.1.2 Khảo sát các cặp tương quan giữa các biến (53)
        • 3.4.1.3 Kiểm định mô hình (53)
        • 3.4.1.4 Đánh giá độ phù hợp của mô hình hồi quy (54)
        • 3.4.1.4 Kiểm định tự tương quan của phần dư (55)
        • 3.4.1.5 Kiểm định tính ổn định kết quả nghiên cứu (55)
  • CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU (0)
    • 4.1 Thống kê mô tả (57)
    • 4.1 Phân tích tương quan giữa các biến trong nghiên cứu (59)
    • 4.2 Kết quả hồi quy và các kiểm định (60)
    • 4.3 Phân tích kết quả hồi quy (62)
      • 4.3.1 Rủi ro thanh khoản (62)
      • 4.3.2 Biến tỷ lệ dư nợ cho vay trên tổng tài sản (LOAN/TA) (63)
      • 4.3.3 Biến tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản (ETA) (63)
      • 4.3.4 Biến tỷ lệ thu nhập lãi thuần (NIR) (64)
      • 4.3.5 Biến tỷ lệ dự phòng nợ xấu (LLR) (65)
      • 4.3.6 Biến quy mô Ngân hàng (SIZE) (65)
  • CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN (67)
    • 5.1 Tóm tắt kết quả nghiên cứu (67)
    • 5.2 Đóng góp của đề tài (69)
      • 5.2.1. Đóng góp về mặt khoa học (69)
      • 5.2.2 Đóng góp về mặt thực tiễn (69)
    • 5.3 Kiến nghị (70)
    • 5.4 Hạn chế và hướng nghiên cứu tiếp theo của luận văn (70)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (72)
  • PHỤ LỤC (76)

Nội dung

TỔNG QUAN

Tính cấp thiết của luận văn

Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu khởi phát từ sự gián đoạn và hỗn loạn trên các thị trường tài chính, khiến nhiều tổ chức tài chính không thể vay mượn vốn ngắn hạn, ảnh hưởng tiêu cực đến thanh khoản hệ thống ngân hàng và gây bất ổn kinh tế vĩ mô Vụ sụp đổ của Ngân hàng Lehman Brothers vào ngày 15 tháng 9 năm 2008 là một ví dụ điển hình, khi ngân hàng này không thể duy trì tính thanh khoản do các khoản cho vay bất động sản không được trả nợ Trong bối cảnh kinh tế suy thoái, giá bất động sản giảm, kéo theo sự sụt giảm giá trị của trái phiếu đảm bảo cho những khoản vay này, làm gia tăng rủi ro tín dụng Hơn nữa, áp lực từ các chủ nợ như JPMorgan và Citigroup đã đẩy Lehman đến bờ vực phá sản nhanh chóng.

Năm 2008 chứng kiến sự sụp đổ của nhiều ngân hàng trên thế giới do đầu tư vào bất động sản, điển hình là Ngân hàng Lehman Brothers Ngân hàng Washington Mutual, ngân hàng lớn thứ sáu tại Mỹ, đã phá sản chỉ 10 ngày sau Lehman, vào ngày 26 tháng 9 năm 2008, với nguyên nhân chính cũng liên quan đến đầu tư bất động sản và rủi ro tín dụng gia tăng.

Ngân hàng Northern Rock của Anh đã yêu cầu hỗ trợ thanh khoản vào ngày 17 tháng 9 năm 2007, sau khi cùng với Lehman đầu tư vào lĩnh vực cho vay thế chấp bằng bất động sản trong năm 2006 Tuy nhiên, khủng hoảng thị trường nhà đất và tín dụng đã khiến ngân hàng này rơi vào tình trạng gần phá sản Vào ngày 22 tháng 3 năm 2008, Northern Rock đã được chính phủ Anh tiếp quản.

Trong thời gian gần đây, nhiều ngân hàng đã gặp khó khăn và sụp đổ chủ yếu do mất tính thanh khoản ngắn hạn, gia tăng rủi ro tín dụng, cùng với rủi ro từ thị trường bất động sản, tất cả đều góp phần quan trọng vào sự phá sản của các doanh nghiệp này.

Tại Việt Nam, hệ thống ngân hàng đã trải qua hai lần tái cấu trúc nhằm đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động Hiện nay, các ngân hàng đang chú trọng hơn đến chỉ số nợ xấu, trong khi Ngân hàng Nhà nước đang kiểm soát quá trình giải thể hoặc sáp nhập của các ngân hàng thương mại để giảm thiểu tác động tiêu cực đến nền kinh tế.

Gần đây, nhiều ngân hàng đã tiến hành sáp nhập hoặc bị mua lại với giá 0 đồng, dẫn đến sự quan tâm nghiên cứu về nguyên nhân hoạt động kém hiệu quả của các ngân hàng Mặc dù có ít nghiên cứu về chỉ số phá sản do thiếu thông tin về các doanh nghiệp đã phá sản, một số nghiên cứu đã chỉ ra các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng phá sản, đặc biệt trong ngành ngân hàng Nghiên cứu của Nguyễn Thanh Dương (2013) đã xác định các yếu tố này trong bối cảnh các ngân hàng tại Việt Nam.

Nghiên cứu toàn cầu đã chỉ ra rằng việc nhận diện rủi ro thanh khoản trong hệ thống ngân hàng có thể thực hiện thông qua phân tích các chỉ số cụ thể Các chỉ số thanh khoản này đóng vai trò quan trọng trong việc cảnh báo khả năng xảy ra rủi ro, giúp các nhà hoạch định chính sách đưa ra quyết định kịp thời và hiệu quả.

Trang 3 nhà quản trị ngân hàng có những biện pháp ứng phó kịp thời giúp ngăn chặn khủng hoảng thanh khoản xảy ra và lan rộng

Một trong những nguyên nhân chính dẫn đến khả năng phá sản của ngân hàng là nguồn vốn ngắn hạn và chỉ tiêu tài sản thanh khoản Nguồn vốn ngắn hạn, huy động trong thời gian dưới 1 năm, cần được sử dụng hợp lý để đảm bảo khả năng hoàn trả đúng hạn và duy trì tính thanh khoản Nhiều ngân hàng gặp khó khăn do đầu tư không hợp lý, chủ yếu vào bất động sản - một sản phẩm đầu tư dài hạn, dẫn đến mất tính thanh khoản Khi khách hàng và người cho vay yêu cầu rút vốn, ngân hàng không thể đáp ứng do đã đầu tư quá nhiều vào các dự án dài hạn, từ đó có nguy cơ phá sản.

Vì lý do trên, luận văn nghiên cứu rủi ro thanh ảnh hưởng đến khả năng phá sản của các Ngân hàng thương mại tại Việt Nam.

Vấn đề nghiên cứu

Ngân hàng thương mại là tổ chức tín dụng thực hiện các hoạt động ngân hàng và dịch vụ liên quan, được thành lập theo quy định của Luật tổ chức tín dụng Chức năng chính của ngân hàng thương mại bao gồm trung gian tài chính, tạo tiền và cung cấp dịch vụ Ngân hàng đóng vai trò trung gian giữa khách hàng, ngân hàng trung ương và công chúng, đồng thời tạo ra bút tệ, góp phần gia tăng khối tiền tệ nhằm phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế.

Ngân hàng thương mại thực hiện các hoạt động chính như huy động vốn, cấp tín dụng, thanh toán và quản lý ngân quỹ Hệ thống ngân hàng đóng vai trò nòng cốt trong nền kinh tế quốc gia, ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển kinh tế Những sự kiện sụp đổ ngân hàng không chỉ tác động tiêu cực đến nền kinh tế của quốc gia bị ảnh hưởng mà còn có khả năng lan rộng đến các quốc gia khác, gây ra hệ lụy toàn cầu.

Hiện nay, các ngân hàng cần đảm bảo tính thanh khoản để đáp ứng nhu cầu của khách hàng đồng thời tối đa hóa lợi nhuận Điều này đòi hỏi các ngân hàng phải có chiến lược phù hợp nhằm bảo đảm nhu cầu của khách hàng và đầu tư vốn hiệu quả nhất.

Thanh khoản của ngân hàng là một yếu tố quan trọng trong hoạt động kinh doanh, vì khi ngân hàng mất tính thanh khoản, nguy cơ phá sản sẽ gia tăng, ảnh hưởng đến sự ổn định của hệ thống tài chính Sự kiện rủi ro thanh khoản xảy ra tại Ngân hàng TMCP Á Châu vào năm 2003 đã làm tăng nhận thức về vấn đề này Do đó, luận văn này sẽ tập trung nghiên cứu mối quan hệ giữa rủi ro thanh khoản và nguy cơ phá sản của ngân hàng.

Mục tiêu nghiên cứu

Trong lĩnh vực Ngân hàng thương mại, các ngân hàng phải đối mặt với nhiều loại rủi ro, bao gồm rủi ro tín dụng, rủi ro tỷ giá hối đoái và rủi ro thanh khoản, tất cả đều có thể ảnh hưởng đến nguy cơ phá sản của ngân hàng Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra các yếu tố tác động đến rủi ro phá sản, phân tích mối liên hệ giữa rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất và rủi ro thanh khoản Tác giả tập trung vào việc nghiên cứu tác động của rủi ro thanh khoản đối với rủi ro phá sản của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam.

Câu hỏi nghiên cứu

Để đạt được mục tiêu nghiên cứu ở trên, câu hỏi nghiên cứu được đặt ra:

Rủi ro thanh khoản có ảnh hưởng đến rủi ro phá sản Ngân hàng thương mại Việt Nam hay không?

Nếu có, mức độ ảnh hưởng của rủi ro thanh khoản đến rủi ro phá sản Ngân hàng thương mại như thế nào?

Phạm vi và đối tượng nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu mối quan hệ giữa rủi ro thanh khoản và rủi ro phá sản của 25 ngân hàng thương mại tại Việt Nam trong giai đoạn 2008-2017 Giai đoạn trước 2008 diễn ra trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế, khiến các chỉ số tài chính không phản ánh đúng thực trạng hoạt động của doanh nghiệp Ngược lại, giai đoạn 2008 trở đi là thời kỳ phục hồi sau khủng hoảng, do đó các chỉ số tài chính trở nên đáng tin cậy hơn Nghiên cứu loại trừ các ngân hàng thương mại TNHH MTV do nhà nước sở hữu, bao gồm Ngân hàng Xây dựng, Ngân hàng Đại Dương, Ngân hàng Dầu khí Toàn Cầu và Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, do thiếu dữ liệu tài chính đầy đủ trong giai đoạn nghiên cứu.

Dữ liệu nghiên cứu được thu thập từ báo cáo tài chính đã được kiểm toán của 25 ngân hàng niêm yết trên sàn, trong giai đoạn từ năm 2008 đến năm 2017.

Phương pháp nghiên cứu

Luận văn này áp dụng phương pháp nghiên cứu định lượng, tập trung vào phân tích hồi quy với dữ liệu bảng (Panel regression) Các kiểm định như kiểm định Hausman được sử dụng để xác định mô hình hồi quy tác động cố định (FEM) hoặc tác động ngẫu nhiên (REM) Ngoài ra, luận văn cũng thực hiện kiểm định đa cộng tuyến, kiểm định tự tương quan của phần dư và kiểm định tính phù hợp của mô hình hồi quy nhằm phân tích ảnh hưởng của yếu tố rủi ro thanh khoản đến rủi ro phá sản của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn 2008 đến 2017.

Dữ liệu nghiên cứu được thu thập từ báo cáo tài chính đã được kiểm toán của 25 ngân hàng, trong giai đoạn từ năm 2008 đến năm 2017, được niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán.

Ý nghĩa nghiên cứu

Nghiên cứu tác động của rủi ro thanh khoản đến rủi ro phá sản ngân hàng không phải là vấn đề mới, đã có nhiều luận văn trong và ngoài nước phân tích chủ đề này Mỗi nghiên cứu đều có những điểm khác biệt về phương pháp chọn mẫu, phạm vi nghiên cứu, và cách thức đo lường các biến độc lập Chẳng hạn, một số nghiên cứu chỉ tập trung vào một quốc gia, trong khi những nghiên cứu khác mở rộng ra nhiều quốc gia hoặc thậm chí là một châu lục.

Trong các nghiên cứu trước đây, nhiều tác giả đã tập trung vào việc phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro phá sản của ngân hàng thương mại Họ thường sử dụng những biến độc lập khác nhau để khảo sát mối quan hệ này.

Trang 7 biến độc lập này với rủi ro phá sản của Ngân hàng Vì vậy, việc đánh giá kết quả về sự ảnh hưởng của các biến đối với rủi ro phá sản Ngân hàng là chung chung theo giả thuyết nghiên cứu mà không tập trung nghiên cứu một biến nào cụ thể

Luận văn này tập trung nghiên cứu tác động của biến rủi ro thanh khoản đến rủi ro phá sản của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn 2008 - 2017, phát triển từ những nghiên cứu trước đó.

Kết quả nghiên cứu từ luận văn cho thấy mối quan hệ giữa rủi ro thanh khoản và rủi ro phá sản, từ đó mở ra hướng nghiên cứu về mức độ rủi ro thanh khoản ảnh hưởng đến lợi nhuận của ngân hàng Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng mức độ thanh khoản có thể dẫn đến rủi ro phá sản cho ngân hàng, tạo điều kiện cho các nhà quản lý và nhà đầu tư hiểu rõ hơn về các yếu tố ảnh hưởng đến sự ổn định tài chính.

Khi rủi ro thanh khoản gia tăng, nó dẫn đến nguy cơ phá sản cao hơn, và điều này ảnh hưởng đến quyết định đầu tư cũng như dự phòng tại các ngân hàng Do đó, các nhà lãnh đạo ngân hàng cần xác định chính sách về mức độ thanh khoản phù hợp để đảm bảo sự ổn định cho tổ chức của mình.

Nghiên cứu luận văn về yếu tố rủi ro thanh khoản và ảnh hưởng của nó đến rủi ro phá sản của ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn 2008 - 2017 mang lại ý nghĩa quan trọng, với những đóng góp giá trị cho cả lĩnh vực khoa học và thực tiễn.

Kết cấu của luận văn

Luận văn được trình bày theo năm chương Các chương được bố cục như sau:

Chương 1 giới thiệu tổng quan nghiên cứu và giải thích ý nghĩa khi thực hiện luận văn nghiên cứu này Nội dung của chương bao gồm tóm lượt lý do nghiên cứu, vấn đề nghiên cứu, lý do nghiên cứu, mục tiêu nghiên cứu, câu hỏi nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu Ngoài ra,

Trang 8 chương này cũng thảo luận những đóng góp có được từ kết quả thực nghiệm của nghiên cứu

Chương 2 là chương cơ sở lý thuyết nền tảng thực hiện nghiên cứu, với nội dung của chương này được sử dụng để làm cơ sở, nền tảng của luận văn Trong chương này gồm cơ sở lý thuyết về rủi ro thanh khoản và khả năng phá sản Ngân hàng với những nghiên cứu thực nghiệm trước đây về các yếu tố tác động đến rủi ro phá sản Ngân hàng Thêm vào đó, căn cứ vào những luận điểm, những nghiên cứu đã được lược khảo sẽ làm cơ sở xây dựng các giả thuyết nghiên cứu và đưa ra mô hình nghiên cứu đề xuất của luận văn trong chương tiếp theo

Chương 3 sẽ đưa ra mô hình và phương pháp nghiên cứu, trong đó nêu rõ cách thức chọn mẫu và đo lường các biến nghiên cứu sẽ được trình bày rõ trong chương này

Chương 4 sẽ trình bày kết quả nghiên cứu thực nghiệm và những thảo luận từ kết quả nghiên cứu Dựa trên kết quả nghiên cứu, các giả thuyết nghiên cứu sẽ được chấp nhận hay bác bỏ

Chương 5 tổng kết các kết quả nghiên cứu chính từ chương trước, đồng thời trình bày những đóng góp quan trọng của nghiên cứu Chương này cũng chỉ ra những giới hạn trong nghiên cứu và đưa ra khuyến nghị cho các nghiên cứu tiếp theo.

CƠ SỞ LÝ THUYẾT

Lý thuyết về rủi ro trong kinh doanh Ngân hàng thương mại

Rủi ro là yếu tố không thể tránh khỏi trong mọi loại hình kinh doanh, như được nêu bởi Theo Duttweiler (2008) Định nghĩa về rủi ro thường xoay quanh những tổn thất mà doanh nghiệp phải chịu trong quá trình hoạt động, hay những bất trắc dẫn đến mất mát và thiệt hại Tất cả các định nghĩa đều nhấn mạnh rằng rủi ro mang lại những hậu quả tiêu cực và xảy ra ngoài mong muốn Dù không thể loại bỏ hoàn toàn rủi ro trong môi trường kinh doanh, chúng ta có thể nghiên cứu, nhận biết và tìm cách hạn chế nó ở mức thấp nhất.

Theo quan điểm truyền thống, rủi ro được định nghĩa là những thiệt hại, mất mát, và nguy hiểm, cũng như các yếu tố có thể gây tổn thất hoặc khó khăn, dẫn đến những tình huống không chắc chắn.

Theo quan điểm trung hòa, rủi ro được định nghĩa là những yếu tố không chắc chắn hoặc tình trạng bất ổn có thể xảy ra Mặc dù không phải rủi ro nào cũng có khả năng xảy ra, nhưng chúng thường mang tính chất tiêu cực, gây tổn thất và nguy hiểm Tuy nhiên, bên cạnh những tác động tiêu cực, rủi ro cũng có thể mang lại cơ hội lớn hơn cho sự phát triển và thành công.

2.1.2 Rủi ro trong kinh doanh Ngân hàng thương mại

Kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng, đặc biệt là tại các ngân hàng thương mại, là một trong những lĩnh vực có nhiều rủi ro do tính chất đặc thù của việc giao dịch và quản lý tiền tệ.

Ngân hàng đối mặt với nhiều rủi ro trong hoạt động kinh doanh, bao gồm cả nguyên nhân khách quan và chủ quan Tuy nhiên, rủi ro trong ngân hàng có những đặc điểm riêng biệt so với các lĩnh vực khác, đặc biệt là về mức độ và nguyên nhân Rủi ro trong ngành ngân hàng có tính lan truyền mạnh mẽ, gây ra hậu quả lớn không chỉ cho bản thân ngành mà còn cho toàn bộ nền kinh tế, ảnh hưởng đến nhiều quốc gia trên thế giới.

Ngân hàng thương mại (NHTM) là loại ngân hàng hoạt động trực tiếp với doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân, thông qua việc nhận tiền gửi và tiết kiệm NHTM sử dụng nguồn vốn này để cho vay, chiết khấu, cung cấp các phương tiện thanh toán và dịch vụ ngân hàng Sự phổ biến của NHTM trong nền kinh tế cho thấy rằng, nơi nào có hệ thống NHTM phát triển, nơi đó sẽ có sự phát triển nhanh chóng của kinh tế xã hội.

Rủi ro trong ngân hàng được định nghĩa là những biến động không lường trước có thể dẫn đến tổn thất tài sản, giảm lợi nhuận thực tế so với dự kiến, hoặc yêu cầu chi phí bổ sung để hoàn tất các nghiệp vụ tài chính.

Theo Luật Tổ chức tín dụng năm 2010, Ngân hàng Thương mại (NHTM) được định nghĩa là loại ngân hàng có khả năng thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng cũng như các hoạt động kinh doanh khác theo quy định, với mục tiêu chính là tạo ra lợi nhuận.

Ngân hàng thương mại (NHTM) là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt với sản phẩm kinh doanh chủ yếu là tiền tệ, tín dụng và các dịch vụ ngân hàng, có liên quan trực tiếp đến mọi lĩnh vực trong xã hội và đời sống kinh tế Do tính chất nhạy cảm của sản phẩm kinh doanh, NHTM yêu cầu sự cẩn thận và chính xác, vì sai sót có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến ngành ngân hàng và nền kinh tế NHTM hoạt động như một tổ chức trung gian tài chính, phân phối vốn huy động đến những người có nhu cầu chi tiêu và đầu tư, dựa trên niềm tin của người gửi tiền Hoạt động của ngân hàng phải luôn chịu sự giám sát chặt chẽ từ pháp luật, vì những biến động nhỏ như thay đổi lãi suất hay chính sách sản phẩm có thể tác động lớn đến hoạt động kinh doanh Nếu NHTM hoạt động hiệu quả, sẽ góp phần tiết kiệm nguồn lực và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; ngược lại, sự không ổn định trong hoạt động ngân hàng có thể gây tổn thất cho nền kinh tế và ảnh hưởng tiêu cực đến các đối tượng liên quan.

Khi một ngân hàng phá sản, người gửi tiền sẽ chịu ảnh hưởng trực tiếp, và sự kiện này không chỉ tác động đến ngân hàng đó mà còn lan rộng ra toàn bộ nền kinh tế Do đó, việc giám sát chặt chẽ và thường xuyên hệ thống ngân hàng thông qua các quy định pháp luật là rất cần thiết Giám sát này thực chất là một phần của quản trị rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng.

Theo Nguyễn Thị Mùi (2006), Quản trị Ngân hàng thương mại, khi đề cập đến rủi ro người ta thường đề cập đến hai yếu tố mang tính đặc trưng:

+ Biên độ rủi ro: thể hiện mức độ thiệt hại do rủi ro gây ra

+ Tấn suất xuất hiện rủi ro = KP/P KP: số trường hợp thuận lợi để rủi ro xuất hiện

P: Số trường hợp đồng khả năng

Quản trị rủi ro trong kinh doanh ngân hàng, theo Trần Huy Hoàng (2010), bao gồm các bước quan trọng như nhận dạng, phân tích, đo lường, kiểm soát và tài trợ rủi ro Để giảm thiểu tổn thất do rủi ro gây ra, việc phân biệt các loại rủi ro là rất cần thiết.

Sự phá sản của ngân hàng thường do những rủi ro trong kinh doanh gây ra, bao gồm rủi ro nội tại, rủi ro ngành và rủi ro từ các ngành khác trong nền kinh tế Các rủi ro phổ biến mà ngân hàng phải đối mặt bao gồm rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất, rủi ro thanh khoản, rủi ro hối đoái, rủi ro phá sản và rủi ro hoạt động.

2.1.3 Các loại rủi ro trong kinh doanh Ngân hàng thương mại

Rủi ro tín dụng là nguy cơ xảy ra khi một hoặc nhiều bên trong hợp đồng tín dụng không thể thực hiện nghĩa vụ thanh toán Đối với ngân hàng thương mại (NHTM), rủi ro này xuất hiện khi ngân hàng không thu hồi được đầy đủ gốc và lãi của các khoản vay hoặc khi khách hàng thanh toán không đúng hạn Rủi ro tín dụng không chỉ liên quan đến hoạt động cho vay mà còn ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực khác của NHTM như bảo lãnh, tài trợ và cho thuê tài chính.

Rủi ro tín dụng là một vấn đề phức tạp, tồn tại trong suốt vòng đời của khoản vay và có thể dẫn đến các tình huống như khoản vay không thu hồi được, nợ quá hạn, nợ khó đòi và mất vốn Để đánh giá mức độ rủi ro tín dụng, các chỉ tiêu quan trọng thường được sử dụng bao gồm tỷ lệ nợ quá hạn so với tổng dư nợ và tỷ lệ nợ.

Trang 13 khó đòi/Tổng dư nợ quá hạn Các chỉ tiêu này càng nhỏ thể hiện chất lượng tín dụng của Ngân hàng càng cao và rủi ro tín dụng càng thấp

Rủi ro thanh khoản

Theo Trần Huy Hoàng (2010), rủi ro thanh khoản xảy ra khi ngân hàng không đủ khả năng chi trả, không thể chuyển đổi tài sản thành tiền kịp thời hoặc không có khả năng vay mượn để đáp ứng nhu cầu thanh toán Nghiên cứu gần đây cho thấy, hiện tượng thiếu hụt thanh khoản thường là dấu hiệu đầu tiên cho thấy ngân hàng đang gặp khó khăn.

Rủi ro trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại có thể ảnh hưởng khác nhau đến ngân hàng và khách hàng Trong số đó, rủi ro thanh khoản là một yếu tố quan trọng, có tác động lớn đến sự tồn tại và phát triển của ngân hàng.

Khi rủi ro thanh khoản xảy ra, ngân hàng sẽ thiếu vốn khả dụng và mất khả năng thanh toán, dẫn đến sự giảm sút lòng tin của khách hàng Tình trạng này có thể gây ra rút vốn ồ ạt, làm tăng thêm khó khăn cho ngân hàng Nếu ngân hàng không đáp ứng được nhu cầu, nguy cơ phá sản sẽ trở nên nghiêm trọng hơn.

Trang 19 trên mà các Ngân hàng thương mại luôn phải quan tâm đến việc dự trữ thanh khoản, các loại tài sản thanh khoản cao

Một số dấu hiệu của rủi ro thanh khoản như:

+ Tốc độ tăng các khoản vay lớn hơn tốc độ tăng các khoản tiền gửi + Dư luận xấu trên thị trường

+ Chỉ số tín dụng tín nhiệm giảm

+ Chi phí tài trợ vốn trên thị trường bán lẻ, bán buôn tăng

+ Tiền gửi có kỳ hạn bị rút trước hạn tăng

Tính thanh khoản và rủi ro thanh khoản

2.3.1 Tính thanh khoản là gì? Để đề cập tới một loại tài sản thanh khoản nghĩa là đề cập tới tính thanh khoản của tài sản đó Đầu tiên cần nhắc tới “tính thanh khoản”, thanh khoản không phải là một số tiền nào đó, cũng không phải là một tỷ lệ, thay vào đó nó thể hiện phạm vi khả năng thực hiện các nghĩa vụ thanh toán của một Ngân hàng Trái ngược với nó nghĩa là “thiếu khả năng thanh khoản”, nghĩa là một Ngân hàng thiếu khả năng thực hiện các nghĩa vụ thanh toán Theo nghĩa này, Duttweiler (2008 - trang 29) có đề cập tính thanh khoản đại diện cho yếu tố định lượng về năng lực tài chính của một Ngân hàng hoặc một tổ chức

Thanh khoản, theo Duttweiler (2008), là khả năng thực hiện tất cả nghĩa vụ thanh toán đúng hạn bằng đơn vị tiền tệ quy định Nó liên quan trực tiếp đến dòng lưu chuyển tiền tệ và được thực hiện bằng tiền mặt Khi không thể thực hiện nghĩa vụ thanh toán, tình trạng thiếu khả năng thanh khoản sẽ xảy ra.

Trang 20 nghĩa là khả năng thực hiện nghĩa vụ thanh toán vào thời điểm phát sinh Một Ngân hàng không đảm bảo được tính thanh khoản sẽ dẫn tới nguy cơ không thể thực hiện các nghĩa ụ thanh toán, kéo theo những hậu quả không mong muốn

Hiện nay, không có cách nào đảm bảo rằng tình trạng tài chính của một ngân hàng có thể được dự báo chính xác trong vài năm tới, và thị trường cũng khó có thể dự đoán Do đó, việc cấp vốn từ thị trường phụ thuộc vào khả năng tài chính vững mạnh của tổ chức vay Một số tài sản có thể chuyển nhượng và dễ dàng chuyển đổi thành tiền mặt thông qua bán hoặc tham gia thị trường Khi điều kiện của các công cụ tài chính thay đổi, giá trị thanh khoản của những tài sản này cũng sẽ thay đổi Đặc tính của nguồn thanh khoản được phân biệt theo tính sẵn có, cơ cấu đáo hạn, cấu trúc chi phí và rủi ro thanh khoản.

Tính thanh khoản không phải lúc nào cũng hiện hữu và có thể thay đổi theo thời gian và địa điểm Các khoản thanh toán cần được thực hiện đúng hạn; nếu không, ngân hàng sẽ bị đánh giá là thiếu khả năng thanh khoản Theo Phan Thị Thu Hà (2009, trang 181), thanh khoản được hiểu là khả năng chuyển đổi thành tiền, được đo lường qua thời gian và chi phí Thời gian và chi phí càng cao thì tính thanh khoản của tài sản càng thấp và ngược lại.

Tính thanh khoản của tài sản thể hiện mức độ tổn thất khi chuyển đổi tài sản thành tiền trong thời gian nhất định Đôi khi, việc bán nhanh một tài sản có thể dẫn đến chi phí cao, cho thấy rằng tính thanh khoản phụ thuộc vào nhiều yếu tố và có thể thay đổi theo thời gian cũng như giữa các khu vực và quốc gia khác nhau.

Khi các khoản thanh toán diễn ra giữa các bên cách xa về địa lý, việc sử dụng ngoại tệ là cần thiết, tuy nhiên, điều này có thể dẫn đến tình trạng thiếu thanh khoản không chỉ ở các loại tiền tệ chính mà còn ảnh hưởng đến các loại tiền ít phổ biến hơn, gây ra nhiều hệ lụy nghiêm trọng.

Theo Phan Thị Thu Hà (2009), quản lý thanh khoản không chỉ áp dụng cho các ngân hàng thương mại mà còn cho các trung gian tài chính dựa trên tiền gửi Sự khác biệt trong quản lý thanh khoản xuất phát từ tính chất địa lý, quy mô và điều kiện pháp lý của từng tổ chức.

Theo Basel (2000), khả năng thanh khoản là yếu tố quan trọng quyết định sự tồn tại của ngân hàng, liên quan đến khả năng đáp ứng nguồn vốn cho sự gia tăng tài sản và thanh toán nợ đúng hạn Nếu ngân hàng không thể chuyển đổi tài sản thành tiền mặt khi cần, điều này dẫn đến thanh khoản kém và khả năng trả nợ sẽ bị ảnh hưởng Tuy nhiên, thanh khoản kém không nhất thiết đồng nghĩa với việc vỡ nợ, miễn là tài sản vẫn có thể bán được trong dài hạn Rủi ro gia tăng khi tài sản hoàn toàn không có tính thanh khoản, dẫn đến ngân hàng không thể thanh toán các khoản tiền gửi và nghĩa vụ tài chính, từ đó có nguy cơ rơi vào tình trạng vỡ nợ và phá sản.

2.3.2 Thanh khoản so với khả năng thanh toán

Khả năng thanh toán, theo Duttweiler (2010), là khả năng bù đắp cho các khoản thua lỗ phát sinh từ nhiều nguyên nhân như chi phí vượt quá doanh thu (rủi ro kinh doanh), khách hàng không thanh toán được nợ (rủi ro tín dụng), và biến động trong các vị thế mua bán (rủi ro thị trường) Ngoài ra, các rủi ro từ hoạt động kinh doanh cũng có thể dẫn đến chi phí đáng kể do các tình huống như bồi thường pháp lý hoặc lỗi kỹ thuật Do đó, khả năng thanh toán có thể được hiểu là khả năng chi trả các khoản nợ và chi phí phát sinh.

Trang 22 bằng tiền mặt đối với những khoản thanh toán đến hạn Nếu một tổ chức mất khả năng thanh toán sẽ dẫn đến việc mất tính thanh khoản và đồng thời kéo theo những rủi ro do việc mất tính thanh khoản gây ra

2.3.2 Các nguyên nhân dẫn đến rủi ro thanh khoản

Thanh khoản có vấn đề của một ngân hàng có thể do các nguyên nhân cơ bản như sau:

Ngân hàng thường vay mượn nhiều khoản tiền gửi ngắn hạn từ cá nhân và các định chế tài chính khác, sau đó chuyển đổi thành tài sản đầu tư dài hạn Tuy nhiên, điều này dẫn đến sự mất cân đối về kỳ hạn giữa nguồn vốn và cách sử dụng vốn, khi dòng tiền thu về từ tài sản đầu tư thường nhỏ hơn dòng tiền chi ra để trả các khoản tiền gửi đến hạn.

Sự thay đổi của lãi suất có tác động lớn đến cả người gửi tiền và người vay vốn Khi lãi suất giảm, người gửi tiền có xu hướng rút vốn để đầu tư vào các kênh có tỷ suất sinh lợi cao hơn, trong khi người vay tìm kiếm cơ hội tiếp cận tín dụng với lãi suất thấp Điều này dẫn đến ảnh hưởng đến trạng thái thanh khoản của ngân hàng Hơn nữa, xu hướng lãi suất thay đổi còn tác động đến giá trị thị trường của các tài sản mà ngân hàng có thể bán, nhằm tăng cường nguồn cung thanh khoản và ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí vay.

Ngân hàng Ba là gặp khó khăn do chiến lược quản trị rủi ro thanh khoản không hiệu quả, thể hiện qua việc sở hữu các chứng khoán có tính thanh khoản thấp và dự trữ không đủ đáp ứng nhu cầu chi trả.

2.3.3 Đo lường rủi ro thanh khoản các Ngân hàng thương mại

Trong các nghiên cứu trước đây, tỷ lệ thanh khoản được sử dụng để đánh giá tình trạng thanh khoản của ngân hàng, giúp nhận diện rủi ro thanh khoản một cách hiệu quả hơn.

Các nghiên cứu Montgomery (2004), Aspach (2005), Bonfim & Kim

Rủi ro phá sản Ngân hàng

2.4.1 Khái niệm rủi ro phá sản Ngân hàng

Theo Rose (1998), quản trị ngân hàng thương mại cần chú trọng đến rủi ro ảnh hưởng đến sự tồn tại lâu dài, thường được gọi là rủi ro phá sản Khi quy mô nợ khó đòi tăng cao hoặc giá trị thị trường của các khoản đầu tư giảm, vốn chủ sở hữu sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng Nếu nhà đầu tư và người gửi tiền nhận thấy những tín hiệu này và quyết định rút tiền, ngân hàng có thể buộc phải tuyên bố mất khả năng thanh toán và ngừng hoạt động.

Theo Bessis (2011), rủi ro phá sản là nguy cơ mà vốn hiện có không đủ để chống đỡ trước những thua lỗ từ nhiều loại rủi ro khác nhau Rủi ro này thường bắt nguồn từ việc vỡ nợ hoặc không thể huy động đủ vốn để đáp ứng các nghĩa vụ tài chính.

Phạm Tiến Đạt (2013) chỉ ra rằng rủi ro vỡ nợ và rủi ro thiếu vốn chủ sở hữu để bù đắp cho sự suy giảm giá trị tài sản là một vấn đề nghiêm trọng đối với các ngân hàng Những rủi ro này phát sinh do thiếu kinh nghiệm quản lý vĩ mô, suy thoái kinh tế, tỷ trọng huy động tiền gửi nhỏ và sự gia tăng các vụ vỡ nợ trong danh mục cho vay Tại Việt Nam, hiện chưa có luật về phá sản cho các tổ chức tín dụng; thay vào đó, Ngân hàng Nhà nước áp dụng lệnh kiểm soát đặc biệt để hỗ trợ hoặc sáp nhập, mua lại các tổ chức tín dụng nhằm bảo vệ nền kinh tế.

Theo Điều 145 của Luật các tổ chức tín dụng, khi có nguy cơ mất khả năng chi trả, tổ chức tín dụng (TCTD) phải báo cáo kịp thời với Ngân hàng Nhà nước về tình hình tài chính, nguyên nhân và các biện pháp đã áp dụng hoặc dự kiến áp dụng để khắc phục Điều 146 quy định các trường hợp mà Ngân hàng Nhà nước sẽ thực hiện kiểm soát đặc biệt đối với những TCTD mất khả năng chi trả Tại Việt Nam, nhiều TCTD đã được Ngân hàng Nhà nước mua lại với giá 0 đồng hoặc thực hiện mua bán, sáp nhập với các TCTD khác nhằm bảo vệ nền kinh tế.

Các nhà đầu tư thường sử dụng hệ số đòn bẩy tài chính để đánh giá tình hình nợ của doanh nghiệp, từ đó xác định mức độ rủi ro khi đầu tư Tuy nhiên, chỉ số Z-score do Edward Altman thiết lập vào năm 1968 giúp đánh giá rủi ro và nguy cơ phá sản của doanh nghiệp một cách hiệu quả hơn Chỉ số này đã chứng minh khả năng dự đoán tình hình phá sản của doanh nghiệp một cách tương đối chính xác.

95% Sau đó cũng đã có nhiều nghiên cứu dựa trên nghiên cứu của Altman, tìm chỉ số phá sản của các doanh nghiệp trên nhiều ngành khác nhau Năm

1986, Boyd và Graham đã có nghiên cứu về chỉ số Z-score về lĩnh vực tài chính đánh giá được khả năng phá sản

2.4.2 Chỉ số đo lường rủi ro phá sản Ngân hàng

Chỉ số đo lường Z-score được Boyd và Runkle sử dụng năm 1993 để đo lường sự lành mạnh của Ngân hàng theo công thức dưới đây:

Công thức được kiểm chứng bởi Cihas và Hess vào năm 2008, trong đó ROA đại diện cho tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản, E/A là tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản, và σROA là độ lệch chuẩn của ROA, được tính bằng trung bình trước của ROA của ngân hàng i trong năm t.

Mối quan hệ giữa rủi ro thanh khoản và rủi ro phá sản Ngân hàng

Rủi ro thanh khoản xảy ra khi nhiều người gửi tiền đồng thời muốn rút tiền ngay lập tức, buộc ngân hàng phải vay thêm vốn hoặc bán tài sản để đáp ứng nhu cầu Loại rủi ro này không chỉ tác động tiêu cực đến hoạt động của ngân hàng mà còn có thể dẫn đến khủng hoảng ngân hàng thương mại, gây ra suy thoái kinh tế và ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống kinh tế, xã hội.

Tính thanh khoản của ngân hàng phản ánh khả năng đáp ứng nhu cầu thanh toán của khách hàng, đặc biệt trong ngắn hạn Nhu cầu này có thể bao gồm các khoản tiền gửi đến hạn và yêu cầu rút tiền mặt Để đảm bảo khả năng thanh toán kịp thời, ngân hàng cần duy trì một lượng lớn tài sản có tính thanh khoản cao.

Trang 28 tiền mặt tại quỹ, tiền gửi tại Ngân hàng nhà nước, chứng khoán và các định chế tài chính khác…

Nhu cầu thanh khoản dài hạn thường bị ảnh hưởng bởi các yếu tố thời vụ, chu kỳ và xu hướng, như sự gia tăng nhu cầu rút tiền hoặc vay mượn của khách hàng trong các dịp lễ hội Để đáp ứng nhu cầu này, các ngân hàng cần chuẩn bị trước nguồn vốn từ nhiều nguồn khác nhau, với mức độ dự phòng cao hơn so với nhu cầu thanh khoản ngắn hạn.

Tuy nhiên có nhiều nguyên nhân dẫn đến mất thanh khoản làm cho rủi ro thanh khoản tăng cao như:

Ngân hàng thường vay mượn một lượng lớn tiền gửi và quỹ dự trữ từ cá nhân cũng như các tổ chức tài chính khác, sau đó sử dụng số tiền này để đầu tư vào các tài sản có kỳ hạn Hệ quả là, tình trạng mất cân đối về thời hạn giữa nguồn vốn huy động và vốn sử dụng trở nên phổ biến trong hoạt động của ngân hàng.

Rủi ro thanh khoản chủ yếu xuất phát từ sự nhạy cảm với lãi suất đầu tư, đặc biệt là ảnh hưởng đến các khoản tiền gửi Khi lãi suất tăng, khách hàng có xu hướng rút tiền gửi để đầu tư vào các dự án có tỷ suất sinh lời cao hơn, trong khi những người vay vốn lại tìm kiếm các khoản tín dụng với lãi suất thấp hơn Điều này có thể làm mất cân bằng thanh khoản của ngân hàng Ngoài ra, sự thay đổi lãi suất cũng tác động đến giá trị thị trường của các tài sản đảm bảo khoản vay và những tài sản mà ngân hàng muốn bán để đáp ứng nhu cầu thanh khoản của khách hàng.

Tổn thất xảy ra khi nhiều khách hàng đồng thời rút vốn khỏi ngân hàng, trong khi ngân hàng không đủ khả năng huy động vốn và tài sản hiện có không có tính thanh khoản cao Khi quỹ tiền mặt không đủ để đáp ứng nhu cầu rút tiền, ngân hàng phải vay mượn từ các tổ chức khác với chi phí cao hoặc thanh lý tài sản với giá thấp để tránh sụp đổ Đây chính là rủi ro thanh khoản mà ngân hàng phải đối mặt.

Rủi ro thanh khoản có thể ảnh hưởng đến lợi nhuận của ngân hàng, với mức độ nhẹ dẫn đến giảm lợi nhuận Tuy nhiên, ở mức độ nghiêm trọng hơn, rủi ro thanh khoản có thể đe dọa sự tồn tại của ngân hàng, dẫn đến khả năng phá sản hoặc bị mua bán, sáp nhập.

Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng rủi ro thanh khoản có thể dẫn đến rủi ro phá sản ngân hàng Theo Bessis (2011), rủi ro phá sản xuất phát từ việc vỡ nợ hoặc không đủ vốn để đáp ứng các nghĩa vụ trả nợ.

Theo Rose (1998), nếu nợ xấu quá lớn hoặc giá trị thị trường của các khoản đầu tư chứng khoán giảm mạnh, vốn chủ sở hữu có thể bị suy giảm đáng kể Khi các nhà đầu tư và người gửi tiền nhận thấy tín hiệu này và quyết định rút tiền, ngân hàng có thể buộc phải tuyên bố mất khả năng thanh toán và đóng cửa.

Theo luật các tổ chức tín dụng, khi một tổ chức tín dụng không còn khả năng chi trả, họ phải ngay lập tức thông báo cho Ngân hàng Nhà nước về tình hình tài chính của mình Nếu tổ chức đó không thể phục hồi khả năng thanh toán, sẽ có biện pháp bảo hộ đặc biệt hoặc có thể bị mua lại với giá 0 đồng.

Các nghiên cứu chỉ ra mối liên hệ giữa rủi ro thanh khoản và rủi ro phá sản ngân hàng Trong bài nghiên cứu này, rủi ro thanh khoản được xác định thông qua giá trị tài sản thanh khoản sau khi trừ đi nghĩa vụ nợ, phản ánh số tiền gửi của khách hàng tại ngân hàng.

Các nghiên cứu trước về mối quan hệ giữa rủi ro thanh khoản và khả năng phá sản Ngân hàng

Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra mối quan hệ chặt chẽ giữa rủi ro thanh khoản và rủi ro phá sản của ngân hàng, cung cấp những kết quả quan trọng về sự tương tác giữa hai yếu tố này.

Nghiên cứu của Baselga - Pascual và các cộng sự (2013) đã sử dụng dữ liệu bảng để xác định các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro ngân hàng Mô hình nghiên cứu được áp dụng nhằm phân tích các yếu tố này một cách chi tiết và có hệ thống.

Biến phụ thuộc Yi,t, được đo lường bằng chỉ số Z-score, phản ánh rủi ro của Ngân hàng i tại thời điểm t Nghiên cứu đã xác định các biến độc lập ảnh hưởng đến rủi ro ngân hàng, bao gồm tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản (ETA), quy mô ngân hàng (SIZE) và các yếu tố tăng trưởng vĩ mô như GDP.

Nghiên cứu dựa trên dữ liệu từ các ngân hàng thương mại trong Liên minh châu Âu cho thấy rằng vốn, lợi nhuận, hiệu quả và tính thanh khoản có mối quan hệ nghịch biến với rủi ro ngân hàng.

Nghiên cứu của Theo Montgomery và cộng sự (2004) về mô hình dự báo phá sản cho các ngân hàng đa quốc gia chỉ ra rằng tỷ lệ giữa tài sản thanh khoản và vay mượn ngắn hạn của các tổ chức tín dụng có mối quan hệ đồng biến với rủi ro phá sản, cho thấy sự quan trọng của quản lý tài sản trong việc giảm thiểu rủi ro này.

Theo PWC (2006, 2011), tỷ lệ tài sản thanh khoản trên tổng huy động ngắn hạn là chỉ số quan trọng để đánh giá tình hình thanh khoản của ngân hàng, đồng thời giúp xác định xu hướng và trạng thái thanh khoản trong kỳ hoạt động.

Nghiên cứu của Montgomery và cộng sự (2004) đã phân tích sự thất bại của mô hình liên kết Ngân hàng đa quốc gia bằng cách sử dụng dữ liệu từ các Ngân hàng thương mại tại Indonesia và Nhật Bản Nghiên cứu này so sánh mô hình trong nước với mô hình dự báo phá sản của Ngân hàng đa quốc gia trong giai đoạn 1997-2003.

Rủi ro thanh khoản được xác định bằng cách lấy hiệu số giữa tài sản thanh khoản và khoản vay ngắn hạn từ tổ chức tín dụng so với tổng tiền gửi Nghiên cứu cho thấy rủi ro thanh khoản có mối quan hệ nghịch biến với rủi ro phá sản, tuy nhiên, mối quan hệ này không có ý nghĩa thống kê.

Nghiên cứu của Nguyễn Thanh Dương (2013) áp dụng phương pháp nghiên cứu định lượng để phân tích mối quan hệ giữa bảy biến độc lập, bao gồm tài sản, nguồn vốn và các rủi ro thành phần, đối với rủi ro của ngân hàng Nghiên cứu sử dụng kỹ thuật hồi quy bảng thông qua hồi quy tuyến tính đa biến, với dữ liệu từ BVD databankscope trong giai đoạn 2006-2011, tập trung vào 36 ngân hàng thương mại tại Việt Nam.

Tác giả sử dụng mô hình hồi quy tuyến tính đa biến lấy cơ sở mô hình của Marco (2004), Cihak (2008) và Whalen(1998)

Giả thuyết nghiên cứu

Nhiều nghiên cứu trước đây đã khảo sát mối quan hệ giữa rủi ro thanh khoản và rủi ro phá sản của ngân hàng, và kết quả của các nghiên cứu này cho thấy sự khác biệt đáng kể.

Nghiên cứu của Baselga - Pascual và cộng sự (2013) cho thấy rằng rủi ro thanh khoản có tác động nghịch biến đến rủi ro phá sản ngân hàng Tương tự, nghiên cứu của Montgomery và cộng sự (2004) cũng đạt được kết quả tương tự, tuy nhiên, mô hình của họ không có ý nghĩa thống kê.

Tuy nhiên, nghiên cứu của Nguyễn Thanh Dương (2013) dùng phương pháp nghiên cứu định lượng để xác định mối quan hệ giữa 7 biến

Trang 32 độc lập đại diện cho tài sản (tài sản có), nguồn vốn (tài sản nợ), các rủi ro thành phần với rủi ro của Ngân hàng, cho ra kết quả rủi ro thanh khoản tác động đồng biến đển rủi ro phá sản Ngân hàng, dự trên tập dữ liệu Ngân hàng từ 2006-2011 tại Việt Nam

Rủi ro thanh khoản là nguy cơ mà ngân hàng không thể đáp ứng nhu cầu rút tiền của khách hàng Khi đối mặt với rủi ro thanh khoản cao, ngân hàng thường phải bán các tài sản có khả năng thanh khoản cao với chi phí lớn để đáp ứng nhu cầu này Nếu không đủ khả năng đáp ứng, ngân hàng sẽ mất niềm tin từ khách hàng, dẫn đến tình trạng mất cân bằng và tăng nguy cơ phá sản.

Vì vậy giả thiết nghiên cứu đặt ra là:

H1: Rủi ro thanh khoản càng cao dẫn đến rủi ro phá sản càng cao Để đánh giá rủi ro thanh khoản, luận văn sử dụng tỷ số giữa tài sản thanh khoản và nợ ngắn hạn trên tiền gửi khách hàng Tỷ lệ này phản ánh khả năng của ngân hàng trong việc đáp ứng nhu cầu rút tiền trước hạn của khách hàng, sau khi đã trừ đi nghĩa vụ thanh toán nợ ngắn hạn.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ MÔ HÌNH

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Ngày đăng: 12/01/2022, 23:18

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Bảng 2.1 : Tóm lược các nghiên cứu đo lường rủi ro thanh khoản - Ảnh hưởng của rủi ro thanh khoản đến rủi ro phá sản ngân hàng
Bảng 2.1 Tóm lược các nghiên cứu đo lường rủi ro thanh khoản (Trang 35)
Bảng 3.1: Mô tả các biến mô hình - Ảnh hưởng của rủi ro thanh khoản đến rủi ro phá sản ngân hàng
Bảng 3.1 Mô tả các biến mô hình (Trang 47)
Sơ đồ 3.1: Tóm tắt cách xác định mô hình hồi quy - Ảnh hưởng của rủi ro thanh khoản đến rủi ro phá sản ngân hàng
Sơ đồ 3.1 Tóm tắt cách xác định mô hình hồi quy (Trang 56)
Bảng 4.1 Thống kê mô tả các biến định lượng - Ảnh hưởng của rủi ro thanh khoản đến rủi ro phá sản ngân hàng
Bảng 4.1 Thống kê mô tả các biến định lượng (Trang 57)
Bảng 4.2 Ma trận hệ số tương quan giữa các biến số - Ảnh hưởng của rủi ro thanh khoản đến rủi ro phá sản ngân hàng
Bảng 4.2 Ma trận hệ số tương quan giữa các biến số (Trang 59)
Bảng  4.3 trình bày  kiểm  định  Hausman  cho  việc  lựa chọn mô  hình  FEM và REM. Theo lý thuyết kiểm định Hausman thì H0: mô hình hồi quy  FEM và H1: mô hình hồi quy REM - Ảnh hưởng của rủi ro thanh khoản đến rủi ro phá sản ngân hàng
ng 4.3 trình bày kiểm định Hausman cho việc lựa chọn mô hình FEM và REM. Theo lý thuyết kiểm định Hausman thì H0: mô hình hồi quy FEM và H1: mô hình hồi quy REM (Trang 61)
Bảng 4.5 Bảng kết quả kỳ vọng dấu - Ảnh hưởng của rủi ro thanh khoản đến rủi ro phá sản ngân hàng
Bảng 4.5 Bảng kết quả kỳ vọng dấu (Trang 62)

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN