Tính cấp thiết của nghiên cứu đề tài
Bảo hiểm xã hội (BHXH) đã trở thành một nhu cầu thiết yếu và là quyền cơ bản của con người, đồng thời là chính sách quan trọng của mỗi quốc gia Việc thực hiện hiệu quả chính sách BHXH không chỉ thúc đẩy tiềm năng sáng tạo của người lao động mà còn góp phần vào sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước Như tuyên ngôn nhân quyền của Đại hội đồng Liên hợp quốc đã khẳng định, tất cả các quốc gia, bất kể chế độ chính trị hay mức độ phát triển, đều có trách nhiệm thực hiện các chế độ về BHXH.
Chế độ hưu trí là một phần quan trọng trong hệ thống bảo hiểm xã hội (BHXH) tại Việt Nam, ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống kinh tế và xã hội Qua thời gian, chế độ này đã đảm bảo đời sống cho người lao động, tạo điều kiện cho họ yên tâm làm việc và ổn định xã hội Nhà nước đang nỗ lực hoàn thiện chính sách BHXH, đặc biệt là chế độ hưu trí, để phù hợp với sự phát triển của đất nước và xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu Trong bối cảnh nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường, nhu cầu về BHXH ngày càng đa dạng và tăng cao, đồng thời số lượng người về hưu cũng gia tăng, đặt ra yêu cầu cấp thiết cho việc cải thiện chế độ hưu trí Do đó, việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về chế độ hưu trí là rất cần thiết trong giai đoạn hiện nay, nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn và phát triển bền vững.
Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền năm 1948 của Liên hợp quốc đã góp phần quan trọng trong việc làm rõ các vấn đề pháp lý liên quan đến chế độ hưu trí Nghiên cứu về đề tài này không chỉ bổ sung cơ sở lý luận và pháp lý mà còn phản ánh thực tiễn về chế độ hưu trí, nhấn mạnh vai trò thiết yếu của nó trong xã hội hiện đại.
Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong bối cảnh phát triển của đất nước, an sinh xã hội ngày càng được chú trọng, đặc biệt là chế độ hưu trí Nhiều chính sách của Đảng và Nhà nước cũng như các nghiên cứu từ các tác giả đã được đưa ra để cải thiện vấn đề này Một trong những công trình tiêu biểu là luận văn thạc sĩ của Đặng Thị Vân Khánh, “BHXH tự nguyện - 5 năm thực hiện và một số kiến nghị hoàn thiện” (2013), tại Trường Đại học Luật Hà Nội Tác giả đã phân tích sâu sắc các nội dung của BHXH tự nguyện hiện hành và đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện chế độ này.
Tiến sĩ Phạm Đình Thành (2013) đã nghiên cứu về đời sống của người nghỉ hưu và đề xuất giải pháp cải thiện chất lượng cuộc sống cho họ thông qua các dịch vụ xã hội Nghiên cứu này hệ thống hóa các vấn đề liên quan đến người cao tuổi, làm rõ vị trí, vai trò và nhu cầu dịch vụ của họ Qua khảo sát, tác giả phân tích nhu cầu về việc làm, thu nhập và chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi, từ đó đưa ra các giải pháp hoàn thiện chính sách và phát triển dịch vụ xã hội nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người nghỉ hưu ở Việt Nam.
Bùi Ngọc Thanh, “Kiến nghị sửa đổi chế độ hưu trí trong Luật
Trong bài viết của Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 19/2013, tác giả phân tích các khái niệm và quy định pháp luật liên quan đến chế độ hưu trí, đồng thời chỉ ra những hạn chế của Luật BHXH 2006 Từ đó, bài viết đề xuất các kiến nghị và giải pháp nhằm cải cách chế độ hưu trí sao cho phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội hiện nay của đất nước.
Nguyễn Quốc Cường trong luận văn thạc sĩ "Pháp luật về chế độ BHXH" (2018) tại Trường Đại học Luật – Đại học Huế đã chỉ ra thực trạng pháp luật về bảo hiểm xã hội (BHXH) hiện nay Tác giả phân tích các điểm hạn chế và tồn tại trong việc thực hiện pháp luật BHXH ở Việt Nam, từ đó đề xuất định hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện các quy định về chế độ BHXH tại nước ta.
Hà Thị Hiền trong luận văn thạc sĩ "Chế độ hưu trí theo luật BHXH năm 2014 ở Việt Nam hiện nay" đã phân tích sâu sắc các khái niệm và quy định pháp luật liên quan đến chế độ hưu trí Tác giả cũng xem xét thực tiễn thực hiện các quy định này, nhằm làm rõ hiệu quả và những thách thức trong việc áp dụng luật hưu trí tại Việt Nam.
Từ đó đƣa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chế độ hưu trí hiện nay ở Việt Nam.
Nguyễn Thị Hương trong luận văn thạc sĩ "Pháp luật về BHXH bắt buộc qua thực tiễn tại tỉnh Quảng Trị" (2018) đã phân tích và đánh giá chi tiết về nội dung của BHXH bắt buộc cũng như các yếu tố ảnh hưởng đến lĩnh vực này Tác giả đã đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về BHXH bắt buộc, đặc biệt là trong bối cảnh tỉnh Quảng Trị.
Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu đề tài
Bài viết phân tích lý luận về nội dung và vai trò của chế độ hưu trí, đồng thời đánh giá thực trạng các quy định pháp luật hiện hành Qua đó, bài viết chỉ ra những hạn chế và bất cập trong hệ thống pháp luật về hưu trí tại Việt Nam, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định này.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài Để đạt đƣợc mục đích nghiên cứu của đề tài đặt ra, tác giả thực hiện những nhiệm vụ sau:
- Phân tích các khái niệm cơ bản của chế độ hưu trí.
- Phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn của quy định pháp luật về chế độ hưu trí theo pháp luật Việt Nam hiện nay.
- Đánh giá thực trạng quy định của pháp luật về chế độ hưu trí ở hiện nay.
Phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật về chế độ hưu trí hiện nay cho thấy nhiều bất cập và hạn chế trong các quy định hiện hành Các quy định này không đáp ứng đầy đủ nhu cầu của người lao động, dẫn đến sự thiếu công bằng trong việc hưởng chế độ hưu trí Bên cạnh đó, việc thực thi pháp luật cũng gặp nhiều khó khăn, ảnh hưởng đến quyền lợi của người hưởng lương hưu Cần có những điều chỉnh phù hợp để cải thiện tình hình và đảm bảo quyền lợi chính đáng cho người lao động trong chế độ hưu trí.
- Đƣa ra các giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện về chế độ hưu trí hiện nay.
Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Luận văn này tập trung phân tích các quan điểm và quy định của pháp luật hiện hành liên quan đến chế độ hưu trí, cũng như các quy định pháp luật bổ sung có ảnh hưởng đến chế độ này.
4.2 Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Phạm vi nghiên cứu về không gian: Những quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về chế độ hưu trí.
Phạm vi nghiên cứu về thời gian: 2013 – 2018. Địa bàn nghiên cứu: Cả nước.
Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện hiệu quả nhiệm vụ của đề tài, luận văn áp dụng phương pháp luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin, đồng thời tuân thủ các quan điểm, chủ trương, đường lối và chính sách của Đảng và Nhà nước liên quan đến pháp luật về chế độ hưu trí.
Trong quá trình nghiên cứu và trình bày, luận văn sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học sau:
Phương pháp phân tích và tổng hợp được áp dụng để nghiên cứu các khái niệm và quy định về chế độ hưu trí Bằng cách phân tích từng bộ phận, phương pháp này giúp hiểu sâu sắc và toàn diện hơn về đối tượng nghiên cứu Đồng thời, việc tổng hợp các vấn đề đã phân tích tạo ra một hệ thống khái niệm và quy định về chế độ hưu trí đầy đủ và sâu sắc Tác giả đã sử dụng phương pháp này xuyên suốt trong tất cả các chương của luận văn.
Trong luận văn, tác giả áp dụng phương pháp đánh giá và bình luận nhằm thể hiện quan điểm cá nhân về các quy định và thực tiễn thi hành pháp luật liên quan đến hưu trí Phương pháp này giúp làm sáng tỏ những vấn đề nổi bật trong hệ thống pháp luật hiện hành và đánh giá tính hiệu quả của các quy định về hưu trí Tác giả cũng chỉ ra những bất cập và đề xuất giải pháp cải thiện để nâng cao chất lượng thực thi pháp luật trong lĩnh vực này.
- Phương pháp so sánh: Được sử dụng trong luận văn để so sánh một số quy định của pháp luật có liên quan đến chế độ hưu trí.
Trong luận văn, tác giả áp dụng các phương pháp nghiên cứu đặc thù của ngành luật học, bao gồm phương pháp thống kê, phương pháp quy nạp và phương pháp diễn dịch.
Câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu
Pháp luật Việt Nam hiện nay quy định chế độ hưu trí với nhiều điểm nổi bật, bao gồm việc xác định độ tuổi nghỉ hưu, mức lương hưu và quyền lợi của người lao động Tuy nhiên, những quy định này cũng tồn tại một số hạn chế, như sự chưa đồng nhất trong việc áp dụng và thiếu sự linh hoạt cho các nhóm lao động khác nhau Thực tiễn thực hiện pháp luật về chế độ hưu trí cho thấy có những ưu điểm như bảo vệ quyền lợi cho người lao động và khuyến khích họ đóng góp vào quỹ hưu trí Song, vẫn còn nhiều thách thức, bao gồm việc tăng cường nhận thức của người lao động về quyền lợi của họ và cải thiện quy trình giải quyết tranh chấp liên quan đến chế độ hưu trí.
Câu hỏi 3: Có những giải pháp gì để góp phần hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật vế chế độ hưu trí.
Chế độ hưu trí ở Việt Nam hiện nay được quy định bởi Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 cùng với các văn bản pháp lý liên quan, nhằm đáp ứng nhu cầu thực tiễn và tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc điều chỉnh các vấn đề liên quan đến hưu trí.
Mặc dù có nhiều quy định liên quan đến chế độ hưu trí, nhưng vẫn tồn tại một số hạn chế như tính chung chung của pháp luật, dẫn đến khó khăn trong việc áp dụng thực tiễn Để khắc phục những vấn đề này, tác giả đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện các quy định về chế độ hưu trí hiện nay.
Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của Luận văn
7.1 Ý nghĩa khoa học của luận văn
Bài viết làm sáng tỏ các khái niệm và quy định liên quan đến chế độ hưu trí, đồng thời phân tích những vấn đề lý luận cơ bản Qua đó, bài viết đóng góp vào việc xây dựng các luận cứ khoa học nhằm hoàn thiện pháp luật về chế độ hưu trí tại Việt Nam trong bối cảnh hiện nay.
7.2 Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Bài viết nêu rõ những hạn chế trong các quy định pháp luật hiện hành và những khó khăn trong việc áp dụng pháp luật, từ đó cung cấp cơ sở cho các cơ quan có thẩm quyền nhằm hoàn thiện và hướng dẫn thực hiện hiệu quả hơn về chế độ hưu trí.
Cơ cấu của luận văn
Bài luận văn được cấu trúc thành ba chương chính, bao gồm các phần quan trọng như mục lục, danh mục từ viết tắt, lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo.
Chương 1: Những vấn đề lý luận về chế độ hưu trí.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về chế độ hưu trí và thực tiễn thi hành tại Việt Nam.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện chế độ hưu trí hiện nay.
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỘ HƯU TRÍ
Nguyên tắc và các loại bảo hiểm hưu trí
1.2.1 Nguyên tắc của chế độ hưu trí
Là bộ phận trong chính sách BHXH, do đó chế độ hưu trí cũng tuân thủ theo các nguyên tắc chung của BHXH:
- Mức hưởng BHXH được tính trên cơ sở mức đóng, thời gian đóng BHXH và có chia sẻ giữa những người tham gia BHXH.
Mức đóng bảo hiểm xã hội (BHXH) bắt buộc được xác định dựa trên tiền lương tháng của người lao động, trong khi mức đóng BHXH tự nguyện được tính theo mức thu nhập tháng mà người lao động tự chọn.
Người lao động có thời gian đóng bảo hiểm xã hội (BHXH) bắt buộc và BHXH tự nguyện sẽ được hưởng chế độ hưu trí và chế độ tử tuất dựa trên tổng thời gian đã đóng BHXH.
Quỹ BHXH được quản lý một cách tập trung, thống nhất và công khai, đảm bảo tính minh bạch trong quá trình sử dụng Quỹ này được sử dụng đúng mục đích và hạch toán độc lập theo từng quỹ thành phần, cũng như các nhóm đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do Nhà nước quy định và chế độ tiền lương do người sử dụng lao động quyết định.
- Việc thực hiện BHXH phải đơn giản, dễ dàng, thuận tiện, bảo đảm kịp thời và đầy đủ quyền lợi của người tham gia BHXH.
Bên cạnh các nguyên tắc chung của BHXH, chế độ hưu trí còn có một số nguyên tắc riêng đó là:
- Nguyên tắc điều chỉnh hợp lý chế độ hưởng bảo hiểm hưu trí giữa lao động nam và lao động nữ.
- Nguyên tắc giảm độ tuổi nghỉ hưu đối với một số ngành nghề, lĩnh vực nhất định.
Khi nền kinh tế phát triển mạnh, độ tuổi hưởng chế độ hưu trí có thể được nâng lên, điều này phản ánh sự gia tăng tuổi thọ và mức sống của người lao động.
1.2.2 Các loại bảo hiểm hưu trí
Bảo hiểm hưu trí bắt buộc là loại hình bảo hiểm xã hội do Nhà nước tổ chức, yêu cầu người lao động và người sử dụng lao động tham gia Các đối tượng thuộc diện áp dụng phải đóng góp một phần tài chính vào quỹ bảo hiểm theo quy định pháp luật và tham gia các chế độ bảo hiểm xã hội Hiện nay, những người có quan hệ lao động ổn định, đặc biệt là nhân viên làm việc trong các cơ quan Nhà nước, là những đối tượng chủ yếu tham gia bảo hiểm hưu trí bắt buộc.
Bảo hiểm hưu trí tự nguyện là loại hình bảo hiểm xã hội do Nhà nước tổ chức, cho phép người tham gia tự chọn mức đóng và phương thức đóng phù hợp với thu nhập, đồng thời nhận được sự hỗ trợ từ Nhà nước Hoạt động theo cơ chế “đóng - hưởng”, bảo hiểm này mang lại sự linh hoạt cho người lao động (NLĐ) và doanh nghiệp trong việc thỏa thuận mức đóng góp nhằm đạt quyền lợi hưu trí mong muốn Ngay cả NLĐ có thu nhập thấp hay bị gián đoạn công việc vẫn có thể hưởng lợi từ kế hoạch hưu trí tự xây dựng Đây là một phần trong chiến lược an sinh xã hội đa tầng mà Việt Nam hướng tới, góp phần mang lại lợi ích cho NLĐ, doanh nghiệp và chính quyền Bảo hiểm hưu trí tự nguyện không chỉ cải thiện tài chính cho NLĐ khi về hưu mà còn thể hiện sự quan tâm của doanh nghiệp đối với nhân viên Loại hình bảo hiểm này đang trở thành giải pháp tài chính bền vững và là xu thế tất yếu trên toàn cầu, khẳng định sự cần thiết của nó trong việc đưa Việt Nam bắt kịp với các nước phát triển.
Bảo hiểm hưu trí bổ sung là một chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện, nhằm tăng cường chế độ hưu trí cho người lao động bên cạnh lương hưu từ BHXH bắt buộc Chế độ này tạo ra quỹ từ sự đóng góp của cả người lao động và người sử dụng lao động, thông qua tài khoản tiết kiệm cá nhân, được bảo toàn và tích lũy nhờ vào các hoạt động đầu tư theo quy định pháp luật Việc tham gia bảo hiểm hưu trí bổ sung giúp người lao động có thêm nguồn thu nhập khi nghỉ hưu, nâng cao chất lượng cuộc sống.
Chế độ hưu trí theo quy định của ILO và của một số quốc gia
1.3.1 Chế độ hưu trí theo quy định của ILO
Tổ chức Lao động Quốc tế, viết tắt là ILO đã thông qua 2 công ƣớc quy định về chế độ hưu trí.
Công ước số 102 về an sinh xã hội, được thông qua bởi Hội đồng quản trị của Văn phòng Lao động quốc tế vào ngày 28 tháng 6 năm 1952, quy định các quy phạm tối thiểu về an toàn xã hội Công ước này, thường được gọi là Công ước số 102, đóng vai trò quan trọng trong việc thiết lập các tiêu chuẩn bảo vệ an sinh xã hội cho người lao động.
Tuổi được trợ cấp là độ tuổi tối thiểu mà người tham gia bảo hiểm đủ điều kiện nhận khoản trợ cấp tuổi già Thông thường, tuổi này gắn liền với tuổi nghỉ hưu, thời điểm mà người lao động ngừng làm việc để hưởng thu nhập từ công việc trước đó do tuổi tác đã cao.
Theo Điều 17 Công ước số 128, trợ cấp tuổi già là chế độ chi trả định kỳ, ngoại trừ một số trường hợp đặc biệt Hầu hết các quỹ phòng xa quốc gia thực hiện chi trả một lần, nhưng thường không đáp ứng đủ nhu cầu của người lao động khi họ không còn làm việc.
1.3.2 Chế độ hưu trí theo quy định một số quốc gia
Già hóa dân số đang ngày càng trở thành một vấn đề quan trọng toàn cầu, đặc biệt ở các nước đang phát triển Sự gia tăng tuổi thọ nhờ vào điều kiện sống cải thiện, bao gồm dinh dưỡng, vệ sinh, môi trường, kinh tế, giáo dục và tiến bộ y học, là một thành tựu đáng tự hào của nhân loại.
* Hệ thống hưu trí của Cộng hòa Pháp
Hệ thống bảo hiểm xã hội (BHXH) ở Cộng hòa Pháp đã được thực hiện từ năm 1945, dựa trên nguyên tắc đoàn kết giữa các thế hệ với hình thức “tọa thu - tọa chi” Chế độ hưu trí tại Pháp bao gồm hai loại bảo hiểm bắt buộc: bảo hiểm hưu trí cơ bản dành cho công chức nhà nước và bảo hiểm hưu trí bổ sung Mỗi chế độ hưu trí có cách tính và tỷ lệ hưởng lương hưu khác nhau, tạo nên sự đa dạng trong quyền lợi cho người lao động.
- Cộng hòa Pháp có hai quỹ hưu trí đó là “Quỹ hưu trí quốc gia” (CNAV) và “Hiệp hội các quỹ hưu trí bổ sung” (AGIRC- ARRCO).
Quỹ hưu trí quốc gia của Pháp, trực thuộc Bộ Các vấn đề xã hội và Bộ Ngân sách, là tổ chức nhà nước chịu trách nhiệm về bảo hiểm hưu trí Quỹ này phục vụ cho chế độ hưu trí cơ bản và được tổ chức thành hai cấp: cấp quốc gia (CNAV) và 16 cấp vùng (CARSAT), cùng với 04 quỹ hải ngoại.
01 quỹ ở đảo Mayotte tương đương cấp v ng.
* Hệ thống bảo hiểm hưu trí của Trung Quốc
Trung Quốc đã phát triển hệ thống an sinh xã hội song song với sự tăng trưởng kinh tế, đặc biệt chú trọng đến chế độ bảo hiểm hưu trí Kể từ năm 1951, quy định về bảo hiểm lao động đã được ban hành, quy định quyền lợi hưu trí cho người lao động sau khi kết thúc quan hệ lao động Đến năm 1998 và 1999, bảo hiểm hưu trí cơ bản đã được áp dụng trên toàn quốc Từ năm 2003 đến nay, Trung Quốc tập trung vào việc xây dựng hệ thống hưu trí với mô hình bảo hiểm đa tầng, nhằm đảm bảo sự bao phủ rộng rãi, chế độ thụ hưởng hợp lý và bền vững.
* Chế độ hưu trí của Nhật Bản
Nhật Bản đang xây dựng "mô hình Nhà nước phúc lợi kiểu Nhật Bản" bằng cách khuyến khích sự tham gia của cá nhân, gia đình, cộng đồng và tư nhân vào hoạt động an sinh xã hội Để hỗ trợ điều này, Nhật Bản áp dụng một số chính sách kinh tế nhằm thay thế chức năng của Nhà nước trong việc giải quyết vấn đề an sinh xã hội Hệ thống bảo hiểm hưu trí được coi là trụ cột quan trọng của an sinh xã hội, với sự ra đời của các đạo luật về hưu trí như Luật Hưu trí năm 1941 và Luật Bảo hiểm hưu trí sau đó, tạo cơ sở pháp lý cho hệ thống này.
1944), Luật Bảo hiểm hưu trí (năm 1959), Luật Bảo hiểm hưu trí (năm 1985).
Hệ thống lương hưu của Nhật Bản được thiết kế với cấu trúc hai tầng, bao gồm lương hưu cơ bản ở tầng 1 và lương hưu dựa trên tiền đóng bảo hiểm ở tầng 2 Đây là mô hình đa tầng với hai dạng chính là hưu trí nhà nước và hưu trí tư nhân, nhằm đảm bảo mọi người dân đều được hưởng trợ giúp tối thiểu để nâng cao mức sống và giảm phân hóa giàu nghèo Chính phủ Nhật Bản đã xây dựng các quy định và hành lang pháp lý để thực hiện, kiểm tra và giám sát an sinh xã hội, đồng thời chịu trách nhiệm cao nhất trong việc cung cấp các điều kiện thực thi chính sách Ngoài ra, Nhật Bản còn chú trọng phát triển đội ngũ chuyên môn có trách nhiệm và đạo đức trong lĩnh vực an sinh xã hội, đặc biệt là bảo hiểm hưu trí Hệ thống bảo hiểm xã hội của Nhật Bản bao gồm các chế độ bảo hiểm bắt buộc như bảo hiểm hưu trí, bảo hiểm y tế, bảo hiểm chăm sóc dài ngày, bảo hiểm việc làm và bảo hiểm bồi thường tai nạn cho người lao động.
10 đó bảo hiểm hưu trí là chế độ quan trọng nhất trong chính sách BHXH Nhật Bản.
1.3.3 Kinh nghiệm từ các quy định của Pháp luật nước ngoài cho Việt Nam
- Thời gian đóng BHXH tối thiểu để hưởng lương hưu hàng tháng có thể giảm xuống 10 năm với mức hưởng ít hơn;
Công thức tính lương hưu tại Hàn Quốc đảm bảo sự cân đối giữa mức đóng, thời gian đóng và mức hưởng, đồng thời duy trì sự ổn định cho quỹ hưu trí Điều này giúp thu hẹp chênh lệch lương hưu giữa các cá nhân nghỉ hưu Theo quy định của Luật Hưu trí quốc gia Hàn Quốc, lương hưu được xác định dựa trên hai yếu tố chính: tiền lương bình quân đóng BHXH của người lao động và tiền lương bình quân đóng BHXH của tất cả người tham gia trong ba năm gần nhất.
Quy định về việc người lao động về hưu sớm quay trở lại làm việc với thu nhập tại Việt Nam nhằm hạn chế tình trạng nghỉ hưu sớm Những quy định này được thiết lập để khuyến khích người lao động tiếp tục cống hiến và đảm bảo an toàn tài chính cho họ trong tương lai Việc làm rõ các điều kiện và quy trình sẽ giúp người lao động hiểu rõ hơn về quyền lợi và nghĩa vụ của mình khi trở lại thị trường lao động.
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ CHẾ ĐỘ HƯU TRÍ VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI VIỆT NAM
Thực trạng pháp luật về chế độ hưu trí trong BHXH bắt buộc
Luật BHXH năm 2014 đã mở rộng đối tượng tham gia BHXH bắt buộc so với Luật BHXH 2006, bổ sung thêm ba nhóm đối tượng: người lao động có hợp đồng lao động từ 1 tháng đến dưới 3 tháng, người lao động nước ngoài có giấy phép lao động tại Việt Nam, và người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, phường, thị trấn Sự mở rộng này giúp BHXH bắt buộc bao phủ gần như toàn bộ người lao động, góp phần đảm bảo chính sách an sinh xã hội bền vững và đạt mục tiêu mà Đảng và Nhà nước đã đề ra trong Nghị quyết số 15-NQ/TW.
01 tháng 6 năm 2012 của Ban chấp hành trung ƣơng, một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 -2020; Nghị quyết số 21-NQ/TW gày
22 tháng 11 năm 2012 Nghị quyết của Bộ chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác BHXH, BHYT giai đoạn 2012 –
2020 “Đến năm 2020 có khoảng 50% lực lượng lao động tham gia
Theo Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 23 tháng 5 năm 2018, Việt Nam hướng tới việc cải cách chính sách Bảo hiểm xã hội (BHXH) nhằm đảm bảo bao phủ BHXH toàn dân Hiện nay, 35% lực lượng lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp và hơn 80% dân số tham gia bảo hiểm y tế, thể hiện nỗ lực gia tăng độ bao phủ và hỗ trợ cho người lao động trong xã hội.
2.1.2 Điều kiện hưởng lương hưu và điều kiện hưởng lương hưu khi suy giảm khả năng lao động
2.1.2.1 Điều kiện hưởng lương hưu
Tuổi đời và thời gian đóng bảo hiểm của người lao động là yếu tố quyết định để được hưởng chế độ bảo hiểm hưu trí Chế độ hưu trí áp dụng cho những người đã hết tuổi lao động và không còn tham gia vào thị trường lao động Độ tuổi nghỉ hưu khác nhau giữa các quốc gia, tùy thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội và tập quán của mỗi nơi Ngoài ra, trong cùng một quốc gia, độ tuổi nghỉ hưu cũng có thể thay đổi theo từng thời kỳ và giai đoạn phát triển kinh tế xã hội.
Theo quy định tại Điều 54 của Luật BHXH năm 2014, điều kiện chung để được hưởng lương hưu là:
* Người lao động khi nghỉ việc có đủ 20 năm đóng BHXH trở lên thì được hưởng lương hưu nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
Theo quy định hiện hành, nam đủ 60 tuổi và nữ đủ 55 tuổi mới được nghỉ hưu, tuy nhiên điều này có vẻ không còn phù hợp với tình hình phát triển và cơ cấu dân số hiện nay Nhiều người lao động, sau khi nghỉ hưu theo quy định, vẫn tiếp tục tham gia vào các công việc khác, cho thấy nhu cầu điều chỉnh độ tuổi nghỉ hưu là cần thiết.
12 dựa trên nền tảng kinh nghiệm của mình Qua đó cho thấy họ vẩn còn đủ sức khỏe, nhiệt huyết để tiếp tục cống hiến cho đất nước.
Nam từ đủ 55 tuổi đến 60 tuổi, nữ từ đủ 50 tuổi đến 55 tuổi, và có ít nhất 15 năm làm việc trong các nghề nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm, hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm theo danh mục quy định.
Bộ LĐTBXH và Bộ Y tế đã ban hành quy định về việc người lao động có đủ 15 năm làm việc tại khu vực có phụ cấp hệ số 0,7 trở lên Luật BHXH 2014 quy định khung độ tuổi nghỉ hưu mà không chỉ rõ độ tuổi cụ thể, tạo điều kiện cho người lao động lựa chọn thời điểm nghỉ hưu phù hợp với sức khỏe của mình.
Người lao động (NLĐ) có đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội (BHXH), trong đó có ít nhất 15 năm làm công việc khai thác than trong hầm lò, sẽ có tuổi nghỉ hưu từ 50 đến 55 tuổi Quy định này do Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đưa ra Đặc biệt, khung tuổi nghỉ hưu có thể được điều chỉnh, với độ tuổi tối đa là 60 tuổi đối với nam và 55 tuổi đối với nữ.
Đối với những người trong độ tuổi từ 50 đến 55, nếu sức khỏe cho phép, họ vẫn có thể tiếp tục làm việc Việc mở rộng độ tuổi lao động trong trường hợp này là hợp lý và phù hợp với tình hình hiện tại.
NLĐ bị nhiễm HIV/AIDS do tai nạn rủi ro nghề nghiệp trong khi thực hiện nhiệm vụ và có đủ 20 năm đóng BHXH có thể nghỉ hưu mà không phụ thuộc vào tuổi đời Tuy nhiên, quy định này chưa phù hợp với thực tiễn xã hội, vì tai nạn rủi ro nghề nghiệp là không lường trước và không mong muốn xảy ra Do đó, yêu cầu 20 năm đóng BHXH để được hưởng lương hưu là điều không hợp lý.
Đối với cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang, tuổi nghỉ hưu được quy định thấp hơn ít nhất 05 năm so với lao động trong khu vực dân sự.
Người lao động được hưởng lương hưu khi có đủ 20 năm đóng BHXH trở lên và thuộc một trong các trường hợp sau đây:
Theo quy định, nam giới đủ 55 tuổi và nữ giới đủ 50 tuổi sẽ nghỉ hưu, trừ một số trường hợp đặc thù theo Luật sĩ quan quân đội nhân dân, Luật công an nhân dân và Luật cơ yếu Khung độ tuổi nghỉ hưu cụ thể là nam từ 55 đến 60 tuổi và nữ từ 50 đến 55 tuổi Điều này cho phép người lao động có thể lựa chọn thời điểm nghỉ hưu dựa trên tình trạng sức khỏe, nhằm tránh tình huống người lao động vẫn muốn tiếp tục cống hiến nhưng lại phải nghỉ hưu theo quy định.
Nam từ 50 đến 55 tuổi và nữ từ 45 đến 50 tuổi cần có đủ 15 năm làm nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm, hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm Ngoài ra, nếu có đủ 15 năm làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên cũng đáp ứng điều kiện này.
Người nhiễm HIV/AIDS do tai nạn nghề nghiệp trong khi thực hiện nhiệm vụ sẽ được nghỉ hưu mà không phụ thuộc vào tuổi đời, tuy nhiên cần bổ sung quy định không phụ thuộc vào số năm đóng bảo hiểm Đối với lao động nữ làm việc chuyên trách hoặc không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn, nếu có từ 15 năm đến dưới 20 năm đóng BHXH và đủ 55 tuổi, họ sẽ được hưởng lương hưu.
Theo Nghị định số 53/2015/NĐ-CP ngày 29 tháng 5 năm 2015, cán bộ, công chức có thể nghỉ hưu ở tuổi cao hơn, với thời gian làm việc kéo dài không quá 05 năm Cụ thể, nam giới có thể nghỉ hưu ở độ tuổi trên 60, trong khi nữ giới có thể nghỉ hưu ở độ tuổi trên 55.
2.1.2.2 Điều kiện hưởng lương hưu khi suy giảm khả năng lao động.
Luật BHXH 2014 đã điều chỉnh điều kiện hưởng lương hưu cho người suy giảm khả năng lao động, bắt đầu từ ngày 1/1/2016, chia thành 2 nhóm khác nhau.
Thực trạng quy định của pháp luật về chế độ hưu trí trong BHXH tự nguyện
2.2.1 Đối tượng áp dụng chế độ hưu trí
Theo Điều 72 và khoản 4 Điều 2 của Luật BHXH 2014, người tham gia BHXH tự nguyện phải là công dân Việt Nam từ 15 tuổi trở lên và không thuộc nhóm đối tượng tham gia BHXH bắt buộc.
2.2.2 Điều kiện hưởng lương hưu, mức lương hưu hằng tháng và thời điểm hưởng lương hưu
Theo Điều 73 Luật BHXH năm 2014, người lao động (NLĐ) đủ điều kiện hưởng lương hưu khi nam đạt 60 tuổi, nữ đạt 55 tuổi và có tối thiểu 20 năm đóng bảo hiểm xã hội (BHXH) Nếu NLĐ đã đủ tuổi nhưng chưa đủ 20 năm đóng BHXH, họ có thể tiếp tục đóng cho đến khi đủ 20 năm để nhận lương hưu.
2.2.3 Trợ cấp một lần khi nghỉ hưu, BHXH một lần
2.2.3.1 Trợ cấp một lần khi nghỉ hưu
Khi nghỉ hưu trong chế độ hưu trí tự nguyện, người lao động (NLĐ) có thời gian đóng bảo hiểm xã hội (BHXH) vượt quá số năm tương ứng với tỷ lệ hưởng lương hưu 75% sẽ được nhận trợ cấp một lần Mức trợ cấp này được tính dựa trên số năm đóng BHXH vượt mức, với mỗi năm đóng BHXH tương ứng với 0,5 tháng mức bình quân thu nhập tháng đóng BHXH.
2.2.3.2 BHXH một lần Đƣợc quy định tại Điều 77 Luật BHXH 2014 nhƣ sau:
Người lao động tham gia bảo hiểm xã hội (BHXH) tự nguyện phải là công dân Việt Nam từ 15 tuổi trở lên và không thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc Nếu có yêu cầu, họ có quyền được hưởng BHXH một lần.
2.2.4 Bảo lưu thời gian đóng BHXH, tạm dừng, hưởng tiếp lương hưu
Nội dung quy định về bảo lưu thời gian đóng bảo hiểm xã hội (BHXH) và tạm dừng, hưởng tiếp lương hưu trong chế độ hưu trí tự nguyện tương tự như trong chế độ hưu trí bắt buộc Người đang hưởng lương hưu cần phải đáp ứng các điều kiện pháp luật quy định để tiếp tục nhận lương hưu trong các trường hợp cụ thể mà luật đã đề ra.
2.2.5 Mức bình quân thu nhập tháng đóng BHXH Đƣợc quy định tại Điều 79 Luật BHXH nhƣ sau:
Mức bình quân thu nhập tháng để đóng bảo hiểm xã hội được xác định bằng cách tính toán trung bình các mức thu nhập tháng trong toàn bộ thời gian tham gia đóng bảo hiểm.
Thu nhập tháng đã đóng bảo hiểm xã hội sẽ được điều chỉnh dựa trên chỉ số giá tiêu dùng của từng thời kỳ, theo quy định của Chính phủ, nhằm tính toán mức bình quân thu nhập tháng của người lao động.
Thực tiễn áp dụng pháp luật về chế độ hưu trí hiện nay
2.3.1 Những kết quả đạt được
2.3.1.1.Về đối tượng tham gia
Theo thống kê năm 2017, có 13.591.492 người tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, tăng 23,4% so với năm 2012, khi số người tham gia chỉ khoảng 10.431.617 Sự gia tăng này phản ánh hiệu quả của việc áp dụng luật bảo hiểm xã hội năm 2014.
Về BHXH tự nguyện: Theo thống kê năm 2017, số đối tƣợng tham gia BHXH tự nguyện là 227.506 người, tăng 41,2% so với năm 2012 3
2.3.1.2 Về đối tượng được hưởng chế độ hưu trí
Theo thống kê của BHXH Việt Nam, năm 2017, cả nước đã cấp chế độ hưu trí cho 144.874 người, tăng 43% so với 101.200 người năm 2012 Bên cạnh đó, có 666.955 người nhận BHXH một lần, tăng 11% so với 601.020 người năm 2012.
Bảo hiểm xã hội Việt Nam đã công bố Báo cáo số 15/BC-BHXH vào ngày 03/4/2018, trình bày tình hình thực hiện chính sách và chế độ bảo hiểm xã hội, cũng như quản lý và sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội trong năm 2017.
Theo Báo cáo số 15/BC-BHXH ngày 03/4/2018 của Bảo hiểm xã hội Việt Nam, trong năm 2017, đã có 94.116 người nhận chế độ bảo hiểm xã hội một lần khi nghỉ hưu, tăng 30% so với con số 72.371 người trong năm 2012.
2.3.1.3 Về chi trả chế độ hưu trí
Theo thống kê, năm 2017, tổng số tiền chi cho 2.422.629 người hưởng lương hưu hàng tháng đạt 124.280 tỷ đồng, tăng đáng kể so với năm 2007, khi tổng số tiền chi cho 1.589.111 người hưởng lương hưu chỉ là 26.144 tỷ đồng.
2.3.2 Những tồn tại, bất cập
Bên cạnh những kết quả đạt được trong việc thực hiện chế độ hưu trí ở nước ta còn một số tồn tại, hạn chế sau:
Tỷ lệ tham gia bảo hiểm xã hội (BHXH) hiện nay còn thấp, dẫn đến việc độ bao phủ BHXH tăng chậm Mặc dù có quy định pháp luật về diện bao phủ BHXH, nhưng thực tế quy mô tham gia vẫn chưa đạt yêu cầu, chưa hướng tới mục tiêu bao phủ toàn dân.
Về chính sách thực hiện:
Luật BHXH năm 2014 chưa bao quát hết các đối tượng tham gia BHXH bắt buộc, như chủ hộ kinh doanh cá thể, người quản lý doanh nghiệp và người quản lý hợp tác xã không hưởng lương Hiện có khoảng 5 triệu chủ hộ kinh doanh cá thể, trong đó khoảng 3,7 triệu đã đăng ký kinh doanh Nhu cầu tham gia BHXH của nhóm này là rất lớn, với hơn 2 triệu người có nhu cầu tính đến hết ngày 30/9/2016.
4240 chủ hộ đã đăng ký tham gia BHXH và thực tế cơ quan BHXH đã tổ chức thu và giải quyết hưởng các chế độ BHXH 6
Về tổ chức thực hiện:
Công tác tuyên truyền chính sách BHXH hiện chưa đạt hiệu quả mong muốn, chưa phát huy được thông tin đến toàn dân Một số địa phương thiếu quyết liệt và chưa quan tâm đúng mức đến BHXH tự nguyện Hơn nữa, sự kết nối và chia sẻ thông tin giữa các bộ, ngành và địa phương còn hạn chế, dẫn đến khó khăn trong việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý của Ngành BHXH.
Về độ tuổi nghĩ hưu thực tế so với quy định
Theo thống kê của Bảo hiểm xã hội Việt Nam năm 2013, tuổi nghỉ hưu bình quân là 54,08 tuổi, với nam là 55,32 tuổi và nữ là 52,85 tuổi Thời gian đóng bảo hiểm trung bình của nam giới là 30 năm, trong khi nữ giới là 28 năm Đặc biệt, trong khối hành chính sự nghiệp, tuổi nghỉ hưu trung bình cao hơn, đạt 55,92 tuổi, với nam là 58,25 tuổi và nữ là 54,61 tuổi.
4 Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2018), Báo cáo số 75-BC/BCS ngày 25/6/2018 về kết quả 05 năm thực hiện
Nghị quyết số 21-NQ/TW
5 Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2018), Báo cáo số 75-BC/BCS ngày 25/6/2018 về kết quả 05 năm thực hiện
Nghị quyết số 21-NQ/TW
6 Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2017), Báo cáo số 85/BC-LĐTBXH ngày 25/8/2017 về các giải pháp mở rộng diện bao phủ bảo hiểm xã hội
Tuổi nghỉ hưu trung bình tại Việt Nam hiện nay là 52,56 tuổi đối với khối doanh nghiệp Nhà nước, 52,04 tuổi cho doanh nghiệp tư nhân, và 52,4 tuổi cho doanh nghiệp liên doanh Đối với nam giới, tuổi nghỉ hưu lần lượt là 53,8 tuổi, 53,71 tuổi và 54,74 tuổi; trong khi nữ giới là 50,61 tuổi, 50,02 tuổi và 49,26 tuổi Đặc biệt, ở những ngành nghề nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm, tuổi nghỉ hưu trung bình chỉ khoảng 43 tuổi So với một số quốc gia có chính sách phát triển như Nhật Bản (70 tuổi), Anh và Đức (67 tuổi), Canada (65 tuổi) và Pháp (65 tuổi với lộ trình điều chỉnh tăng thêm 01 tuổi mỗi năm), tuổi nghỉ hưu tại Việt Nam vẫn còn thấp.
Về cách tính mức bình quân lương tháng đóng:
Theo quy định hiện hành, mức bình quân tiền lương tháng đóng BHXH là căn cứ để tính lương hưu và trợ cấp BHXH một lần Tuy nhiên, có sự phân biệt giữa người lao động (NLĐ) trong khu vực nhà nước và khu vực ngoài nhà nước NLĐ khu vực nhà nước được tính lương hưu dựa trên mức bình quân lương những năm cuối, giúp họ hưởng lợi hơn do lương tăng theo thâm niên Ngược lại, NLĐ khu vực ngoài nhà nước tính lương hưu bình quân trong suốt quá trình làm việc, dẫn đến việc mức đóng cao tương ứng với mức hưởng cao, và ngược lại.
Về vướng mắc đối với người hoạt động không chuyên trách cấp xã
Luật BHXH năm 2014 quy định mức lương cơ sở là căn cứ đóng BHXH cho người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, nhưng điều này gây bất cập cho những người trước đó đã hoạt động chuyên trách với mức lương cao hơn Khi tính lương hưu, mức lương được tính dựa trên những năm cuối, bao gồm cả thời gian đóng BHXH với mức lương cơ sở, dẫn đến mức lương hưu thấp.
Từ năm 2014, cán bộ không chuyên trách cấp xã khi nghỉ hưu nhận mức lương hưu thấp hơn mức lương cơ sở, dẫn đến việc lương hưu không được đảm bảo bằng mức lương cơ sở Trong khi đó, các đối tượng tham gia BHXH bắt buộc khác đủ điều kiện hưởng lương hưu lại có mức lương hưu tối thiểu bằng mức lương cơ sở Tính đến ngày 31/12/2017, đã có 136.446 người tham gia BHXH bắt buộc vào quỹ hưu trí Vấn đề này cho thấy sự bất cập trong tổ chức thực hiện và cần được sửa đổi sớm, vì mức lương hưu của cán bộ không chuyên trách hiện nay vẫn thấp so với mức lương bình quân chung, với mức lương tháng bình quân đóng BHXH năm 2017 chỉ đạt 1.225 đồng.
7Trung tâm Công nghệ thông tin - Bảo hiểm xã hội Việt Nam cung cấp tháng 11/2016.
8Viện Khoa học bảo hiểm xã hội - Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Công văn số 536/VKH-NCDB ngày 19/12/2016 về tính toán cân đối quỹ bảo hiểm xã hội.
Bảo hiểm xã hội Việt Nam đã công bố Báo cáo số 15/BC-BHXH vào ngày 03/4/2018, nêu rõ tình hình thực hiện chính sách và chế độ bảo hiểm xã hội, cũng như việc quản lý và sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội trong năm 2017.
Trong Chương 2 của luận văn, tác giả nghiên cứu thực trạng quy định của Luật BHXH năm 2014 về chế độ hưu trí bắt buộc và tự nguyện, bao gồm đối tượng tham gia, điều kiện và mức hưởng Tác giả tổng hợp thông tin về các quy định hiện hành, chỉ ra những điểm mới và tiến bộ của chính sách nhằm đảm bảo nguyên tắc đóng, hưởng và cân đối quỹ hưu trí lâu dài Những cải cách như mở rộng đối tượng tham gia, điều chỉnh tuổi nghỉ hưu và công thức tính lương hưu từ 01/01/2018 được nhấn mạnh Tuy nhiên, cũng có những hạn chế như việc điều chỉnh công thức tính lương hưu cho lao động nữ không theo lộ trình, quy định về tuổi nghỉ hưu trong bối cảnh già hóa dân số, và điều kiện hưởng BHXH một lần còn quá rộng Những phân tích này là cơ sở cho các giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện chế độ hưu trí trong Chương 3.
MỘT SỐ YÊU CẦU, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN CHẾ ĐỘ HƯU TRÍ HIỆN NAY
Yêu cầu hoàn thiện pháp luật về chế độ hưu trí
3.1.1 Hoàn thiện chế độ hưu trí phải phù hợp với chính sách của Đảng và Nhà nước về an sinh xã hội
3.1.2 Hoàn thiện chế độ hưu trí phải khắc phục được những bất cập của pháp luât hiện hành và đảm bảo tính khả thi trong tổ chức thực hiện
3.1.3 Hoàn thiện pháp luật về chế độ hưu trí phải phù hợp với thông lệ quốc tế và xu hướng hội nhập
3.1.4 Hoàn thiện pháp luật về chế độ hưu trí phải giải quyết được những thách thức của thời kỳ già hóa dân số
Giải pháp hoàn thiện pháp luật về chế độ hưu trí
trí Một là , tăng tuổi nghỉ hưu theo lộ trình.
Hai là, điều chỉnh cách tính lương hưu theo nguyên tắc đóng - hưởng, công bằng, bình đẳng, chia sẻ và bền vững.
Ba là, mở rộng diện bao phủ BHXH tiến tới BHXH toàn dân.
Bốn là, cần rút ngắn thời gian, thủ tục thực hiện các chế độ BHXH nói chung và chế độ hưu trí nói riêng.
Năm là, cần hoàn thiện các chế tài xử lý vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội (BHXH) để nâng cao hiệu quả quản lý Sáu là, cần thắt chặt điều kiện hưởng bảo hiểm hưu trí một lần nhằm hạn chế số lượng người nhận bảo hiểm hưu trí theo hình thức này.
Bảy là, đẩy mạnh ký kết các hiệp định đa phương và song phương về BHXH với các nước.