1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

BÁO CÁO GIẢM THIỂU TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG TRONG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM(FDIS)

102 17 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 102
Dung lượng 5,15 MB

Cấu trúc

  • 2.1 Khuyến khích đầu tư và kết quả (16)
  • 2.2 Thẩm định trước khi đầu tư (18)
  • 2.3 Tình huống pháp luật (19)
    • 2.3.1 Giới thiệu (19)
    • 2.3.2 Luật Việt Nam và quyền tài phán (19)
    • 2.3.3 Luật và quyền hạn quốc gia khác (21)
    • 2.3.4 Hiệp định quốc tế song phương (24)
  • 2.4 Khu công nghiệp (25)
  • 2.5 Năng lực thực hiện (29)
  • 2.6 Xác định nguyên nhân và kết quả (31)
  • 2.7 Hỗ trợ doanh nghiệp và nguyên tắc “Người ô nhiễm phải trả” (0)
  • 2.8 Chiến lược can thiệp (37)
  • 3.1. Giới thiệu chính sách (38)
  • 3.2. Quản lý phát triển kinh tế (38)
  • 3.3. Cấp phép môi trường và khu công nghiệp (40)
  • 3.4. Định lượng những thiếu hụt về năng lực thể chế (41)
  • 3.5. Xây dựng năng lực cần thiết để thực hiện hiệu quả (0)
  • 3.6. Phát triển các hệ thống thông tin và giám sát (43)
  • 3.7. Rà soát các doanh nghiệp có FDI (44)
  • 3.8. Khuyến nghị khác (44)
    • 3.8.1. Khuyến khích doanh nghiệp quản lý trách nhiệm môi trường (44)
    • 3.8.2. Hỗ trợ rà soát đặc biệt trước khi đầu tư (45)
  • 4. Kết luận (46)
  • 1. Giai đoạn đăng ký kinh doanh (49)
  • 2. Giai đoạn chuẩn bị đầu tư và xây dựng (50)
  • 3. Giai đoạn hoạt động kinh doanh (51)
    • 3.1. Những công việc nhà đầu tư phải làm (51)
    • 3.2. Các nhiệm vụ liên quan đến bảo vệ môi trường mà nhà đầu tư phải thực hiện (55)
    • 3.3. Xử phạt nhà đầu tư vi phạm (0)
  • 4. Khuyến khích và hỗ trợ các hoạt động kinh doanh có ảnh hưởng tích cực đến môi trường (58)
  • Tài liệu tham khảo (47)
    • 1. TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG TỪ CÁC HOẠT ĐỘNG FDI TẠI VIỆT NAM (64)
      • 1.1. Tổng quan các thiệt hại môi trường do các hoạt động môi trường ở Việt Nam (64)
      • 1.2. Các vấn đề về môi trương của các hoạt động FDI (0)
    • 2. Tuân thủ quy định môi trường (71)
      • 2.1. Tổng quan (71)
      • 2.2. Thực hiện quy định môi trường của các doanh nghiệp FDI ở Bắc Ninh (81)
        • 2.2.2 Quy định và quy trình thực tế mà các doanh nghiệp thực hiện trong từng bước đầu tư và hoạt động (87)
        • 2.2.3. Vai trò của người lao động và người thuê lao động trong bảo vệ môi trường và tuân thủ pháp luật môi trường (90)
        • 2.2.4. Vai trò của chính quyền trung ương và địa phương trong thực thi, khuyến khích (90)
        • 2.2.5. Những hạn chế và thiếu sót của doanh nghiệp trong việc bảo vệ môi trường và tuân thủ các quy định (91)
    • 3. Khuyến nghị (38)

Nội dung

Khuyến khích đầu tư và kết quả

Theo Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), hiện tại, đầu tư nước ngoài vào Việt Nam chủ yếu được khuyến khích do chi phí lao động và tài nguyên thiên nhiên thấp Lợi thế thương mại lớn nhất nằm trong các lĩnh vực sử dụng lao động cấp thấp và tài nguyên tự nhiên như may mặc, chế biến thực phẩm và hóa chất Tuy nhiên, những ngành này thường gây ô nhiễm môi trường, dẫn đến nhận thức sai lầm rằng ô nhiễm liên quan đến FDI Việt Nam được xem như "thiên đường ô nhiễm" cho một số nhà đầu tư nước ngoài, nơi các hoạt động gây ô nhiễm ít rủi ro hơn Trong số các nhà đầu tư lớn, Nhật Bản có hồ sơ đáng chú ý, mặc dù quan điểm của họ về môi trường còn gây tranh cãi Nhật Bản đã tổ chức Hội nghị Kyoto và thúc đẩy Nghị định thư Kyoto, nhưng cũng bị chỉ trích vì xuất khẩu vấn đề môi trường sang nước khác và các hoạt động gây hại như đánh bắt cá voi Đồng thời, Ấn Độ và một số nước thành viên EU cũng đối mặt với vấn đề quản lý môi trường kém, dẫn đến những thảm họa như vụ Bhopal và sự cố tràn cyanide tại Romania.

Cyanide đã rò rỉ vào sông Somes do hoạt động khai thác vàng của Công ty Aurul, một liên doanh giữa Công ty Esmeralda Exploration của Úc và Chính phủ Romania.

Việc thực thi Luật Môi trường ở Việt Nam chưa đạt hiệu quả như mong đợi, mặc dù Luật này có quy định rõ ràng về đánh giá tác động môi trường (EIA) Điều này có thể khiến các nhà đầu tư nước ngoài lo ngại về rủi ro pháp lý khi thiết lập hoạt động tại Việt Nam, đặc biệt là những nhà đầu tư đến từ các quốc gia có hệ thống pháp luật nghiêm ngặt hơn Họ thường không muốn đánh đổi danh tiếng công ty cho những hoạt động có vấn đề về đạo đức kinh doanh môi trường Do đó, đề xuất của VCCI về chính sách khuyến khích chi phí là một giải pháp hợp lý để cải thiện tình hình này.

Chi phí đáp ứng các tiêu chuẩn quản lý môi trường có thể không phải là yếu tố chính đối với các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam Điều này cho thấy rằng việc cải thiện quy định và quản lý môi trường có thể không làm giảm đáng kể lượng đầu tư FDI vào quốc gia này, mà chủ yếu giúp giảm thiểu tác động môi trường từ các lĩnh vực kinh doanh hiện tại Việt Nam đang ưu tiên các nhà đầu tư có khả năng chứng minh tác động tích cực đến môi trường Luật Bảo vệ Môi trường số 55/2014/QH13 quy định các hoạt động đề xuất, bao gồm cả FDI, phải trải qua quy trình sàng lọc và đánh giá tác động môi trường Nghiên cứu từ Dự án EU-MUTRAP cũng chỉ ra rằng các điều khoản EIA trong luật Việt Nam phù hợp với quy định của Liên minh châu Âu, khẳng định tính hợp pháp và hiệu quả của hệ thống pháp luật môi trường tại Việt Nam.

12 Chính phủ Ấn Độ và Nhà nước Madhya Pradesh

Việt Nam không cho phép nhà đầu tư nước ngoài khai thác lợi thế thương mại dựa trên quan điểm "nơi giấu ô nhiễm" Phụ lục 1 sẽ cung cấp thông tin chi tiết về vấn đề này cùng với các điều khoản pháp lý liên quan.

Thẩm định trước khi đầu tư

Trước khi đầu tư vào Việt Nam, nhà đầu tư nước ngoài thường tiến hành nghiên cứu thẩm định chi tiết và xây dựng kế hoạch kinh doanh với dự báo doanh thu và chi phí hàng tháng Dòng tiền và mức vốn cần thiết phụ thuộc vào những giả định hợp lệ trong kế hoạch kinh doanh, bao gồm thời gian xin cấp giấy phép môi trường Việc đầu tư vào các khu công nghiệp đã được thiết lập giúp giảm thiểu rủi ro do sự không chắc chắn trong quy trình cấp phép Tuy nhiên, nếu thẩm định chỉ ra rằng việc cấp phép thường bị chậm trễ do lý do không rõ ràng, điều này có thể khiến nhà đầu tư nản lòng Báo cáo về vấn đề môi trường cung cấp thông tin chi tiết về quy trình cấp phép và lập kế hoạch kinh doanh.

Việt Nam đang tập trung vào việc tăng cường nguồn lực cho cơ quan quản lý môi trường, nhằm cải thiện hiệu quả thực thi và xây dựng niềm tin cho các nhà đầu tư nước ngoài Điều này không chỉ giúp giải quyết vấn đề thực thi mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư trong việc lập kế hoạch kinh doanh dựa trên các giả định vững chắc.

Các hệ thống quản lý môi trường phức tạp không cần phải làm nản lòng các nhà đầu tư, miễn là các tổ chức liên quan chứng minh được năng lực xử lý quy trình pháp lý một cách nghiêm ngặt Tuy nhiên, thực thi yếu kém lại tạo ra nghịch lý, trở thành rào cản thu hút đầu tư, giống như nguyên tắc “nơi giấu ô nhiễm”, do mức độ bất ổn ngày càng gia tăng.

Tình huống pháp luật

Giới thiệu

Pháp luật đóng vai trò quan trọng trong việc thực thi chính sách, không chỉ ở Việt Nam mà còn trên toàn cầu Có ba khung pháp luật chính liên quan đến việc lựa chọn và thiết kế các công cụ chính sách nhằm giảm thiểu tác động môi trường từ đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).

Luật Việt Nam và quyền tài phán

Luật pháp Việt Nam bao gồm toàn bộ quy định và khung pháp lý về môi trường, áp dụng đồng nhất cho tất cả các hoạt động trên lãnh thổ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bất kể nguồn tài chính hỗ trợ Điều này có nghĩa là tất cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) tại Việt Nam phải tuân thủ các quy định pháp luật giống như các doanh nghiệp nội địa trong cùng một điều kiện.

Pháp luật và hiệu quả thực thi pháp luật tại Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong quản lý môi trường đầu tư nước ngoài (FDI) Tuy nhiên, thực tế cho thấy pháp luật Việt Nam không đủ khả năng để điều tiết hoạt động của nhà đầu tư nước ngoài tại quốc gia xuất xứ hoặc bất kỳ nơi nào khác ngoài phạm vi quyền hạn của mình.

Bộ Luật Bảo vệ Môi trường số 55/2014/QH13, có hiệu lực từ ngày 01/01/2015, đánh dấu bước tiến quan trọng so với Bộ luật năm 2005, với các yêu cầu bảo vệ môi trường áp dụng cho doanh nghiệp Theo luật mới, tất cả các dự án đầu tư đều phải có bản đánh giá tác động môi trường, được phê duyệt bởi Quốc hội, Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ, hoặc liên quan đến các khu vực bảo tồn thiên nhiên, di tích văn hóa - lịch sử, di sản thế giới, khu dự trữ sinh quyển, hoặc những dự án có nguy cơ gây hại cho môi trường.

Luật quy định rằng việc bảo vệ môi trường cần phải hài hòa với phát triển kinh tế, an sinh xã hội, bảo vệ đa dạng sinh học và thích ứng với biến đổi khí hậu Mặc dù luật không định nghĩa rõ ràng về khái niệm "hài hòa", nhưng các tài liệu tham khảo cho thấy rằng mục tiêu chính là phát triển bền vững Do đó, "hài hòa" có thể được hiểu thông qua các nguyên tắc phát triển bền vững của Liên hợp quốc, được trình bày trên trang web www.sustainabledevelopment.un.org.

Luật Bảo vệ Môi trường 2014 quy định rằng bảo vệ môi trường là trách nhiệm của tất cả các cơ quan, tổ chức, hộ gia đình và cá nhân, với nguyên tắc "người gây ô nhiễm phải trả tiền" Luật khuyến khích sử dụng năng lượng tái tạo và sạch nhằm giảm phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ozon Ngoài ra, luật yêu cầu xây dựng lộ trình để Việt Nam tham gia vào các hoạt động giảm thiểu khí nhà kính toàn cầu, phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội và các điều ước quốc tế Kế hoạch Bảo vệ Môi trường Quốc gia sẽ được xây dựng để đánh giá hiện trạng môi trường và dự báo biến đổi khí hậu Một điểm quan trọng là EIA được xem là cơ chế chính để điều chỉnh tác động môi trường từ các hoạt động có nguy cơ gây ô nhiễm, và các yêu cầu của luật Việt Nam về đánh giá tác động môi trường đã được phân tích so với các thông lệ quốc tế tốt nhất.

Các quy định trong Luật Bảo vệ Môi trường 2014 phù hợp với các điều khoản tương ứng trong luật của nhiều quốc gia khác, đặc biệt là các quy định của Liên minh châu Âu liên quan đến Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam - EU.

Các yêu cầu pháp lý về lập kế hoạch quản lý môi trường liên quan đến EIA thường không được các chủ dự án thực hiện đầy đủ Cơ quan quản lý thiếu nguồn lực và có những đánh giá chuyên môn khắt khe về kế hoạch quản lý môi trường Hệ quả là, các yêu cầu về hậu đánh giá EIA thường không được cụ thể hóa chi tiết Thêm vào đó, các cơ quan quản lý cũng không đủ nguồn lực để giám sát hiệu quả các dự án của những nhà phát triển không chủ động tuân thủ các tiêu chí trong kế hoạch quản lý môi trường.

Mặc dù các nhà phát triển dự án và công ty tại Việt Nam thường không tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế, vấn đề này không phải do luật pháp Việt Nam mà do chính các công ty Hơn nữa, sự thiếu hụt năng lực quản lý môi trường đã cho phép các công ty hoạt động mà không bị xử lý Điều này dẫn đến kết luận rằng vấn đề nằm ở việc thực thi Luật Bảo vệ Môi trường 2014, không phải ở chính bản thân luật Bộ Tài nguyên và Môi trường (MONRE) đang tiến hành rà soát một số Nghị định, bao gồm Nghị định 179/2013/ND-CP về xử phạt hành chính.

Dự án EU-MUTRAP và INVEN-8 tập trung vào việc cải thiện giám sát các báo cáo đánh giá tác động môi trường, nhằm phân tích sự phù hợp với quy định bảo vệ môi trường Ngày 3/9/2014, một nghiên cứu đã thừa nhận rằng gánh nặng hành chính trong việc thực thi cần được điều chỉnh để tương thích hơn với nguồn lực thể chế hiện có Hai nghiên cứu khác cũng đã được thực hiện để hỗ trợ cho mục tiêu này.

EU-MUTRAP 17 đã kết luận rằng năng lực thể chế về quản lý môi trường là yếu tố hết sức hạn chế, đặc biệt cấp khu vực.

Luật môi trường Việt Nam đã thiết lập các điều khoản cần thiết nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) Tuy nhiên, thách thức lớn nhất nằm ở việc thực thi các điều khoản này, đặc biệt khi khả năng quản lý môi trường của các cơ quan chức năng còn hạn chế.

Luật và quyền hạn quốc gia khác

Nhà đầu tư nước ngoài phải tuân thủ luật pháp của quốc gia xuất xứ, và trong một số trường hợp như Liên minh châu Âu, họ có nghĩa vụ quan tâm đến quyền lợi của nhà đầu tư Nếu một công ty thực hiện đầu tư FDI tại Việt Nam nghi ngờ rằng nghĩa vụ này có thể không được thực hiện, Việt Nam không thể can thiệp trực tiếp vào vấn đề đó Do đó, việc tiến hành nghiên cứu trước khi đầu tư là rất quan trọng, và lợi ích tại Việt Nam sẽ hỗ trợ các nghiên cứu này bằng cách cung cấp thông tin hướng dẫn cho các nhà đầu tư.

Khung pháp lý môi trường của Hàn Quốc đã được đánh giá trong báo cáo của EU-MUTRAP, cho thấy các vi phạm môi trường ở Hàn Quốc nghiêm trọng hơn so với Liên minh châu Âu, với hình phạt giam giữ cho các vi phạm nghiêm trọng Hàn Quốc áp dụng nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền”, yêu cầu các doanh nghiệp tuân thủ quy định môi trường và chịu trách nhiệm bồi thường khi vi phạm Hàn Quốc cũng đã ký kết hiệp định thương mại với EU, trong đó cam kết tuân thủ các quy định môi trường của châu Âu Do đó, khuôn khổ bảo vệ môi trường của Hàn Quốc ngày càng gần gũi với châu Âu, mặc dù cấu trúc pháp luật có sự khác biệt Các công ty Hàn Quốc có trách nhiệm trong việc chăm sóc đầu tư nước ngoài.

Bộ Môi trường Hàn Quốc đã ban hành hoạt động số 6094 vào ngày 31/12/1999 (sửa đổi), quy định các phương pháp đặc biệt để giám sát vi phạm môi trường.

19 INVEN-8 PE2, Hỗ trợ rà soát các hành vi vi phạm quy định bảo vệ môi trường, Phân tích thông lệ quốc tế tốt nhất, Stuart Brown,

Nhật Bản sở hữu nhiều bộ luật bảo vệ môi trường, trong đó nổi bật nhất là Luật Môi trường Cơ bản (Luật 91) được ban hành ngày 13/11/1993 Luật này thiết lập ba nguyên tắc cơ bản cho chính sách môi trường, khẳng định cam kết của quốc gia trong việc bảo vệ và cải thiện môi trường sống.

Môi trường không chỉ cần được tận hưởng bởi thế hệ hiện tại mà còn phải được bảo vệ để đảm bảo lợi ích cho các thế hệ tương lai.

Một xã hội bền vững đòi hỏi phải tối thiểu hóa các hoạt động của con người mà có ảnh hưởng đến môi trường.

Nhật Bản phải đóng góp tích cực vào công cuộc bảo vệ môi trường toàn cầu thông qua hợp tác quốc tế.

Luật môi trường Nhật Bản đã xác định rõ trách nhiệm của các bên liên quan, bao gồm chính quyền trung ương, chính quyền địa phương, các tập đoàn và người dân, yêu cầu họ hợp tác và chia sẻ gánh nặng trong việc bảo vệ môi trường Dựa trên các nguyên tắc này, luật sẽ thiết lập các công cụ chính cho chính sách môi trường Ngoài các biện pháp quản lý truyền thống như kiểm soát ô nhiễm và bảo vệ thiên nhiên, luật còn quy định thêm nhiều biện pháp khác.

Xem xét môi trường trong xây dựng chính sách.

Kế hoạch Môi trường Cơ bản, được xây dựng vào ngày 16/12/1994, nêu rõ các định hướng chính sách dài hạn nhằm bảo vệ môi trường Đồng thời, kế hoạch cũng bao gồm việc đánh giá tác động môi trường cho các dự án phát triển, đảm bảo sự phát triển bền vững và giảm thiểu các tác động tiêu cực đến hệ sinh thái.

Các biện pháp kinh tế khuyến khích hoạt động giảm tải môi trường.

Cải thiện cơ sở hạ tầng xã hội như là hệ thống cống rãnh, phương tiện giao thông.

Khuyến khích các hoạt động môi trường của các tập đoàn, công dân và các tổ chức phi chính phủ, giáo dục về môi trường, cung cấp thông tin.

Thúc đẩy khoa học và công nghệ.

Hợp tác quốc tế về bảo tồn môi trường toàn cầu.

Luật Môi trường Nhật Bản nổi bật với nguyên tắc chia sẻ gánh nặng và hợp tác trong xã hội Nguyên tắc này không chỉ được ngụ ý qua các thủ tục tham vấn trong luật EU và các quy định tương tự, mà còn được nêu rõ và nhấn mạnh thường xuyên hơn trong hệ thống pháp luật của Nhật Bản.

Đài Loan đã thiết lập các thủ tục đánh giá tác động môi trường từ khi ban hành Đạo luật Đánh giá Tác động Môi trường năm 1994, tương tự như luật năm 2014 của Việt Nam Tuy nhiên, quy định về giám sát thực hiện dự án trong Đạo luật EIA không yêu cầu nhà thầu lập kế hoạch giám sát Điều này có nghĩa là các nhà đầu tư Đài Loan tại Việt Nam cần chú ý đến các quy định về quản lý môi trường theo luật Việt Nam Chính quyền Đài Loan hiện đang tập trung vào việc cải thiện tiêu chuẩn chất lượng nước, xử lý chất độc hại và quản lý chất thải rắn, với Đạo luật Kiểm soát Ô nhiễm Nước năm 1991 quy định mức phạt cho các hành vi ô nhiễm nước.

Năm 1994, hai Đạo luật bổ sung về tiêu chuẩn nước thải ra đại dương và quản lý nước thải đã được thông qua, yêu cầu các công ty mới và những người tham gia dự án phải xử lý đầy đủ chất thải rắn và lỏng Họ cần trình bày các chương trình kiểm soát quản lý của mình để đảm bảo sự kiểm soát công cộng, như một phần của quy trình kiểm tra tác động môi trường.

Tất cả các công ty quản lý chất độc hại, xả nước thải, khí đốt và các chất thải công nghiệp đều có trách nhiệm lập kế hoạch xử lý chất thải với EPA Các công ty phải thiết lập hệ thống xử lý và chương trình quản lý trong thời hạn quy định để tránh bị phạt Những công ty không tuân thủ và gây ô nhiễm sẽ phải chịu mức phạt nặng Đặc biệt, các công ty hoặc cá nhân bán phá giá chất thải dẫn đến mất mạng có thể bị phạt tù chung thân.

So sánh với Việt Nam

Pháp luật môi trường cơ bản của Việt Nam liên quan đến việc giảm thiểu tác động môi trường từ đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tương tự như Hàn Quốc và Nhật Bản Tuy nhiên, khả năng thực thi pháp luật trong nước còn hạn chế do hai nguyên nhân chính.

21 eialaws.elaw.org/content/taiwan

Pháp luật về môi trường thứ cấp ở Việt Nam vẫn đang trong giai đoạn phát triển, đặc biệt là về giám sát và xử phạt môi trường;

Năng lực thể chế của Việt Nam có nhiều hạn chế về ngân sách so với Hàn Quốc và Nhật Bản.

Có thể suy luận rằng các nhà đầu tư từ Hàn Quốc và Nhật Bản sẽ quen thuộc với một hệ thống quản lý môi trường ít nhất tương đương với mức độ nghiêm ngặt đang áp dụng tại Việt Nam.

Pháp luật về đánh giá tác động môi trường tại Đài Loan không chặt chẽ như ở Việt Nam, đặc biệt trong quản lý môi trường và đánh giá tác động của các dự án Việc thực thi luật bảo vệ môi trường ở Đài Loan gặp khó khăn, dẫn đến tình trạng kiểm soát tác động môi trường yếu kém Mặc dù có một số biện pháp khắc phục, nhưng ưu tiên phát triển kinh tế với chi phí thấp đã gây ra thiếu hụt trong quy hoạch hạ tầng và giám sát ô nhiễm Mặc dù tình hình đang cải thiện, Đài Loan vẫn cần nhiều năm để phục hồi môi trường, với nhiều khu vực đã bị suy thoái nghiêm trọng Việc so sánh tình trạng môi trường giữa Đài Loan và Việt Nam gặp khó khăn do sự khác biệt trong các yếu tố phối hợp Có thể kết luận rằng, một công ty FDI Đài Loan tại Việt Nam có thể có nhận thức môi trường tương tự như một công ty Việt Nam.

Hiệp định quốc tế song phương

Các hiệp định quốc tế song phương của Việt Nam bao gồm hiệp định thương mại với các quốc gia khác, ASEAN và Liên minh châu Âu Những hiệp định này có thể được xây dựng dựa trên Hiệp định chung về Thương mại và Thuế quan (GATT) của WTO Việt Nam có quyền yêu cầu nhà đầu tư giải trình về nghĩa vụ bảo vệ môi trường và có các điều khoản rà soát đặc biệt.

Việt Nam cần chú ý rằng các nhà đàm phán có thể ưu tiên các vấn đề kinh tế và thương mại hơn là phát triển bền vững Hiện tại, cần xem xét lại chương môi trường trong Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam - EU để đánh giá nhu cầu nguồn lực và lập kế hoạch thực hiện EU-MUTRAP đang xây dựng các đề xuất nhằm giải quyết nhu cầu này Các chương về môi trường trong các hiệp định thương mại của EU cũng đã dựa vào GATT của WTO để xác định các hoạt động có thể thực hiện.

Các công ty nước ngoài không thành lập chi nhánh ở Việt Nam nhưng thường xuyên cử đại diện thực hiện các hoạt động kinh doanh ở Việt Nam;

Các tổ chức nước ngoài có thể thành lập chi nhánh hoặc tổ chức kinh doanh tại Việt Nam, trong khi các công ty Việt Nam cũng có cơ hội mở rộng kinh doanh ra nước ngoài hoặc xuất khẩu sản phẩm Các hoạt động kinh doanh này được cấp phép theo hai hình thức: bị ràng buộc và không ràng buộc Các hoạt động bị ràng buộc thường không gây rủi ro cho môi trường và phải tuân thủ các tiêu chí nhất định, nhằm đảm bảo không phát sinh rủi ro khi thực hiện Việc tuân thủ các tiêu chuẩn này là yếu tố quan trọng trong việc bảo vệ môi trường.

Khu công nghiệp

Doanh nghiệp FDI không hoạt động thường xuyên trong các khu công nghiệp, điều này được xác nhận qua các cuộc khảo sát thực địa tại Bắc Ninh Cuộc thảo luận với ban quản lý khu công nghiệp địa phương đã chỉ ra những khó khăn trong việc thực hiện quy chế quản lý môi trường hiệu quả Vấn đề này cần được thảo luận chi tiết vì nghiên cứu cho thấy không chỉ một số quốc gia gặp phải mà còn có nhiều giải pháp đa dạng từ các quốc gia khác nhau Do đó, không tồn tại một "thực tiễn tốt nhất" duy nhất cho tình huống này, mà có nhiều lựa chọn với ưu và nhược điểm riêng.

Nhà điều hành khu công nghiệp thường cung cấp cơ sở hạ tầng môi trường cơ bản nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp hoạt động trong khu vực, dựa trên thỏa thuận hợp đồng đã được ký kết.

2 đề cập chi tiết hơn Một số vấn đề nảy sinh:

Nên đối xử với khu công nghiệp và các doanh nghiệp hoạt động trong đó như thế nào cho mục đích cấp phép môi trường?

Việc phân bổ trách nhiệm và nghĩa vụ pháp lý trong điều chỉnh tác động môi trường là rất quan trọng, đặc biệt trong việc xác định các biện pháp truy tố khi có vi phạm Cần xác định rõ ràng vai trò của các bên liên quan, từ cơ quan quản lý nhà nước đến doanh nghiệp và cộng đồng, nhằm đảm bảo tính minh bạch và hiệu quả trong việc thực thi các quy định về bảo vệ môi trường Điều này không chỉ giúp ngăn ngừa vi phạm mà còn tạo điều kiện cho việc xử lý kịp thời và công bằng các trường hợp vi phạm xảy ra.

Để một doanh nghiệp có thể bán chất thải ra thị trường mở cho những bên ngoài nhà điều hành khu công nghiệp, cần thiết có một cơ chế thích hợp Hai đặc điểm quan trọng của cơ chế này bao gồm việc phân biệt rõ ràng chất thải có thể bán và các phương tiện để quản lý các khía cạnh liên quan đến chất thải trong hợp đồng với nhà điều hành khu công nghiệp.

Doanh nghiệp có thể thuê nhà thầu quản lý chất thải bên ngoài để tái chế hoặc thải bỏ chất thải, điều này không chỉ giúp tối ưu hóa quy trình xử lý mà còn ảnh hưởng đến việc phân bổ trách nhiệm pháp lý Khi hợp tác với nhà thầu, doanh nghiệp cần xác định rõ ràng các điều khoản hợp đồng liên quan đến trách nhiệm trong việc xử lý chất thải, nhằm đảm bảo tuân thủ quy định pháp luật và giảm thiểu rủi ro pháp lý Việc này cũng yêu cầu doanh nghiệp phải thường xuyên kiểm tra và đánh giá hiệu quả hoạt động của nhà thầu để đảm bảo chất lượng dịch vụ và bảo vệ môi trường.

Các phương pháp quản lý môi trường khác nhau được áp dụng tại các quốc gia nhằm điều chỉnh hoạt động của các khu công nghiệp, đồng thời phân bổ trách nhiệm pháp lý cho doanh nghiệp trong khu vực này Thuật ngữ “người thuê” trong báo cáo này ám chỉ các doanh nghiệp hoạt động trong khu công nghiệp, tương tự như cách sử dụng thuật ngữ này tại Mỹ trong các tình huống tương tự.

Cách tiếp cận tích hợp tổng thể trong quản lý môi trường tại Việt Nam đang được xem xét kỹ lưỡng, với khái niệm cấp phép rộng rãi hay cấp phép kiểu "ô dù" mang lại nhiều lợi ích, như giảm bớt gánh nặng quản lý cho các công ty và nhà quản lý Việc này không chỉ thúc đẩy quản lý hiệu quả về dòng nguyên vật liệu và năng lượng mà còn khuyến khích sự hợp tác giữa các doanh nghiệp trong khu công nghiệp Tuy nhiên, vấn đề phân chia trách nhiệm pháp lý giữa các doanh nghiệp vẫn cần được bàn thảo, đặc biệt là trong trường hợp vi phạm quy định pháp luật Các giải pháp cho những thách thức này đã được đề xuất ở Hoa Kỳ, nhưng cần được áp dụng và điều chỉnh phù hợp với thực tế tại Việt Nam.

Thành lập khu công nghiệp như một "hiệp hội" quản lý môi trường tích hợp, yêu cầu các nhà thuê tham gia như điều kiện thuê Mỗi nhà thuê sẽ đóng phí trước và phí hàng tháng dựa trên mức độ phát thải kiểm soát Quỹ của hiệp hội sẽ được sử dụng để đối phó với trách nhiệm môi trường trong tương lai.

23 Lowe, Cẩm nang “Khu công nghiệp sinh thái”, Chương 7, “Chính sách công nghiệp sinh thái”,Phát triển Indigo, 2001.

Khi xem xét trách nhiệm chung, hiệp hội này có thể thực hiện quyền hạn để phạt hay đuổi những nhà thuê nếu họ tiếp tục vi phạm.

Một lựa chọn khác là thiết kế giấy phép theo kiểu “ô dù”, trong đó đặt trách nhiệm pháp lý tiềm tàng lên từng người thuê Người thuê cần thiết lập các giới hạn cho toàn bộ nhóm, với việc phân bổ giới hạn được thương lượng giữa các bên trong giấy phép Tuy nhiên, phương pháp này có thể gặp khó khăn nếu các cuộc thương lượng không đạt được kết quả.

Ban quản lý Hiệp hội có trách nhiệm giám sát hoạt động môi trường và xử lý báo cáo quy định, đồng thời phản hồi thông tin cho người thuê Hệ thống này nhằm giảm thời gian xử lý các vấn đề pháp lý cho cả người thuê và cơ quan quản lý Khi Hiệp hội tuân thủ các quy định và mục tiêu đã đặt ra, người thuê sẽ có sự linh hoạt trong quản lý hiệu suất cá nhân Áp lực từ đồng nghiệp cũng tạo động lực cho người thuê tuân thủ pháp luật, thay vì chỉ dựa vào sự giám sát bên ngoài.

Cách tiếp cận hợp nhất này tuân theo nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả” khi “người gây ô nhiễm” được xác định là khu công nghiệp, và việc phân chia trách nhiệm pháp lý giữa các bên thuê cần được giải quyết theo thỏa thuận hiệp hội dựa trên các nguyên tắc tương tự Đan Mạch là ví dụ điển hình cho giải pháp này, đặc biệt là trường hợp khu công nghiệp Kalundborg, nơi được gọi là “hệ sinh thái công nghiệp”, được thảo luận sâu sắc bởi Ehrenfeld và Gertle.

Cộng sinh công nghiệp tại Việt Nam đang cho thấy tiềm năng phát triển thông qua các liên kết mạnh mẽ giữa các doanh nghiệp Tác giả nhấn mạnh rằng thành công này phụ thuộc vào việc thực hiện các hành động độc lập một cách kinh tế Điều này mở ra cơ hội cho các doanh nghiệp hợp tác hiệu quả hơn Indonesia đã áp dụng một mô hình tương tự, với các biện pháp khuyến khích doanh nghiệp hoạt động trong khu công nghiệp, được quy định chính thức từ ngày 28 tháng 12 năm 2015 Những quy định này tạo ra cơ sở pháp lý vững chắc cho sự phát triển của cộng sinh công nghiệp trong khu vực.

24 John Ehrenfeld and Nicholas Gertler (1997), “Sinh thái công nghiệp trong thực tiễn: Sự tiến hóa của sự phụ thuộc lẫn nhau ở Kalunborf” Tờ Sinh thái Công nghiệp 1(1)

Các quy định mới được ban hành nhằm thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp, bao gồm các khuyến khích cụ thể cho cả khu công nghiệp và người thuê Đồng thời, một cách tiếp cận quản lý môi trường cũng đang được phát triển để hỗ trợ mục tiêu này.

Mặc dù cách tiếp cận hợp nhất trong quản lý môi trường có sức hấp dẫn về lý thuyết, nhưng hiện tại nó vẫn quá tham vọng đối với Việt Nam Tuy nhiên, các nguyên tắc này có thể đóng vai trò quan trọng trong việc định hướng phát triển quản lý môi trường tại Việt Nam trong tương lai, đặc biệt là trong lĩnh vực khu công nghiệp và cấp phép môi trường.

Ehrenfeld và Gertler chỉ ra rằng việc chuyển đổi mô hình phát triển “đất trồng cây xanh” như ở Kalunborg không hề đơn giản và Việt Nam cần xem xét kỹ lưỡng vấn đề này, vì sự phát triển của đất nước phụ thuộc vào các khu công nghiệp mới Việc khởi động khu công nghiệp yêu cầu có một khung pháp lý vững chắc để đảm bảo sự ổn định cho các doanh nghiệp hiện tại, đồng thời linh hoạt cho các doanh nghiệp mới Cách tiếp cận của Anh và Hàn Quốc có thể mang lại lợi ích cho Việt Nam trong ngắn hạn Tuy nhiên, việc yêu cầu mỗi doanh nghiệp chịu trách nhiệm với giấy phép môi trường riêng có thể làm rõ trách nhiệm nhưng cũng tạo thêm gánh nặng cho các cơ quan quản lý, điều này cần được cân nhắc kỹ lưỡng trong bối cảnh nguồn lực quản lý môi trường còn hạn chế ở Việt Nam.

Năng lực thực hiện

Có 4 vấn đề cần đưa vào xem xét khi thảo luận về năng lực thể chế của Việt Nam để thực thi pháp luật môi trường.

Trên thực tế, đã có đủ các cơ quan để thực thi hiệu quả các nhiệm vụ, và các cấu trúc hiện tại phù hợp với mục đích đề ra Do đó, không cần thiết phải thành lập thêm cơ quan mới hay thay đổi cơ bản cấu trúc tổ chức của các cơ quan hiện tại.

Sự phối hợp giữa các tổ chức bảo vệ môi trường, ban quản lý, các phòng ban môi trường khu vực và cơ quan cấp trên hiện chưa đạt hiệu quả cao, dẫn đến việc doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc tìm kiếm thông tin cần thiết để thực hiện các nghĩa vụ pháp lý về bảo vệ môi trường.

Cần đánh giá lại trình độ nhân viên tại các cơ quan cấp vùng và năng lực kỹ thuật của họ Các yêu cầu hiện tại đã gợi ý về nhu cầu cần thiết phải tăng cường đáng kể thể chế.

Đến thời điểm hiện tại, chưa có đánh giá cụ thể nào về nỗ lực của nhân viên trong việc thực hiện hiệu quả các công việc định kỳ và các nhiệm vụ phát sinh từ quy định của luật môi trường Việt Nam Việc thiếu một tiêu chuẩn đối chiếu với kế hoạch định lượng đã khiến cho việc xác định phương pháp tăng cường thể chế cần thiết trở nên khó khăn.

Dự án EU-MUTRAP đã hợp tác với Bộ TN&MT (INVEN-8) để chỉ ra rằng năng lực thể chế của các cơ quan quản lý môi trường ở cấp vùng miền còn hạn chế, ảnh hưởng đến việc thực thi hiệu quả luật pháp Việt Nam trong giám sát tác động môi trường (ĐTM) và hậu giám sát ĐTM Các cuộc điều tra bổ sung tại Bắc Ninh không chỉ xác nhận tình trạng này mà còn chỉ ra sự thiếu hụt lớn về năng lực thể chế cần thiết để thực hiện luật môi trường một cách hiệu quả.

EU-MUTRAP đã tiến hành một nghiên cứu cho MONRE về chế tài xử phạt môi trường (INVEN-8 PE2), cho thấy nguồn lực quản lý môi trường của Anh quốc, mặc dù ít, vẫn vượt trội hơn so với Việt Nam Mặc dù việc so sánh trực tiếp giữa hai quốc gia khác nhau cần phải thận trọng, nhưng nghiên cứu cho thấy pháp luật môi trường tại Việt Nam còn nhiều hạn chế.

Để xác định con đường phát triển trong lĩnh vực môi trường, Luật Môi trường Việt Nam cần thiết lập nhiều nhiệm vụ cho các cơ quan quản lý Khối lượng công việc cần thiết để thực hiện các nhiệm vụ này có thể được ước lượng, và tổng khối lượng công việc để thực thi luật cũng vậy Tuy nhiên, hiện tại, tổng khối lượng công việc này đang vượt quá khả năng của các cơ quan quản lý Để thực thi hiệu quả, năng lực làm việc của các cơ quan quản lý cần phải tương thích với tổng khối lượng công việc ước tính.

Nếu các trách nhiệm lập pháp về môi trường được bổ sung mà không xem xét đến sự thiếu hụt năng lực, thì hiệu quả sẽ trở nên tiêu cực hơn là tích cực.

Việc tăng cường năng lực cho các cơ quan quản lý trong giám sát môi trường là rất cần thiết, đặc biệt trong bối cảnh giám sát hiện nay chủ yếu dựa vào công nghệ cao Tuy nhiên, thực tế cho thấy giám sát môi trường vẫn là một công việc tốn nhiều lao động, với nhiều thông số có thể được đo bằng các dụng cụ đơn giản mà không cần thiết bị kiểm soát ô nhiễm phức tạp Việc kiểm soát ô nhiễm nước, chẳng hạn, vẫn phụ thuộc vào phương pháp lấy mẫu thủ công và phân tích tại phòng thí nghiệm Các yếu tố như khả năng phân tích, nhân lực lấy mẫu, lưu trữ, vận chuyển và quy trình đảm bảo chất lượng là những phần quan trọng trong khung quy định về môi trường Để đưa ra các kết luận có ý nghĩa thống kê, cần có bộ dữ liệu lớn do sự đa dạng của các chỉ số môi trường Thiếu năng lực trong giám sát chất lượng không khí là một vấn đề nghiêm trọng, đặc biệt đối với các khu công nghiệp, nhằm xác định nguyên nhân khi xảy ra ô nhiễm.

Xác định nguyên nhân và kết quả

Báo cáo này nhấn mạnh rằng đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) cần được quản lý để giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường Các nghiên cứu trong phụ lục 2 cho thấy FDI đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của nhiều lĩnh vực trong nền kinh tế Việt Nam, với chi phí lao động và nguồn lực tương đối thấp, tạo ra lợi thế cạnh tranh cho các ngành công nghệ thấp Tuy nhiên, những ngành công nghệ thấp này, nơi FDI chiếm ưu thế, thường có xu hướng gây ra tác động môi trường lớn hơn so với các ngành khác.

Trong ba thập kỷ qua, Việt Nam đã thực hiện các chính sách phát triển kinh tế xã hội và giảm nghèo thông qua công nghiệp hóa, chuyển đổi từ nước thu nhập thấp sang nước có thu nhập trung bình Tuy nhiên, sự phát triển này đã dẫn đến nhiều vấn đề môi trường nghiêm trọng Theo Báo cáo Môi trường năm 2010 của Bộ TN&MT, ô nhiễm môi trường gây thiệt hại kinh tế từ 1,5 đến 3% GDP Để thực hiện các mục tiêu trong “Chiến lược quốc gia về bảo vệ môi trường đến năm 2010 tầm nhìn 2020”, cần huy động nguồn lực cần thiết Các vấn đề môi trường chính bao gồm ô nhiễm nước từ các khu công nghiệp và hoạt động sản xuất, cũng như ô nhiễm trong các khu công nghiệp do nước thải chưa được xử lý Tính đến tháng 3 năm 2015, Việt Nam có 295 khu công nghiệp với 5.573 dự án FDI, tổng vốn đăng ký đạt 85,5 tỷ USD Các khu kinh tế biên giới cũng thu hút 247 dự án FDI với tổng vốn 37 tỷ USD.

70 dự án FDI với 0,7 tỷ USD đăng ký Các ngành chế tạo chiếm 90% trong tổng số vốn FDI đăng ký ở các khu công nghiệp và khu kinh tế.

Một khối lượng lớn nước thải, ước tính khoảng 620.000m³/ngày, đã được xả ra từ các cụm/khu công nghiệp mà không qua xử lý, dẫn đến ô nhiễm nước bề mặt nghiêm trọng, đặc biệt tại sông Cầu, sông Nhuệ - Đáy ở miền Bắc và sông Đồng Nai ở miền Nam Bên cạnh đó, chất thải rắn từ các khu công nghiệp cũng gia tăng nhanh chóng, gây ra nhiều vấn đề về thu gom, phân loại và xử lý, đặc biệt là đối với chất thải nguy hại Ô nhiễm công nghiệp tập trung chủ yếu ở Đồng bằng Sông Hồng và Đông Nam Bộ, với các nguồn phát thải chính từ sản xuất phi kim loại, thực phẩm, kim loại, gỗ, và giấy Các yếu tố này đang góp phần nghiêm trọng vào tình trạng ô nhiễm môi trường tại Việt Nam.

Chế biến thực phẩm đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp nhu cầu ôxy hóa sinh học (BOD), trong khi đó, ngành đồ gỗ, chế biến thực phẩm và các sản phẩm từ giấy, gỗ á kim, bao gồm cả lâm nghiệp, là nguồn chính của tổng chất rắn lơ lửng (TSS).

Dệt may, chế biến thực phẩm, sản phẩm hóa học và phương tiện cơ giới là nguồn chính của hóa chất độc hại.

Dòng vốn FDI được phân phối trên nhiều lĩnh vực khác nhau như trong Bảng 1.

Bảng 1 Dòng vốn FDI phân theo ngành (% tích lũy đến cuối năm 2014) 27

Dự án (%) Vốn đầu tư đăng ký (%)

Khách sạn và nhà hàng 2.2 4.71

Tác động môi trường của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) có thể được giả định là tỷ lệ nghịch với trình độ công nghệ Hiện nay, tỷ lệ dòng vốn FDI vào các lĩnh vực công nghệ cao và trung bình đang có xu hướng gia tăng.

2) Điều này cho thấy FDI đang ngày càng thân thiện với môi trường theo thời gian Theo một cuộc điều tra của VCCI và USAID/VNCI năm 2012:

67% công ty FDI tại Việt Nam hoạt động trong lĩnh vực có giá trị gia tăng thấp;

Chỉ 5% các dự án FDI hoạt động trong lĩnh vực công nghệ cao như ICT;

Các dự án FDI trong ngành dịch vụ khoa học công nghệ, tài chính và bảo hiểm đã tăng trưởng 5% và 3,5% tương ứng Những lĩnh vực này đòi hỏi nguồn lao động chất lượng cao và có tác động thấp đến môi trường.

Trong bối cảnh hiện tại, chi phí lao động thấp và nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú là những yếu tố chính thu hút nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam Tuy nhiên, các ngành công nghiệp như sản xuất hàng may mặc, chế biến thực phẩm, hóa chất và sản phẩm kim loại, mặc dù thúc đẩy đầu tư, lại có khả năng gây ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường.

Dòng vốn FDI vào các lĩnh vực kinh tế đã làm gia tăng hoạt động kinh tế, kéo theo nguy cơ ảnh hưởng đến môi trường Tuy nhiên, sự gia tăng hoạt động kinh tế từ đầu tư trong nước cũng có thể gây ra rủi ro tương tự cho môi trường Do đó, nguyên nhân chính dẫn đến rủi ro môi trường là sự gia tăng các hoạt động kinh tế, không chỉ riêng FDI.

Cơ chế điều tiết nhằm giảm thiểu tác động môi trường của FDI tương tự như các cơ chế áp dụng cho các loại hình đầu tư khác Điều này bao gồm các quy định về đánh giá tác động môi trường theo Luật Bảo vệ Môi trường năm 2014.

2.7 HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP VÀ NGUYÊN TẮC “NGƯỜI GÂY Ô NHIỄM PHẢI

Trong quá trình nghiên cứu, nhiều đại diện doanh nghiệp FDI đã bày tỏ nhu cầu về hình thức hỗ trợ để quản lý hiệu quả tác động của hoạt động kinh doanh lên môi trường Mục tiêu của phần này là xem xét các phương thức hỗ trợ khả thi nhằm nâng cao hiệu quả quản lý môi trường cho các doanh nghiệp này.

Một khía cạnh trong việc thực thi luật môi trường của EU không phù hợp với Việt Nam là điều khoản hướng dẫn kỹ thuật tốt nhất cho ngành công nghiệp kiểm soát khí thải Sự không tương thích này liên quan đến các vấn đề hiện tại trong việc áp dụng các tiêu chuẩn môi trường và quản lý khí thải tại Việt Nam.

Khuyến khích ngành công nghiệp áp dụng các kỹ thuật đã được công nhận giúp giảm thiểu tác động môi trường và giảm bớt khối lượng công việc cho cơ quan quản lý.

Các công ty FDI nên xem xét kỹ lưỡng các yếu tố trước khi đầu tư, nhằm đảm bảo rằng họ sẽ hoạt động theo quy định và chịu trách nhiệm về môi trường Các cơ quan chức năng Việt Nam cam kết sẽ quản lý chặt chẽ các doanh nghiệp này để bảo vệ môi trường trong quá trình hoạt động.

Để cải thiện năng lực thể chế còn hạn chế, cần xây dựng nhiều hướng dẫn cho doanh nghiệp dựa trên kinh nghiệm quốc tế Tại Liên minh châu Âu, việc thực thi Chỉ thị Phát thải Công nghiệp (2010/75/EU) được hỗ trợ bởi các tài liệu tham khảo (BREF) chi tiết về các kỹ thuật hiện có trong các ngành công nghiệp khác nhau Đến nay, BREF đã được soạn thảo và xuất bản cho nhiều lĩnh vực.

Ngành sản xuất đồ gốm.

Hệ thống xử lý khí thải và nước thải thông thường trong ngành hóa chất.

Công nghiệp chế biến kim loại đen.

Ngành thực phẩm, đồ uống và sữa.

Hệ thống làm mát công nghiệp.

Chăn nuôi gia cầm và heo.

Hóa chất vô cơ khối lượng lớn, ammoniac, axit và phân bón công nghiệp.

Hóa chất vô cơ khối lượng lớn - chất rắn và các ngành khác.

Ngành hóa chất hữu cơ khối lượng lớn.

Sản xuất hóa chất tinh khiết hữu cơ.

Ngành công nghiệp kim loại màu

Sản xuất ximăng, vôi và oxy magie.

Sản xuất bột giấy, giấy và bìa.

Sản xuất hóa chất vô cơ đặc biệt

Tinh chế dầu mỏ và khí đốt.

Các cơ sở giết mổ và chăn nuôi gia súc.

Ngành công nghiệp rèn và đúc.

Xử lý bề mặt kim loại và nhựa.

Xử lý bề mặt bằng dung môi hữu cơ (bảo quản gỗ và các sản phẩm từ gỗ được bảo quản bằng hóa chất).

Xử lý chất thải bằng nhiệt.

Một khối lượng công việc lớn đã được chuẩn bị trong các tài liệu này, với các nguyên tắc áp dụng được tại Việt Nam giống như tại Liên minh châu Âu, cần xem xét theo từng trường hợp cụ thể Tất cả tài liệu có thể tải xuống từ trang web của Trung tâm Nghiên cứu Chung của Ủy ban châu Âu Trong bối cảnh hạn chế về nguồn lực, việc yêu cầu các cơ quan quản lý môi trường tích cực hơn trong việc đào tạo doanh nghiệp có thể không thực tế, nhưng nếu cần thiết, nguyên tắc này vẫn có thể được áp dụng.

“người gây ô nhiễm phải trả” có thể giải quyết vấn đề các chi phí liên quan.

Khuyến nghị khác

Giai đoạn hoạt động kinh doanh

Ngày đăng: 11/01/2022, 14:37

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Luật Đầu tư số 67/2014/QH 13 ngày 26 tháng 11 năm 2014 Khác
2. Luật Bảo vệ Môi trường số 55/2014/QH13 ngày 23 tháng 6 năm 2014 Khác
3. Luật Khoáng sản số 60/2010/QH12 ngày 17 tháng 11 năm 2010 Khác
4. Luật về Tài nguyên Nước số 17/2012/QH13 ngày 21 tháng 6 năm 2012 Khác
5. Luật sửa đổi và bổ sung một số điều trong Lluật Dầu khí số 10/2008/QH12 ngày 3 tháng 6 năm 2008 Khác
6. Luật Sử dụng Năng lượng tiết kiệm và hiệu quả số 50/2010/QH12 ngày 28 tháng 6 năm 2010 Khác
7. Luật thuế Bảo vệ Môi trường số 57/2010/QH12 ngày 15 tháng 11 năm 2010 Khác
8. Luật thuế Thu nhập doanh nghiệp số 14/2008/QH12 ngày 3 tháng 6 năm 2008 Khác
9. Luật thuế Thu nhập doanh nghiệp sửa đổi số 32/2013/QH13 ngày 19 tháng 6 năm 2013 Khác
10. Thông tư số78/2014/TT-BTC ngày 18 tháng 6 năm 2014 hướng dẫn thực thi Nghị định số 218/2013/ND-CP ngày 12 tháng 12 năm 2013 quy định và hướng dẫn thực thi Luật thuế Thu nhập doanh nghiệp Khác
11. Nghị định số 25/2013/ND-CP ngày 29 tháng 3 năm 2013 quy định phí bảo vệ môi trường đối với nước thải Khác
12. Nghị định số 179/2013/ND-CP của Chính phủ ngày 14 tháng 11 năm 2013 quy định xử phạt hành chính vi phạm quy định bảo vệ môi trường Khác
13. Nghị định số 117/2009/ND-CP của Chính phủ ngày 31 tháng 12 năm 2009 xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường Khác
14. Nghị định số 04/2009/ND-CP của Chính phủ ngày 14 tháng 1 năm 2009 về khuyến khích và hỗ trợ bảo vệ môi trường Khác
15. Nghị định số 59/2007/ND-CP của Chính phủ ngày 9 tháng 4 năm 2007 về Quản lý Chất thải rắn Khác
16. Nghị định số 87/2010/ND-CP của Chính phủ ngày 13 tháng 8 năm 2010 quy định chi tiết một số điều trong Luật thuế Xuất nhập khẩu Khác
17. Quyết định số 130/2007/QD-TTg ngày 2 tháng 8 năm 2007 về cơ chế và chính sách tài chính áp dụng đối với các dự án đầu tư phát triển sạch Khác
18. Quyết định số 24/2013/QD-TTg ngày 24 tháng 3 năm 2014 về cơ chế hỗ trợ xây dựng các dự án năng lượng sinh khối tại Việt Nam Khác
19. Thông tư 30/2011/TT-BTC ngày 10 tháng 8 năm 2011 quy định tạm thời về hàm lượng hạn chế của một số hóa chất độc hại trong các sản phẩm điện và điện tử Khác
21. Thông tư Liên tịch số 63/2013/TTLT-BTC-BTNMT ngày 15 tháng 5 năm 2013 quy định phí bảo vệ môi trường đối với nước thải công nghiệp Khác

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w