CƠ SỞ LÝ LUẬN THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH HÔ TRỢ ĐỐI VỚI HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG Ở XÃ ĐẶC BIỆT KHÓ KHĂN
Lý luận về thực hiện chính sách công
1.1.1 Khái niệm chính sách công
Chính sách công là một thuật ngữ phổ biến trên toàn cầu, và đã có nhiều định nghĩa khác nhau từ các học giả Dưới đây là một số khái niệm cụ thể về chính sách công.
Chính sách công bao gồm các quyết định liên quan của một nhà chính trị hoặc nhóm chính trị, tập trung vào việc lựa chọn mục tiêu và giải pháp để đạt được những mục tiêu đó (William Jenkin, 1978).
Chính sách công bao gồm các quyết định chính trị để thực hiện các chương trình nhằm đạt được những mục tiêu xã hội (Charle L Cochran and Eloise F Malone, 1995).
Tác giả James Anderson định nghĩa chính sách là “một đường lối hành động có mục đích được ban hành bởi một nhà hoạt động hoặc một nhóm các nhà hoạt động nhằm giải quyết một vấn đề phát sinh hoặc một vấn đề quan tâm”.
Tại Việt Nam, chính sách công đang thu hút sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu, dẫn đến sự hình thành của nhiều khái niệm khác nhau Theo tác giả Hồ Việt Hạnh, chính sách công được định nghĩa là những định hướng hành động mà nhà nước lựa chọn nhằm giải quyết các vấn đề trong cộng đồng, phù hợp với thái độ chính trị của từng thời kỳ, nhằm đảm bảo sự phát triển xã hội theo định hướng đã đề ra.
Chính sách công, theo tác giả Nguyễn Khắc Bình, là hoạt động mà chính phủ quyết định thực hiện hoặc không thực hiện nhằm điều hòa các xung đột xã hội, qua đó thúc đẩy sự phát triển của xã hội theo một định hướng nhất định.
Trong cuốn "Giáo trình chính sách công", tác giả Lê Chi Mai xác định rằng chính sách công bao gồm ba nội dung chính: Thứ nhất, nhà nước là chủ thể ban hành chính sách công Thứ hai, chính sách công phản ánh những quyết định hành động và ý định của nhà hoạch định chính sách về các vấn đề cụ thể Thứ ba, mục đích của chính sách công là giải quyết các vấn đề trong đời sống kinh tế - xã hội theo những mục tiêu đã được xác định.
Trong bài viết “Về chính sách công hiện nay ở nước ta”, Đỗ Phú Hải nhấn mạnh rằng chính sách công là tập hợp các quyết định chính trị có tính gắn kết của Nhà nước, nhằm lựa chọn mục tiêu và giải pháp để giải quyết các vấn đề xã hội theo mục tiêu tổng thể đã được xác định.
Như vậy có thể thấy mặc dù có nhiều khái niệm khác nhau về chính sách công nhưng đều phản ánh những đặc trưng cơ bản sau:
Một là, chính sách công do nhà nước, đảng chính trị cầm quyền ban hành.
Chính sách công đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội hiện tại, nhằm duy trì sự ổn định và thúc đẩy sự phát triển bền vững của xã hội.
Ba là, chính sách công gồm nhiều quyết định có liên quan lẫn nhau. Bốn là, có các chủ thể, đối tượng, công cụ và mục tiêu chính sách.
Khái niệm chính sách công được hiểu là các quyết định của chính phủ nhằm lựa chọn mục tiêu và giải pháp, cũng như công cụ chính sách để giải quyết các vấn đề xã hội Qua việc phân tích các khái niệm này, nghiên cứu nhấn mạnh tầm quan trọng của chính sách công trong việc duy trì sự ổn định và phát triển bền vững cho xã hội.
1.1.2 Vai trò của chính sách công
Trong tiến trình phát triển của xã hội hiện đại, sự phát triển của các lĩnh vực đời sống phụ thuộc nhiều vào hệ thống chính sách của Nhà nước Hệ thống chính sách không chỉ mở đường cho sự phát triển mà còn huy động trí tuệ tập thể và các nguồn lực tiềm năng của xã hội, từ đó tạo điều kiện cho sự phát triển bền vững.
Các lý thuyết hiện đại nhấn mạnh ba cột trụ của phát triển: kinh tế thị trường, nhà nước và xã hội dân sự Kinh tế thị trường điều tiết các hoạt động kinh tế và tạo ra của cải vật chất, trong khi xã hội dân sự giải quyết vấn đề vi mô của các nhóm xã hội Nhà nước đóng vai trò điều tiết vĩ mô, xây dựng thể chế phát triển và tổ chức các hoạt động kinh tế, an ninh quốc phòng, cũng như phòng chống thiên tai và quan hệ quốc tế Các chính sách của Nhà nước định hướng sự phát triển, xây dựng mô hình và tập trung nguồn lực của xã hội để phát triển các lĩnh vực cụ thể.
Các thay đổi xã hội lớn thường bắt nguồn từ sự thay đổi chính sách, tạo điều kiện cho các thể chế mới phát triển Công cuộc đổi mới từ năm đã mở ra nhiều cơ hội và thách thức cho xã hội.
Năm 1986 đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong chính sách phát triển kinh tế xã hội tại Việt Nam, giúp khắc phục cuộc khủng hoảng kinh tế và nâng cao mức sống của người dân Chính sách này đã huy động hiệu quả lực lượng sản xuất, đồng thời giải quyết các vấn đề an sinh xã hội, thể hiện vai trò thiết yếu của chính sách công trong sự phát triển bền vững của đất nước.
Chính sách nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc định hướng các chủ thể tham gia hoạt động kinh tế - xã hội, giúp họ đạt được những giá trị tương lai mà chính phủ mong muốn Những giá trị này phản ánh mục tiêu phát triển phù hợp với nhu cầu cơ bản của đời sống xã hội Khi các chủ thể kinh tế và xã hội hoạt động theo định hướng của chính sách, họ không chỉ dễ dàng đạt được mục tiêu phát triển mà còn được hưởng các ưu đãi từ nhà nước và xã hội Điều này cho thấy rằng, bên cạnh mục tiêu định hướng, cách thức tác động của chính sách công cũng góp phần quan trọng trong việc hướng dẫn hành động của các chủ thể.
- Khuyến khích, hỗ trợ các hoạt động KT-XH theo định hướng;
Trong nền kinh tế thị trường, quy luật cạnh tranh thúc đẩy các chủ thể đầu tư vào sản xuất, đổi mới công nghệ và nâng cao chất lượng sản phẩm, từ đó mang lại lợi ích cho xã hội với sự gia tăng về số lượng và đa dạng hàng hóa Tuy nhiên, thị trường cũng tiềm ẩn những mặt trái như độc quyền, bất công, chênh lệch giàu nghèo, và thất nghiệp, gây ảnh hưởng tiêu cực đến toàn xã hội Để khắc phục những vấn đề này, nhà nước cần áp dụng chính sách công hiệu quả, cung cấp dịch vụ công và hỗ trợ người dân thông qua các doanh nghiệp nhà nước và tổ chức phi chính phủ.
Lý luận về thực hiện chính sách hỗ trợ đối với học sinh trung học phổ thông ở xã đặc biệt khó khăn
1.2.1 Khái niệm và tiêu chí xác định Xã đặc biệt khó khăn
Căn cứ theo Quyết định số 50/2016/QĐ-TTg ngày 03 tháng 11 năm
Theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ năm 2016 về tiêu chí xác định thôn đặc biệt khó khăn và xã thuộc vùng dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2016 – 2020, các xã thuộc vùng dân tộc thiểu số và miền núi được phân loại theo ba khu vực cụ thể.
Xã khu vực III là xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, trong khi xã khu vực II có điều kiện khó khăn nhưng đã tạm thời ổn định Các xã còn lại được xếp vào khu vực I Trong nghiên cứu này, chúng tôi tập trung vào các xã đặc biệt khó khăn thuộc nhóm khu vực III.
Xã khu vực III là xã có ít nhất 2 trong 3 tiêu chí sau:
1) Số thôn đặc biệt khó khăn còn từ 35% trở lên (tiêu chí bắt buộc);
2) Tổng tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo từ 65% trở lên (trong đó tỷ lệ hộ nghèo từ 35% trở lên) theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều giai đoạn 2016 - 2020;
3) Tổng tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo từ 55% trở lên (các tỉnh khu vực Đông Nam Bộ, khu vực đồng bằng sông Cửu Long từ 30% trở lên) theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều giai đoạn 2016 - 2020 và có ít nhất 3 trong 6 điều kiện sau (đối với xã có số hộ dân tộc thiểu số từ 60% trở lên, cần có ít nhất 2 trong 6 điều kiện):
- Trục chính đường giao thông đến Ủy ban nhân dân xã hoặc đường liên xã chưa được nhựa hóa, bê tông hóa theo tiêu chí nông thôn mới;
- Trường mầm non, trường tiểu học hoặc trường trung học cơ sở chưa đạt chuẩn quốc gia theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo;
- Chưa đạt Tiêu chí quốc gia về y tế xã theo quy định của Bộ Y tế;
- Chưa có Trung tâm Văn hóa, Thể thao xã theo quy định của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch;
- Còn từ 20% số hộ trở lên chưa có nước sinh hoạt hợp vệ sinh;
- Còn từ 40% số hộ trở lên chưa có nhà tiêu hợp vệ sinh theo quy định của Bộ Y tế.
1.2.2 Khái niệm học sinh trung học phổ thông xã đặc biệt khó khăn
Trường phổ thông trung học, hay còn gọi là trường trung học phổ thông, là hình thức giáo dục chính quy tại Việt Nam, phục vụ cho lứa tuổi từ 15 đến 18.
Học sinh trung học phổ thông đặc biệt khó khăn là những em đang theo học tại trường trung học phổ thông, từ lớp 10 đến lớp 12, có bố, mẹ hoặc người giám hộ có hộ khẩu thường trú tại xã khu vực III Đối tượng này thường gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận giáo dục do hoàn cảnh gia đình.
1.2.3 Khái niệm chính sách hỗ trợ đối với học sinh trung học phổ thông ở xã đặc biệt khó khăn
Chính sách hỗ trợ học sinh trung học phổ thông ở xã đặc biệt khó khăn được xác định là các quyết định của chính phủ nhằm lựa chọn mục tiêu và giải pháp, cùng với các công cụ chính sách, để hỗ trợ học sinh tại những vùng này Mục tiêu của chính sách là đạt được các kết quả hợp lý, đồng thời thúc đẩy sự phát triển xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
1.2.4 Mục tiêu và nội dung chính sách hỗ trợ học sinh trung học phổ thông xã đặc biệt khó khăn
Chính sách hỗ trợ học sinh và trường phổ thông tại các xã, thôn đặc biệt khó khăn theo Nghị định số 116/2016/NĐ-CP của Chính phủ đã thể hiện hiệu quả rõ rệt trong việc nâng cao chất lượng giáo dục Nghiên cứu này tập trung vào việc phân tích những tác động tích cực của chính sách hỗ trợ học sinh theo Nghị định 116/2016/NĐ-CP.
Chính sách hỗ trợ học sinh trung học phổ thông ở các xã đặc biệt khó khăn bao gồm quy định về đối tượng được hưởng, mức hỗ trợ, hồ sơ và thủ tục cần thiết Bên cạnh đó, chính sách cũng xác định thẩm quyền và quy trình cấp phát cũng như kinh phí thực hiện để đảm bảo hỗ trợ hiệu quả cho học sinh trong vùng khó khăn.
Chính sách quy định về đối tượng áp dụng là học sinh gồm có những đối tượng sau:
Học sinh tiểu học và trung học cơ sở cần đáp ứng các yêu cầu như là học sinh bán trú tại trường phổ thông dân tộc bán trú, có hộ khẩu thường trú tại các xã, thôn đặc biệt khó khăn Đối với học sinh tiểu học, khoảng cách từ nhà đến trường phải từ 4 km trở lên, còn đối với học sinh trung học cơ sở là từ 7 km trở lên Ngoài ra, học sinh cũng cần phải sống ở khu vực có địa hình khó khăn, như phải qua sông, suối không có cầu, đèo núi cao hoặc vùng sạt lở Họ cũng có thể là học sinh có hộ khẩu tại xã khu vực III, thôn đặc biệt khó khăn, đang học tại các trường thuộc xã khu vực II vùng dân tộc và miền núi.
Học sinh trung học phổ thông là người dân tộc thiểu số cần đảm bảo một số điều kiện để được hỗ trợ Cụ thể, học sinh phải đang theo học tại trường trung học phổ thông hoặc trường có nhiều cấp học Bản thân học sinh cùng với bố, mẹ hoặc người giám hộ phải có hộ khẩu thường trú tại các xã khu vực III, thôn đặc biệt khó khăn vùng dân tộc và miền núi, cũng như các xã đặc biệt khó khăn ven biển và hải đảo Ngoài ra, nhà ở của học sinh phải cách trường từ 10 km trở lên hoặc nằm ở địa hình khó khăn, như phải qua sông, suối không có cầu, hoặc đi qua đèo, núi cao, và khu vực có nguy cơ sạt lở đất, đá.
Học sinh trung học phổ thông người dân tộc Kinh cần đáp ứng các điều kiện tương tự như học sinh dân tộc thiểu số, đồng thời phải có nhân khẩu trong gia đình thuộc hộ nghèo.
Chính sách hỗ trợ dành cho học sinh bao gồm mức hỗ trợ tiền ăn, cụ thể mỗi học sinh sẽ nhận được 40% mức lương cơ sở mỗi tháng, tối đa không quá 9 tháng trong một năm học.
Học sinh tự túc chỗ ở do không có chỗ ở bán trú tại trường sẽ nhận hỗ trợ tiền nhà ở hàng tháng, tương đương 10% mức lương cơ sở, tối đa không quá 9 tháng trong một năm học.
+ Hỗ trợ gạo: Mỗi học sinh được hỗ trợ mỗi tháng 15 kg gạo và được hưởng không quá 9 tháng/năm học/học sinh.
Trường phổ thông dân tộc bán trú được hỗ trợ đầu tư cơ sở vật chất và thiết bị thiết yếu, bao gồm nhà ở, giường nằm, nhà bếp, phòng ăn, nhà tắm, công trình vệ sinh và hệ thống nước sạch Tất cả các trang thiết bị này đều tuân thủ tiêu chuẩn thiết kế trường học hiện hành, nhằm đảm bảo điều kiện học tập tốt nhất cho học sinh bán trú.
Hỗ trợ 100.000 đồng mỗi học sinh bán trú mỗi năm học cho việc mua sắm bổ sung và sửa chữa dụng cụ thể dục, thể thao, nhạc cụ, máy thu hình, cũng như các vật dụng phục vụ sinh hoạt văn hóa và thể dục thể thao.
Các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách hỗ trợ học sinh trường phổ thông ở các xã thôn đặc biệt khó khăn
KHÓ KHĂN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH CAO BẰNG
2.1 Khái quát về đặc điểm điều kiện tự nhiên và tình hình kinh tế xã hội ở xã đặc biệt khó khăn, tỉnh Cao Bằng
- Vị trí địa lý: Cao Bằng là tỉnh nằm ở phía Đông Bắc Việt Nam Hai mặt
Tỉnh Bắc và Đông Bắc giáp với tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc) qua đường biên giới dài 311 km Phía Tây, tỉnh này tiếp giáp với Tuyên Quang và Hà Giang, trong khi phía Nam giáp với Bắc Kạn và Lạng Sơn Tỉnh có chiều dài Bắc - Nam lên đến 80 km.
230 0 7'12" - 22 0 21'21" vĩ bắc (tính từ xã Trọng Con, huyện Thạch An đến xã Đức Hạnh, huyện Bảo Lâm) Theo chiều Đông - Tây là 170 km, từ
105 0 16'15" - 106 0 50'25" kinh đông (tính từ xã Quảng Lâm, huyện Bảo Lâm đến xã Lý Quốc, huyện Hạ Lang).
Tỉnh Cao Bằng có 13 đơn vị hành chính cấp huyện và tương đương, bao gồm 1 thành phố là Cao Bằng và 9 huyện: Trùng Khánh, Trà Lĩnh, Hà Quảng, Thông Nông, Bảo Lạc, Bảo Lâm, Hạ Lang, Hòa An, Nguyên Bình, Quảng Uyên, Phục Hòa, Thạch An.
Cao Bằng có khí hậu lục địa miền núi cao, với đặc trưng của khí hậu châu Á nhiệt đới, thể hiện rõ 4 mùa trong năm, đặc biệt là mùa Hè và mùa Đông Biên độ nhiệt độ ở đây thay đổi lớn, lượng mưa không nhiều và phân bố không đều, với mưa và bão chủ yếu tập trung từ tháng 5 đến tháng 10.
Khu vực 8 có lượng mưa trung bình hàng năm đạt 1.500 mm Các huyện như Nguyên Bình, Bắc Hà Quảng, Thông Quảng Hòa, và Hạ Lang nằm trong vùng mưa nhiều với lượng mưa từ 1.500 đến 1.900 mm Trong khi đó, các huyện Hòa An, Nam Hà Quảng, và Trùng Khánh thuộc vùng mưa trung bình với lượng mưa từ 1.300 đến 1.500 mm Khu vực này cũng thường xuyên xảy ra các hiện tượng thời tiết như gió lốc, gió bấc, và tuyết.
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH HÔ TRỢ ĐỐI VỚI HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG Ở XÃ ĐẶC BIỆT KHÓ KHĂN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH CAO BẰNG
Khái quát về đặc điểm điều kiện tự nhiên và tình hình kinh tế xã hội ở xã đặc biệt khó khăn, tỉnh Cao Bằng
ở xã đặc biệt khó khăn, tỉnh Cao Bằng
- Vị trí địa lý: Cao Bằng là tỉnh nằm ở phía Đông Bắc Việt Nam Hai mặt
Bắc và Đông Bắc Việt Nam giáp với tỉnh Quảng Tây của Trung Quốc, với đường biên giới dài 311 km Phía Tây tiếp giáp với tỉnh Tuyên Quang và Hà Giang, trong khi phía Nam giáp tỉnh Bắc Kạn và Lạng Sơn Vùng này kéo dài khoảng 80 km theo chiều Bắc - Nam.
230 0 7'12" - 22 0 21'21" vĩ bắc (tính từ xã Trọng Con, huyện Thạch An đến xã Đức Hạnh, huyện Bảo Lâm) Theo chiều Đông - Tây là 170 km, từ
105 0 16'15" - 106 0 50'25" kinh đông (tính từ xã Quảng Lâm, huyện Bảo Lâm đến xã Lý Quốc, huyện Hạ Lang).
Tỉnh Cao Bằng bao gồm 13 đơn vị hành chính cấp huyện và tương đương, trong đó có 1 thành phố là Cao Bằng và 9 huyện gồm Trùng Khánh, Trà Lĩnh, Hà Quảng, Thông Nông, Bảo Lạc, Bảo Lâm, Hạ Lang, Hòa An, Nguyên Bình, Quảng Uyên, Phục Hòa và Thạch An.
Cao Bằng có khí hậu lục địa miền núi cao với 4 mùa rõ rệt, đặc biệt là mùa Hè và mùa Đông Biên độ nhiệt độ ở đây thay đổi lớn, lượng mưa ít và phân bố không đều, chủ yếu tập trung vào các tháng từ tháng 5 đến tháng 10.
Khu vực này có lượng mưa trung bình hàng năm đạt 1.500 mm, với các huyện Nguyên Bình, Bắc Hà Quảng, Thông Quảng Hòa, Hạ Lang nhận lượng mưa cao từ 1.500 - 1.900 mm, trong khi Hòa An, Nam Hà Quảng, Trùng Khánh có lượng mưa trung bình từ 1.300 - 1.500 mm Các hiện tượng thời tiết như gió lốc, gió bấc, tuyết rơi, sương muối và mưa đá diễn ra thường xuyên Nhiệt độ trung bình hàng năm dao động từ 0 o C đến 35 o C, với mùa hè kéo dài từ tháng 6 đến tháng 8 có nhiệt độ trung bình 30 - 34 o C, tháng 7 là tháng nóng nhất Vào mùa đông, nhiệt độ trung bình giảm xuống còn 5-6 o C, với tháng 1 là tháng lạnh nhất Sương muối thường xuất hiện vào tháng 1 và tháng 2.
Cao Bằng, với diện tích tự nhiên 6.724,6 km², là một cao nguyên đá vôi xen lẫn núi đất, có độ cao trung bình trên 200 m và vùng sát biên cao từ 600 - 1.300 m so với mực nước biển Với địa hình núi non trùng điệp, rừng núi chiếm hơn 90% diện tích tự nhiên của tỉnh, trong đó núi đá vôi chiếm 25% và núi đất chiếm 65% Điểm cao nhất của tỉnh đạt độ cao 1.980 m, trong khi điểm thấp nhất dưới 200 m.
Ở độ cao từ 600 đến 1000 mét so với mực nước biển, khu vực này được chia thành ba miền rõ rệt Miền đông nổi bật với những dãy núi đá hùng vĩ, miền tây là sự kết hợp giữa núi đất và núi đá, trong khi miền tây nam chủ yếu là núi đất với nhiều rừng rậm bao phủ.
- Dân số: Dân số tỉnh Cao Bằng là khoảng 550 nghìn người (năm
Tính đến năm 2018, tỉnh có mật độ dân số đạt 78 người/km² với sự đa dạng về dân tộc Trong tổng số 28 dân tộc, dân tộc Tày chiếm ưu thế nhất với 42,54%, tiếp theo là dân tộc Nùng với 32,86% Các dân tộc Dao, Mông, và Kinh lần lượt chiếm 9,63%, 8,45%, và 4,68% Ngoài ra, dân tộc Sán Chay chiếm 1,23%, dân tộc Lô Lô 0,39%, dân tộc Hoa 0,033%, dân tộc Ngái 0,013%, và các dân tộc khác chiếm 0,18%.
Tỉnh Cao Bằng, với bề dày lịch sử và văn hóa đa dạng của nhiều dân tộc, mang lại nhiều thuận lợi cho sự phát triển Là vùng đất có vai trò quan trọng trong lịch sử dân tộc, Cao Bằng đã ghi dấu ấn trong các cuộc đấu tranh bảo vệ Tổ quốc suốt 520 năm hình thành và phát triển Đây là nơi Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trở về lãnh đạo cách mạng Việt Nam, đồng thời cũng là nơi khai sinh Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay Cao Bằng còn nổi bật với chiến thắng của chiến dịch Biên giới Thu Đông, đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong cục diện chiến trường.
Năm 1950, Cao Bằng đã đóng góp quan trọng vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp Trong cuộc chiến bảo vệ biên giới phía Bắc năm 1979, người dân Cao Bằng đã kiên cường, dũng cảm chiến đấu, bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc Những nỗ lực này không chỉ góp phần vào lịch sử hào hùng chống ngoại xâm mà còn bảo vệ nền hòa bình và độc lập của dân tộc.
Cao Bằng hiện vẫn là một trong những tỉnh khó khăn nhất tại vùng Trung du và miền núi phía Bắc, với chất lượng, năng suất và hiệu quả kinh tế còn thấp Các ngành nông nghiệp, công nghiệp chế biến và dịch vụ chưa có sự gắn kết chặt chẽ, thiếu các cụm liên kết ngành và khu vực, dẫn đến việc mở rộng quy mô và thúc đẩy tăng trưởng gặp khó khăn Ngành công nghiệp phát triển chậm, quy mô nhỏ và đóng góp vào tăng trưởng kinh tế rất hạn chế, trong khi tốc độ tăng trưởng du lịch cũng chưa khai thác hết tiềm năng Hạ tầng kinh tế - xã hội, đặc biệt là hạ tầng giao thông, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển, khiến thu nhập bình quân đầu người chỉ đạt 54% so với mức trung bình cả nước, cùng với tỷ lệ hộ nghèo và hộ cận nghèo thuộc nhóm cao nhất cả nước.
Lĩnh vực văn hóa - xã hội hiện đang gặp nhiều bất cập, đặc biệt là việc đầu tư cho văn hóa, văn học và nghệ thuật Sự đầu tư vào xây dựng các thiết chế văn hóa từ cấp tỉnh đến cơ sở vẫn còn hạn chế, ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của các hoạt động văn hóa trong cộng đồng.
Chất lượng giáo dục và đào tạo còn thấp, dẫn đến nguồn nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển Trình độ dân trí không đồng đều, trong khi chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa và biên giới, vẫn còn nhiều hạn chế Tình trạng suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi vẫn cao, và kết quả giảm nghèo chưa bền vững, với tỷ lệ hộ tái nghèo và số hộ cận nghèo vẫn ở mức cao.
Tình hình thực tiễn thực hiện chính sách hỗ trợ đối với học sinh
2.2.1 Giới thiệu về quy mô phát triển trường, lớp, học sinh tại tỉnh Cao Bằng qua các năm học
Qui mô khối THPT: Tổng số 30 trường, trong đó:
- Trường THPT có khối THCS: 06 trường;
- Trường THPT Chuyên tỉnh: 01 trường;
- Trường THPT Dân tộc nội trú tỉnh: 01 trường;
Tổng số học sinh: 12434 học sinh.
Số học sinh dân tộc thiểu số: 11965 chiếm tỉ lệ: 96,2%;
Tổng số giáo viên: 854, tỉ lệ giáo viên/lớp: 2,3
Qui mô khối THPT: Tổng số 30 trường, trong đó:
- Trường THPT có khối THCS: 06 trường;
- Trường THPT Chuyên tỉnh: 01 trường;
- Trường THPT Dân tộc nội trú tỉnh: 01 trường;
Tổng số học sinh: 12681 học sinh.
Số học sinh dân tộc thiểu số: 11763 chiếm tỉ lệ: 96,3%;
Tổng số giáo viên: 830, tỉ lệ giáo viên/lớp: 2,26;
Qui mô khối THPT: Tổng số 30 trường, trong đó:
- Trường THPT có khối THCS: 06 trường;
- Trường THPT Chuyên tỉnh: 01 trường;
- Trường THPT Dân tộc nội trú tỉnh: 01 trường;
Tổng số học sinh: 12214 học sinh.
Số học sinh dân tộc thiểu số: 11847 chiếm tỉ lệ: 97%;
Tổng số giáo viên: 835, tỉ lệ giáo viên/lớp: 2,1;
Các trường Trung học phổ thông tại tỉnh Cao Bằng, bao gồm cả những trường có cấp Trung học cơ sở, thường nằm xa trung tâm thành phố Hệ thống giao thông tại đây gặp nhiều khó khăn do địa hình phức tạp với nhiều núi đá và rừng rậm, ảnh hưởng đến việc di chuyển của học sinh và giáo viên.
Theo Quyết định số 582/QĐ-TTg ngày 24 tháng 7 năm 2017 của Thủ tướng Chính phủ, tỉnh Cao Bằng đã thống kê danh sách các xã, phường, thị trấn và thôn, xóm, bản trong giai đoạn 2016 - 2020 Tỉnh có 13 đơn vị hành chính cấp huyện, bao gồm 1 thành phố (Cao Bằng) và 12 huyện, trong đó có các xã thuộc vùng dân tộc thiểu số và miền núi được phân loại theo mức độ khó khăn.
Tỉnh có 12 huyện gồm Trùng Khánh, Trà Lĩnh, Hà Quảng, Thông Nông, Bảo Lạc, Bảo Lâm, Hạ Lang, Hòa An, Nguyên Bình, Quảng Uyên, Phục Hòa và Thạch An, với tổng cộng 199 xã, phường, thị trấn Trong đó, khu vực I có 11 xã, khu vực II có 49 xã, và khu vực III có 139 xã Tổng số thôn, xóm, bản thuộc vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn lên tới 1.598 xóm.
Tổng số Phân chia khu vực Thôn/xóm xã/phường
KV I KV II KV III ĐBKK
- Chất lượng học tập không đồng đều ở các trường THPT, cụ thể:
Các trường có học sinh học lực khá và giỏi chủ yếu tập trung tại trung tâm Thành phố, bao gồm Trường THPT Chuyên, THPT DTNT tỉnh Cao Bằng và THPT Thành Phố Ngoài ra, một số trường ở các huyện như Trùng Khánh (THPT Trùng Khánh), Hòa An (THPT Hòa An) và Nguyên Bình (THPT Nguyên Bình) cũng có tỷ lệ học sinh khá, giỏi cao.
Trên địa bàn tỉnh Cao Bằng, hầu hết các trường THPT có sức học trung bình đến yếu do khoảng cách xa từ nhà đến trường Nhiều học sinh ở các xã như Vĩnh Phong, Đức Hạnh, và Yên Thổ (huyện Bảo Lâm) phải di chuyển từ 35 đến 40 km để đến trường THPT Bảo Lâm Tương tự, học sinh từ xã Cô Ba và Cốc Pàng (huyện Bảo Lạc) cũng phải đi 36 đến 40 km để đến trường THPT Bảo Lạc, trong khi học sinh ở xã Lũng Nặm và Tổng Cọt (huyện Hà Quảng) phải di chuyển khoảng 35 đến 40 km đến trường THPT Đàm Quang Trung Địa hình khó khăn, giao thông bất tiện với nhiều khu vực không có cầu, phải qua sông, suối, đèo, núi cao, và vùng sạt lở đất, càng làm tăng thêm thách thức cho việc học tập của học sinh.
Tỉ lệ học sinh bỏ học tại các trường THPT ở tỉnh Cao Bằng không đồng đều, với số liệu thống kê từ phòng GDTrH - Sở GD&ĐT tỉnh Cao Bằng trong năm học 2018 - 2019 cho thấy sự khác biệt rõ rệt giữa các địa phương.
Những trường THPT nằm ở địa hình cách trở, giao thông khó khăn, như phải qua sông, suối không có cầu, hay qua đèo, núi cao thường có tỉ lệ học sinh bỏ học cao Chẳng hạn, Trường THPT Bảo Lâm có tỉ lệ bỏ học là 10,9%, trong khi Trường THPT Lý Bôn có tỉ lệ 7,3%, cả hai đều thuộc huyện Bảo Lâm Trường THPT Thông Nông cũng ghi nhận tỉ lệ bỏ học đáng kể do điều kiện địa lý khó khăn.
6,9%) thuộc huyện Thông Nông; trường THPT Đàm Quang Trung (tỉ lệ bỏ học 6,0%) v.v.
Một số trường học có điều kiện giao thông thuận lợi hơn cho thấy tỉ lệ học sinh bỏ học thấp hơn, như trường THPT Thành phố Cao Bằng với tỉ lệ 0,5%, trường THPT Cao Bình 0,9%, trường THPT Trùng Khánh 1,9% và trường THPT Quảng Uyên 0,8%.
2.2.2 Tình hình thực tiễn thực hiện chính sách hỗ trợ đối với học sinh trung học phổ thông ở xã đặc biệt khó khăn, tỉnh Cao Bằng
2.2.2.1 Xây dựng và ban hành hệ thống văn bản quản lý
Kể từ khi chính sách hỗ trợ học sinh phổ thông tại các xã đặc biệt khó khăn có hiệu lực từ ngày 01 tháng 9 năm 2016, tỉnh Cao Bằng đã tích cực xây dựng và ban hành nhiều văn bản nhằm triển khai thực hiện Nghị định 116/2016/NĐ-CP trên địa bàn.
Trong những năm qua, nhà nước đã triển khai nhiều chính sách hỗ trợ học sinh trung học phổ thông tại các xã đặc biệt khó khăn trên địa bàn tỉnh Cao Bằng Những quyết định này nhằm cải thiện điều kiện học tập và tạo cơ hội cho học sinh vùng khó khăn.
- Quyết định 85/2010/QĐ-TTg ngày 21 tháng 12 năm 2010;
- Quyết định 12/2013/QĐ-TTg ngày 24 tháng 01 năm 2013
- Quyết định 36/2013/QĐ-TTg ngày 18 tháng 6 năm 2013.
Để tích hợp và giảm thiểu sự chồng chéo trong các chính sách hỗ trợ học sinh bán trú và trường phổ thông dân tộc bán trú, cũng như hỗ trợ học sinh ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 116/2016/NĐ-CP ngày 18 tháng 7 năm 2016 Nghị định này quy định các chính sách hỗ trợ học sinh và trường phổ thông tại các xã, thôn đặc biệt khó khăn, đồng thời là cơ sở quan trọng cho việc triển khai thực hiện các chính sách này.
Văn bản số 5129/BGD ĐT-CTHSSV, ban hành ngày 14 tháng 10 năm 2016, hướng dẫn thực hiện chính sách hỗ trợ học sinh và các trường phổ thông tại những xã, thôn đặc biệt khó khăn Chính sách này nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh ở vùng sâu, vùng xa.
- Nghị định số 06/2018/NĐ-CP 05/01/2018 của Chính phủ và các chính sách hiện hành đối với học sinh, sinh viên người DTTS;
- Quyết định số 582/QĐ-TTg ngày 28/4/2017;
- Quyết định số 103/QĐ-TTg ngày 22/1/2019 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Danh sách thôn đặc biệt khó khăn, xã khu vực III, khu vực
Trong giai đoạn 2016-2020, khu vực I thuộc vùng dân tộc thiểu số và miền núi đã được Ủy ban Nhân dân tỉnh Cao Bằng và Sở Giáo dục tỉnh Cao Bằng triển khai một số văn bản hàng năm liên quan đến Nghị định 116/2016 của Chính phủ.
Văn bản số 951/SGD&ĐT-GDDT& HSSV ngày 25/8/2017 hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ năm học 2017-2018 liên quan đến Giáo dục dân tộc, Giáo dục chính trị và Công tác học sinh, sinh viên Nội dung văn bản nhấn mạnh tầm quan trọng của việc nâng cao chất lượng giáo dục cho học sinh, sinh viên, đồng thời khuyến khích các hoạt động giáo dục phù hợp với đặc thù dân tộc và nhu cầu phát triển xã hội.
Văn bản số 930/SGD&ĐT-GDDT& HSSV ngày 07/9/2018 hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ năm học 2017-2018 trong lĩnh vực Giáo dục dân tộc, Giáo dục chính trị và Công tác học sinh, sinh viên Nội dung văn bản nhấn mạnh tầm quan trọng của việc nâng cao chất lượng giáo dục cho học sinh dân tộc thiểu số, đồng thời khuyến khích các hoạt động chính trị và xã hội nhằm phát triển toàn diện cho sinh viên Các cơ sở giáo dục cần triển khai các biện pháp cụ thể để thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ được giao, góp phần vào sự nghiệp giáo dục chung của đất nước.
Đánh giá chung
2.3.1 Một số kết quả nổi bật
Theo Nghị định số 116/2016/NĐ-CP, trong năm học 2018 - 2019, tỉnh đã hỗ trợ tiền ăn cho 31.163 học sinh và tiền ở cho 14.642 học sinh tại 417 trường, với tổng kinh phí lên tới 170 tỷ 492 triệu đồng Đồng thời, tỉnh cũng đã đầu tư hơn 459 triệu đồng để mua sắm và sửa chữa dụng cụ thể dục thể thao, nhạc cụ, và máy tính cho các trường bán trú Trong học kỳ 1 năm học 2019 - 2020, tổng số học sinh được hỗ trợ tiền ăn tăng lên 31.960, và số học sinh nhận hỗ trợ tiền ở là 15.452, với tổng kinh phí đạt 84 tỷ đồng.
946 triệu đồng; thực hiện mua sắm dụng cụ học tập, lập tủ thuốc cho khu bán trú trị giá trên 459 triệu đồng Từ năm 2018 đến học kỳ 1 năm học 2019 -
2020, toàn tỉnh hỗ trợ trên 6.800 tấn gạo cho 97.016 học sinh.
Trong giai đoạn 2017 - 2020, tỉnh Cao Bằng đã hỗ trợ tài chính cho học sinh tại các trường trung học phổ thông ở xã đặc biệt khó khăn, với tổng kinh phí vượt quá 115 tỷ 585 triệu đồng Cụ thể, 18.102 học sinh nhận được tiền ăn và 15.694 học sinh được hỗ trợ tiền ở tại 30 trường THPT Ngoài ra, tỉnh cũng đã cung cấp hơn 2.439 tấn gạo cho 18.102 học sinh, nhằm cải thiện điều kiện học tập và sinh hoạt của các em.
Chính sách hỗ trợ học sinh và trường phổ thông ở các xã, thôn đặc biệt khó khăn mang lại giá trị và ý nghĩa to lớn, giúp nâng cao chất lượng giáo dục và tạo cơ hội cho trẻ em ở vùng sâu, vùng xa tiếp cận tri thức, từ đó góp phần phát triển cộng đồng và xã hội.
Chính sách hỗ trợ học sinh dân tộc thiểu số và hộ nghèo tại các xã, thôn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn mang tính nhân văn sâu sắc Chính sách này đã giúp hàng nghìn học sinh trung học phổ thông ở tỉnh Cao nhận được hỗ trợ về tiền ăn và tiền nhà ở hàng tháng, từ đó tạo điều kiện cho các em yên tâm học tập Nhờ đó, sĩ số lớp học và chất lượng dạy học cũng được nâng cao đáng kể.
Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục là một vấn đề nhân văn quan trọng, nhằm tạo điều kiện cho các dân tộc thiểu số có trình độ phát triển kinh tế - xã hội thấp, thường sống ở vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo Nhà nước cần đảm bảo rằng người nghèo có cơ hội học tập, trong khi người tài năng được phát huy và phát triển khả năng của mình.
Nhà nước chú trọng đến việc hỗ trợ học sinh dân tộc thiểu số có trình độ phát triển kinh tế - xã hội thấp, nhằm cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của người dân Điều này sẽ giúp thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các dân tộc và vùng miền trong cả nước Qua đó, góp phần thực hiện mục tiêu xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ và văn minh mà Đảng, Nhà nước và nhân dân đang phấn đấu.
Chính sách này mang lại giá trị và ý nghĩa không chỉ cho con em người dân tộc thiểu số tại tỉnh Cao Bằng, mà còn cho tất cả học sinh là người dân tộc thiểu số và người dân tộc Kinh thuộc hộ nghèo ở các xã, thôn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn trên toàn quốc.
2.3.2 Những bất cập trong việc thực hiện chính sách hỗ trợ đối với học sinh trung học phổ thông ở xã đặc biệt khó khăn, tỉnh Cao Bằng
Học sinh nhận chế độ chính sách hỗ trợ của nhà nước không nhất thiết phải đến từ gia đình có hoàn cảnh khó khăn, mà có thể do địa hình cách trở hoặc điều kiện giao thông bất lợi Việc hỗ trợ chi phí học tập là cần thiết để đảm bảo mọi học sinh đều có cơ hội tiếp cận giáo dục.
- Hội đồng nhân nhân tỉnh Cao Bằng quy định lại khoảng cách “từ
Quy định “4,5 km trở lên đối với học sinh trung học phổ thông, tính từ nhà đến trường phổ thông gần nhất” không phản ánh đúng thực tế tại địa phương Tại trường THPT Bế Văn Đàn, hàng năm Sở GD&ĐT Cao Bằng giao chỉ tiêu tuyển sinh 210 học sinh, nhưng chỉ có khoảng 80 đến 100 hồ sơ được nộp vào lớp 10 Nhiều học sinh từ các huyện xa như Nguyên Bình (45 km), Thạch An (50 km) và Trùng Khánh (35 km) không trúng tuyển vào trường THPT ở huyện đã nộp hồ sơ và theo học tại trường.
Nhiều học sinh thuộc hộ nghèo và cận nghèo không nằm trong nhóm đối tượng được hưởng chính sách theo Nghị định 116/2016/NĐ-CP, dẫn đến tình trạng bỏ học Đồng thời, Nghị định 86/2015/NĐ-CP sẽ hết hiệu lực trong năm học 2020-2021, gây thêm khó khăn cho các em.
Trong năm học 2017 - 2018, tỉnh Cao Bằng có tổng cộng 12.434 học sinh cấp THPT, trong đó có cả học sinh cấp THCS Số học sinh bỏ học là 417, chiếm tỷ lệ 3,3% Đáng chú ý, trong số học sinh bỏ học, có 252 em thuộc hộ nghèo và cận nghèo, chiếm 60,4% tổng số học sinh bỏ học.
Trong năm học 2018 - 2019, tỉnh Cao Bằng có tổng cộng 12.681 học sinh cấp THPT, trong đó có học sinh cấp THCS Số học sinh bỏ học là 385 em, chiếm tỷ lệ 3,03% Đặc biệt, trong số học sinh bỏ học, có đến 300 em thuộc hộ nghèo và cận nghèo, tương đương với tỷ lệ 77,9%.
Trong năm học 2019 - 2020, tỉnh Cao Bằng có tổng cộng 12.214 học sinh cấp THPT, trong đó có cả học sinh cấp THCS Tỷ lệ học sinh bỏ học là 3,33%, với 406 học sinh bỏ học, trong đó 317 học sinh thuộc hộ nghèo và cận nghèo, chiếm 78,1%.
Qua số liệu trên có thể nhận thấy, mặc dù tỉ lệ học sinh bỏ học năm học
Từ năm học 2018 - 2019, tỷ lệ học sinh bỏ học trong nhóm hộ nghèo và cận nghèo đã có xu hướng tăng so với năm học 2017 - 2018, với mức tăng 17,5% trong năm học 2018 - 2019 và 17,7% trong năm học 2019 - 2020.
Nhiều xã đặc biệt khó khăn đã được sát nhập với các xã khác, dẫn đến việc mất tên gọi theo quyết định của Nhà nước, nhưng việc bổ sung tên mới vẫn chưa được thực hiện kịp thời.