NH Ữ NG V ẤN ĐỀ LÝ LU Ậ N TR Ở L Ạ I QU Ố C T Ị CH VI Ệ T
Khái ni ệ m qu ố c t ị ch
Quốc tịch là mối quan hệ chính trị - pháp lý giữa Nhà nước và công dân, đồng thời cũng là yếu tố phân biệt công dân giữa các quốc gia Nó xác định quyền và nghĩa vụ của công dân đối với Nhà nước, và ngược lại, cho phép Nhà nước bảo vệ công dân của mình ở nước ngoài Theo Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền năm 1948, mọi người đều có quyền có quốc tịch, và không ai có thể bị tước quyền này một cách tùy tiện.
Theo Điều 15 của Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền năm 1948, mọi người đều có quyền có quốc tịch và không ai bị từ chối quyền đổi quốc tịch hoặc bị tước quốc tịch một cách tùy tiện Điều này nhấn mạnh rằng các quốc gia có quyền tự quyết định về quốc tịch của công dân Tuy nhiên, trong một số trường hợp, quyết định liên quan đến quốc tịch cũng phải tuân theo pháp luật quốc tế.
Quốc tịch, theo định nghĩa trong từ điển Oxford, là sự thuộc về của một cá nhân với một quốc gia cụ thể Trong khi đó, từ điển Bách khoa Luật của Liên Hợp Quốc cũng đề cập đến khái niệm này với các khía cạnh pháp lý liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của công dân.
Quốc tịch là mối quan hệ pháp lý và chính trị giữa cá nhân và Nhà nước, thể hiện quyền lợi và nghĩa vụ của công dân Nhà nước có trách nhiệm bảo vệ quyền lợi của công dân, kể cả khi họ ở nước ngoài, trong khi công dân cần tuân thủ pháp luật và thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước.
Theo Điều 1 của Luật Quốc tịch năm 2008, quốc tịch Việt Nam thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa công dân và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đồng thời xác định quyền và nghĩa vụ của công dân đối với Nhà nước cũng như quyền và trách nhiệm của Nhà nước đối với công dân Việt Nam.
Quốc tịch cá nhân là yếu tố quyết định mối quan hệ pháp lý ổn định giữa cá nhân và quốc gia, tạo ra sự gắn bó về không gian và thời gian Người mang quốc tịch được hưởng sự bảo vệ và quyền lợi của công dân khi sinh sống trong lãnh thổ quốc gia đó Ngược lại, khi cá nhân mất quốc tịch, mối quan hệ pháp lý với quốc gia sẽ chấm dứt.
Cá nhân chỉ có thể bị thay đổi hoặc mất quốc tịch trong những điều kiện và trường hợp đặc biệt theo quy định của pháp luật mỗi quốc gia Pháp luật của các quốc gia, bao gồm cả Việt Nam, quy định rõ những trường hợp cụ thể mà công dân không còn được giữ quốc tịch của mình.
Khái niệm trở lại quốc tịch Việt Nam
Quy trình trở lại quốc tịch Việt Nam dành cho những cá nhân đã mất quốc tịch và mong muốn phục hồi quyền lợi này Để thực hiện, họ cần đáp ứng đầy đủ các điều kiện và thủ tục theo quy định của pháp luật Cuối cùng, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam sẽ ký Quyết định cho phép cá nhân trở lại quốc tịch Việt Nam.
Nhà nước Việt Nam đã nhận thức rõ ràng về ý nghĩa và tầm quan trọng của quốc tịch, khẳng định và bảo vệ quyền quốc tịch Việt Nam trong Hiến pháp năm 1946 Chính phủ cũng đã chú trọng trong việc soạn thảo và ban hành các văn bản pháp luật liên quan đến quốc tịch, nhằm đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ của công dân trong từng thời kỳ.
11 văn bản pháp luật quy định về quốc tịch cũng được sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế cho phù hợp với thực tế Cụ thể như:
Luật quốc tịch Việt Nam ra đời lần đầu tiên vào năm 1988, sau đó được thay thế bằng Luật quốc tịch năm 1998 và hiện tại là Luật quốc tịch năm 2008 Vào ngày 24/6/2014, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật quốc tịch năm 2008, trong đó có sửa đổi, bổ sung từ Điều 1 đến Điều 13 và bãi bỏ khoản 3 điều 26.
Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008 về vấn đề đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam)
Luật quốc tịch Việt Nam đã tạo ra bước tiến quan trọng trong việc bảo đảm quyền có quốc tịch cho cá nhân, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho việc xin thôi quốc tịch, nhập quốc tịch và trở lại quốc tịch Việt Nam Điều này đáp ứng nguyện vọng của nhiều người mong muốn trở về quê hương Những cá nhân đã từ bỏ quốc tịch Việt Nam nhưng sau đó muốn trở lại sẽ được chào đón, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật về quốc tịch và đáp ứng yêu cầu hội nhập trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay.
Sự phát triển của xã hội yêu cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật, đặc biệt là trong lĩnh vực quốc tịch Nhiều quốc gia không ngừng xây dựng và hoàn thiện văn bản pháp luật liên quan đến quốc tịch Tính chất giai cấp và lợi ích của mỗi quốc gia dẫn đến sự khác biệt trong quy định về quốc tịch.
Việc ban hành các quy định pháp luật về quốc tịch là biểu hiện rõ nét của chính quyền quốc gia, thể hiện tầm quan trọng về chính trị và xã hội trong cả công tác đối nội và đối ngoại.
1.1.1 Đối tượng xin trở lại quốc tịch Việt Nam
Một công dân có thể mất quốc tịch khi rơi vào các trường hợp đã được pháp luật quy định hoặc vi phạm các quy định của quốc gia, dẫn đến ảnh hưởng tiêu cực đến lợi ích và uy tín của đất nước.
Các quy định pháp luật của nhiều quốc gia, bao gồm cả Việt Nam, quy định rõ ràng về những trường hợp dẫn đến việc cá nhân bị tước quốc tịch do sự cưỡng chế của nhà nước Tại Việt Nam, có một số trường hợp cụ thể mà cá nhân có thể bị tước quốc tịch.
“1 Công dân Việt Nam cư trú ở nước ngoài có thể bị tước quốc tịch
Việt Nam sẽ có những biện pháp nghiêm khắc đối với những hành vi gây tổn hại đến nền độc lập dân tộc, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, cũng như uy tín của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2 Người đã nhập quốc tịch Việt Nam theo quy định tại Điều 19 của
Theo quy định, công dân Việt Nam, dù cư trú trong hay ngoài lãnh thổ, có thể bị tước quốc tịch nếu thực hiện các hành vi được nêu tại khoản 1 Điều này.
Việc tước quốc tịch cá nhân tại Việt Nam là hình thức xử lý vi phạm pháp luật đối với công dân có hành vi gây hại đến độc lập dân tộc và uy tín của đất nước Theo Luật Quốc tịch, những công dân này không còn đủ tiêu chuẩn để giữ quốc tịch Việt Nam, bao gồm cả công dân Việt Nam cư trú trong và ngoài nước.
13 trú ở nước ngoài và cá nhân đã nhập quốc tịch Việt Nam cư trú trong hay ngoài lãnh thổ Việt Nam
Sau khi bị tước quốc tịch, cá nhân sẽ trở thành người không quốc tịch, trừ khi có hai quốc tịch Theo quy định của pháp luật Việt Nam, việc tước quốc tịch chưa từng xảy ra với công dân Việt Nam hoặc người đã nhập quốc tịch Việt Nam Trường hợp ông Phạm Minh Hoàng, với hành động lật đổ chính quyền và chống đối Đảng, đã bị Chủ tịch nước ra Quyết định số 832/QĐ-CTN ngày 17/5/2017 tước quốc tịch Điều này khẳng định rằng quốc tịch Việt Nam thể hiện danh dự và quyền lợi của công dân, đồng thời được bảo vệ bởi Nhà nước Việc tước quốc tịch chỉ xảy ra khi công dân vi phạm pháp luật, gây phương hại đến độc lập dân tộc hoặc uy tín của Việt Nam Trình tự và thủ tục tước quốc tịch phải tuân thủ quy định pháp luật và nguyên tắc trong Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948, bảo đảm quyền có quốc tịch và không bị tước quốc tịch một cách vô cớ.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, người bị tước quốc tịch Việt Nam có quyền được xem xét để trở lại quốc tịch Việt Nam.
Theo quy định, việc tước quốc tịch Việt Nam chỉ có thể được thực hiện sau ít nhất 05 năm kể từ ngày Chủ tịch nước ký Quyết định Đây là một biện pháp nhân đạo và tiến bộ của Đảng và Nhà nước, nhằm giáo dục và hỗ trợ cá nhân bị tước quốc tịch, tạo điều kiện cho họ có cơ hội trở lại quốc tịch và hoàn thiện bản thân.
1.2.2.Trường hợp cá nhân bị mất quốc tịch
Ngoài việc một số cá nhân bị tước quốc tịch do vi phạm pháp luật, còn có những trường hợp cá nhân mất quốc tịch khi chuyển sang quốc tịch khác mà không phải do ý muốn của họ.
Th ẩ m quy ề n gi ả i quy ế t và trình t ự th ự c hi ệ n tr ở l ạ i qu ố c t ị ch Vi ệ t Nam
1.3.1 Thẩm quyền giải quyết trở lại quốc tịch Việt Nam Đáp ứng nhu cầu cá nhân có nguyện vọng xin trở lại quốc tịch Việt Nam, quy định cụ thể: “Người xin trở lại quốc tịch Việt Nam cư trú trong nước thì nộp hồsơ cho SởTư pháp nơi cư trú, nếu cư trú nước ngoài thì nộp hồsơ cho cơ quan
19 đại diện Việt Nam ởnước sở tại” [11]
1.3.2 Trình tự thực hiện giải quyết trở lại quốc tịch Việt Nam
Th ủ t ụ c tr ở l ạ i qu ố c t ị ch Vi ệ t Nam:
Để xin trở lại quốc tịch Việt Nam, cá nhân đã thôi quốc tịch cần chuẩn bị đầy đủ các giấy tờ, hồ sơ theo quy định tại Điều 24 Luật Quốc tịch Những tài liệu này phải được nộp tại cơ quan có thẩm quyền để giải quyết việc trở lại quốc tịch cho cá nhân đó.
Việt Nam năm 2008 và Điều 10 Nghị định 78/2009/NĐ-CP ngày 22/9/2009 của Chính phủ Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật
Quốc tịch Việt Nam (gọi tắt là Nghị định 78/2009/NĐ-CP) thì hồ sơ phải chuẩn bị gồm:
Để xin trở lại quốc tịch Việt Nam, người nộp đơn cần chuẩn bị các tài liệu sau: Đơn xin trở lại quốc tịch, bản sao Giấy khai sinh, Hộ chiếu hoặc giấy tờ thay thế, bản khai lý lịch, và phiếu lý lịch tư pháp do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp trong thời gian cư trú tại Việt Nam.
Phiếu lý lịch tư pháp do cơ quan có thẩm quyền nước ngoài cấp phải được cấp trong vòng 90 ngày trước ngày nộp hồ sơ xin trở lại quốc tịch Việt Nam Ngoài ra, người xin trở lại quốc tịch cũng cần cung cấp giấy tờ chứng minh đã từng có quốc tịch Việt Nam.
Để xin trở lại quốc tịch Việt Nam, người xin cần cung cấp các giấy tờ chứng minh đã từng có quốc tịch Việt Nam, bao gồm bản sao các tài liệu liên quan.
Để trở lại quốc tịch Việt Nam, người xin hồi phục cần cung cấp Giấy khai sinh, bản sao Quyết định thôi quốc tịch hoặc Giấy xác nhận mất quốc tịch Việt Nam, cùng với các giấy tờ khác chứng minh quốc tịch Việt Nam trước đây Ngoài ra, cần có giấy tờ chứng minh đủ điều kiện trở lại quốc tịch theo quy định tại khoản 1 Điều 23 của Luật Quốc tịch, bao gồm các giấy tờ tại các điểm a, b, c và d khoản 2 Điều 7 của Nghị định 78/2009/NĐ-CP hoặc giấy tờ chứng minh đang làm thủ tục hồi hương.
Việt Nam hoặc bản sao giấy tờ chứng nhận việc đầu tư tại Việt Nam” [4]
Để trở lại quốc tịch, cá nhân cần đáp ứng đầy đủ các điều kiện và chuẩn bị tất cả giấy tờ, hồ sơ cần thiết, sau đó lập thành 03 bộ để nộp cho cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận.
- Theo quy định tại Điều 25 Luật Quốc tịch Việt Nam:
+ Trình tự, thủ tục giải quyết hồ sơ đối với cơ quan tiếp nhận là Sở Tư pháp sẽ được thực hiện qua 03 bước như sau:
Bước 1: Tiếp nhận và thụ lý hồsơ
Cá nhân nộp hồsơ tại Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả của SởTư pháp
- Công chức tiếp nhận hồ sơ kiểm tra tính pháp lý và nội dung hồ sơ:
Khi hồ sơ đã đầy đủ và hợp lệ, cần thu lệ phí và cấp Giấy tiếp nhận hồ sơ cùng với việc hẹn ngày trả kết quả Tiếp theo, ghi chép thông tin vào Sổ tiếp nhận hồ sơ xin trở lại quốc tịch Việt Nam và Sổ theo dõi hồ sơ.
+ Trường hợp hồ sơ thiếu, hoặc không hợp lệ thì công chức tiếp nhận hồsơ viết hướng dẫn hoàn thiện hồsơ
Sau khi nhận hồ sơ, Công chức sẽ phân loại và nếu cần xác minh, Sở Tư pháp có trách nhiệm gửi Công văn đề nghị Công an cấp tỉnh phối hợp xác minh nhân thân của người xin trở lại quốc tịch Việt Nam Thời hạn cho việc này là 5 ngày làm việc kể từ ngày Sở Tư pháp tiếp nhận hồ sơ hợp lệ.
Khi nhận được Công văn từ Sở Tư pháp về việc xác minh nhân thân của người xin trở lại quốc tịch Việt Nam, cơ quan Công an cấp tỉnh có trách nhiệm thực hiện xác minh trong thời hạn 20 ngày và gửi kết quả cho Sở Tư pháp Đồng thời, Sở Tư pháp cần tiến hành thẩm tra và xác minh tính pháp lý của các giấy tờ, văn bản trong hồ sơ xin trở lại quốc tịch.
Trong vòng 5 ngày làm việc kể từ khi nhận được kết quả xác minh từ cơ quan Công an, Sở Tư pháp phải hoàn tất hồ sơ để trình lên các cơ quan có thẩm quyền.
Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét (kèm theo bộ hồsơ).
Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm xem xét và kết luận về Tờ trình giải quyết hồ sơ trở lại quốc tịch Việt Nam từ Sở Tư pháp, đồng thời đề xuất ý kiến gửi Bộ Tư pháp trong vòng 05 ngày làm việc.
Sau khi Sở Tư pháp gửi hồ sơ và đề xuất, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh sẽ xem xét và kiểm tra kỹ lưỡng hồ sơ Nếu hồ sơ đầy đủ, Ủy ban sẽ trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh để đề xuất ý kiến cho cá nhân đó trở lại quốc tịch Việt Nam Công văn đề xuất ý kiến sẽ được gửi kèm theo.
01 bộ hồ sơ gửi Bộ Tư pháp.
Trong thời hạn 20 ngày, kể từ ngày nhận được Tờ trình và đề xuất của
Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và Bộ Tư pháp có trách nhiệm kiểm tra và đối chiếu hồ sơ với quy định pháp luật, nhằm xác định tính hợp lệ của các yêu cầu từ cá nhân.
Theo Điều 22, những cá nhân đủ điều kiện để trở lại quốc tịch Việt Nam cần gửi văn bản yêu cầu đến Sở Tư pháp Họ phải liên hệ với cơ quan có thẩm quyền của quốc gia mà họ đang mang quốc tịch để tiến hành thủ tục xin thôi quốc tịch nước ngoài, trừ khi họ được phép giữ quốc tịch nước ngoài hoặc là người không quốc tịch Nếu thuộc đối tượng bắt buộc thôi quốc tịch, cá nhân phải hoàn tất các thủ tục cần thiết sau khi nhận được yêu cầu.
TH Ự C TR Ạ NG GI Ả I QUY Ế T TH Ủ T Ụ C TR Ở L Ạ I QU Ố C
Th ự c tr ạ ng công dân Vi ệ t Nam ở t ỉ nh Ti ề n Giang yêu c ầ u tr ở l ạ i qu ố c
Ngày nay, nhu cầu xuất cảnh sang nước ngoài ngày càng tăng cao do sự phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế, chủ yếu để đoàn tụ với gia đình hoặc tìm kiếm việc làm Sau khi định cư và nhập quốc tịch nước ngoài, nhiều phụ nữ vì lý do cá nhân phải hồi hương và sử dụng hộ chiếu nước ngoài, đặc biệt là khi đã từ bỏ quốc tịch Việt Nam Để được hưởng quyền lợi của công dân Việt Nam, họ mong muốn xin trở lại quốc tịch Việt Nam, phản ánh thực trạng chung trên toàn quốc.
Theo số liệu từ Cục Hộ tịch – Quốc tịch, trong giai đoạn từ 01/7/2009 đến 01/10/2016, đã có nhiều cá nhân được nhập quốc tịch Việt Nam, thôi quốc tịch và trở lại quốc tịch Việt Nam trên toàn quốc.
Thời gian Nhập QTVN Thôi QTVN Trở lại QTVN 01/7/2009 đến
Theo thống kê của Sở Tư pháp tỉnh Tiền Giang, từ ngày 01/7/2009 đến 31/3/2017, kết quả giải quyết các vấn đề liên quan đến quốc tịch nhằm phục vụ tổng kết việc thi hành Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 và các văn bản hướng dẫn chi tiết thi hành.
Thời gian Nhập QTVN Thôi QTVN Trở lại QTVN 01/7/2009 đến
Sở Tư pháp tỉnh Tiền Giang ghi nhận trung bình khoảng 10 cá nhân mỗi năm có nhu cầu trở lại quốc tịch Việt Nam, trong đó nhiều người là công dân Trung Quốc (Đài Loan) do cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc, thậm chí có trường hợp bị bạo hành Mặc dù đã được hướng dẫn hoàn thiện hồ sơ, nhưng nhiều người không thể đáp ứng đủ các giấy tờ theo quy định pháp luật, dẫn đến việc họ không nộp hồ sơ trở lại.
Các tỉnh lân cận thuộc khu vực đồng bằng sông Cửu Long đã đạt được những kết quả đáng kể trong việc giải quyết các vấn đề liên quan đến quốc tịch.
Theo Báo cáo Tổng kết thi hành Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 và các văn bản quy định chi tiết của Sở Tư pháp tỉnh Bến Tre, việc thực hiện luật đã góp phần quan trọng vào việc quản lý và cấp quốc tịch, đồng thời nâng cao nhận thức của người dân về quyền và nghĩa vụ liên quan đến quốc tịch.
Thời gian Nhập QTVN Thôi QTVN Trở lại QTVN 01/7/2009 đến
Theo Báo cáo Tổng kết thi hành Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 và các văn bản hướng dẫn chi tiết của Sở Tư pháp tỉnh Kiên Giang, việc thực hiện luật đã đạt được nhiều kết quả tích cực, góp phần nâng cao nhận thức về quyền và nghĩa vụ của công dân Tuy nhiên, vẫn còn một số khó khăn trong quá trình áp dụng, cần tiếp tục hoàn thiện các quy định và tăng cường công tác tuyên truyền để đảm bảo quyền lợi cho người dân.
Thời gian Nhập QTVN Thôi QTVN Trở lại QTVN 01/7/2009 đến
Theo thống kê từ các tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu Long, mặc dù số lượng hồ sơ về quốc tịch được giải quyết không nhiều, nhưng nhu cầu xin nhập quốc tịch Việt Nam và xin trở lại quốc tịch Việt Nam lại rất cao Nguyên nhân chủ yếu là do cá nhân không đáp ứng đủ các yêu cầu về giấy tờ và văn bản cần thiết khi thực hiện các thủ tục này Đây là tình trạng chung của nhiều tỉnh thành trên cả nước.
Th ự c hi ện quy đị nh c ủ a pháp lu ậ t v ề điề u ki ệ n, th ủ t ụ c tr ở l ạ i qu ố c t ị ch
Tại tỉnh Tiền Giang, việc thi hành pháp luật liên quan đến những cá nhân đã nhập quốc tịch nước ngoài gặp nhiều bất cập và khó khăn Đặc biệt, những người từ các quốc gia như Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc phải đáp ứng yêu cầu thôi quốc tịch hiện tại nếu muốn trở lại là công dân Việt Nam Điều này đặt ra thách thức lớn cho phụ nữ và những người có nguyện vọng hồi hương.
Để xin trở lại quốc tịch Việt Nam, người xin phải là vợ, chồng, cha mẹ hoặc con của công dân Việt Nam, hoặc xin hồi hương về quê hương Tuy nhiên, để được hồi hương, họ cần đáp ứng tất cả các điều kiện theo quy định của pháp luật Việc trở lại quốc tịch sẽ trở nên phức tạp hơn khi họ cùng con chưa thành niên xin hồi hương Nhiều trở ngại và khó khăn có thể phát sinh trong quá trình xin trở lại quốc tịch.
Việt Nam trong thực tiễn thi hành pháp luật phát sinh trong quá trình hướng dẫn thủ tục, tiếp nhận hồsơ tại SởTư pháp tỉnh Tiền Giang như sau:
Theo Điều 4 Luật Quốc tịch Việt Nam, để được công nhận quốc tịch Việt Nam, cá nhân phải từ bỏ quốc tịch nước ngoài, thể hiện nguyên tắc chỉ có một quốc tịch Việt Nam Mặc dù đây là điều kiện cần thiết và hợp lý, nhiều người vẫn quyết định không trở lại quốc tịch Việt Nam sau khi hoàn tất hồ sơ, lý do chủ yếu là không muốn từ bỏ quốc tịch hiện tại của mình.
Nhiều gia đình có con nhỏ muốn di chuyển giữa Việt Nam, Trung Quốc và Đài Loan để thăm con đang sống với gia đình chồng gặp khó khăn do quy định chưa được hướng dẫn cụ thể Điều này dẫn đến sự hiểu lầm và khó khăn trong việc thực hiện thủ tục Chuyên viên tiếp nhận hồ sơ không thể khẳng định trường hợp nào được giữ lại quốc tịch hiện tại, khiến người dân chỉ có thể hoàn tất hồ sơ và hy vọng được Chủ tịch nước đồng ý Tuy nhiên, thực tế cho thấy những trường hợp này thường không được xem xét vì không thuộc diện đặc biệt.
Chủ tịch nước cho giữ quốc tịch nước ngoài
Cụ thể, đối với trường hợp xin trở lại quốc tịch Việt Nam SởTư pháp tỉnh
Vào ngày 26/3/2014, Tiền Giang đã tiếp nhận hồ sơ của bà Feng Yi Ting, người trở về Việt Nam sinh sống cùng với một con chưa thành niên Bà xin trở lại quốc tịch Việt Nam do bị chồng ngược đãi và bạo hành, kèm theo biên bản xử lý hành chính về hành vi đánh đập của chồng.
Ting xin trở lại quốc tịch cùng với một con chưa thành niên đã đăng ký quốc tịch Trung Quốc (Đài Loan), trong khi bà có ba người con đã nhập quốc tịch Trung Quốc.
Khi liên hệ với Sở Tư pháp tỉnh Tiền Giang, bà được thông báo rằng để trở lại quốc tịch Việt Nam, bà có thể phải từ bỏ quốc tịch hiện tại của mình Dù vậy, bà vẫn quyết định thực hiện thủ tục với hy vọng giữ lại quốc tịch Trung Quốc.
Vào ngày 09/02/2015, Bộ Tư pháp đã gửi công văn yêu cầu bà Ting và con chưa thành niên phải từ bỏ quốc tịch Trung Quốc (Đài Loan) để có thể trở lại quốc tịch Việt Nam Tuy nhiên, sau khi nhận thông báo, bà Ting đã quyết định rút hồ sơ và không tiếp tục thủ tục do không thể giữ quốc tịch Trung Quốc (Đài Loan).
Vào ngày 25/9/2014, Sở Tư pháp tỉnh Tiền Giang đã tiếp nhận hồ sơ xin trở lại quốc tịch Việt Nam của bà Huang Shih Ying, công dân Trung Quốc (Đài Loan) Khi liên hệ với Sở Tư pháp để được hướng dẫn thủ tục, bà được thông báo rằng để trở lại quốc tịch Việt Nam, bà cần phải từ bỏ quốc tịch hiện tại của mình.
Tiền Giang đã khuyến cáo bà Huang Shih Ying cần suy nghĩ kỹ trước khi chuẩn bị hồ sơ, nhưng bà vẫn quyết tâm thực hiện thủ tục với hy vọng được Chủ tịch nước cho phép giữ lại quốc tịch Trung Quốc (Đài Loan) vào ngày 15/12/2014.
Bộ Tư pháp đã yêu cầu bà Huang Shih Ying cung cấp thêm văn bản và giấy tờ chứng minh việc bà đã thôi quốc tịch Trung Quốc (Đài Loan) nhằm hoàn tất thủ tục trở lại quốc tịch.
Bà đã liên hệ với Sở Tư pháp để xin rút hồ sơ và không tiếp tục thủ tục, lý do là vì bà còn chồng và con nhỏ đang ở Đài Loan Bà không thể đưa con về Việt Nam và nếu thôi quốc tịch Đài Loan, việc di chuyển giữa hai quốc gia sẽ gặp nhiều khó khăn.
Quy định trong trường hợp cá nhân xin trở lại quốc tịch là phụ nữ đã nhập
Theo quy định hiện hành, những người có quốc tịch nước ngoài phải xin thôi quốc tịch nước ngoài để trở lại quốc tịch Việt Nam Tuy nhiên, quy định này có phần hạn chế khi không nêu rõ các trường hợp đặc biệt mà Chủ tịch nước có thể cho phép giữ lại quốc tịch Điều này dẫn đến sự hiểu nhầm và hy vọng không chính đáng ở một số phụ nữ khi xin trở lại quốc tịch, khiến họ tốn thời gian và tiền bạc chuẩn bị hồ sơ mà không nhận được sự đồng ý từ Chủ tịch nước Thực tế cho thấy, hầu hết các trường hợp xin trở lại quốc tịch đều yêu cầu bổ sung văn bản chứng minh đã thôi quốc tịch hiện tại Một số ý kiến cho rằng "trường hợp đặc biệt" có thể được coi là quyền đặc biệt của Chủ tịch nước, nhưng do thiếu văn bản hướng dẫn cụ thể, Sở Tư pháp gặp khó khăn trong việc tiếp nhận hồ sơ, dẫn đến việc áp dụng khác nhau giữa các địa phương Tại một số tỉnh ở đồng bằng sông Cửu Long, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh yêu cầu hồ sơ phải có văn bản chứng minh đã thôi quốc tịch hiện tại.
Trong Nghị định 78/2009/NĐ-CP, khoản 1 Điều 9 quy định về việc miễn, giảm điều kiện cho những người xin trở lại quốc tịch Việt Nam, đặc biệt là những người có công lao đặc biệt trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Tuy nhiên, nhiều cá nhân đã chứng minh được rằng họ thuộc trường hợp này nhưng vẫn không được công nhận là “trường hợp đặc biệt” để trình Chủ tịch nước xem xét cho phép giữ quốc tịch nước ngoài.
Theo quy định, Phiếu lý lịch tư pháp do cơ quan có thẩm quyền nước ngoài cấp có thời hạn hiệu lực không quá 90 ngày tính từ ngày nộp hồ sơ Thời hạn này được xem là khá ngắn, ảnh hưởng đến việc sử dụng và tính hợp lệ của tài liệu này trong các thủ tục pháp lý.
Th ẩ m quy ề n gi ả i quy ế t và trình t ự th ự c hi ệ n tr ở l ạ i qu ố c t ị ch Vi ệ t Nam
Khi cá nhân muốn trở lại quốc tịch Việt Nam, hồ sơ sẽ được Sở Tư pháp nơi cư trú tiếp nhận và chuyển đến các cơ quan có thẩm quyền để xử lý Đa số trường hợp, cá nhân đã về nước hoặc hồi hương mới xin trở lại quốc tịch Luật Quốc tịch quy định thẩm quyền giải quyết thuộc Sở Tư pháp nơi cá nhân cư trú, trong đó phụ nữ xin trở lại quốc tịch cần đăng ký nơi tạm trú với cơ quan có thẩm quyền Tuy nhiên, hồ sơ liên quan đến việc trở lại quốc tịch phải dựa trên nơi thường trú trước khi xuất cảnh, gây khó khăn cho Sở Tư pháp và Công an trong việc xác minh điều kiện nhân thân nếu nơi tạm trú khác với nơi thường trú Sự không rõ ràng trong quy định và cách hiểu về nơi cư trú dẫn đến lúng túng trong việc tiếp nhận hồ sơ tại một số Sở Tư pháp.
- Thủ tục trở lại quốc tịch Việt Nam
Quy định của Luật về trình tự thủ tục giải quyết việc xin trở lại quốc tịch
Quá trình xin trở lại Việt Nam của cá nhân phải trải qua nhiều cơ quan và tổ chức, cụ thể là 06 đơn vị khác nhau, dẫn đến việc tốn nhiều thời gian, đặc biệt là trong việc trao đổi văn bản giữa các cơ quan Điều này có thể gây ra sai sót và nhầm lẫn về thông tin nhân thân của người xin trở lại.
Khi có 60 quốc tịch, Sở Tư pháp sẽ thông báo để cơ quan liên quan đính chính thông tin Tuy nhiên, việc nhận Văn bản đính chính sẽ kéo dài thời gian xử lý, ảnh hưởng đến cá nhân xin trở lại quốc tịch Luật Quốc tịch Việt Nam hiện có một số hạn chế trong quy định về trình tự, thủ tục và thẩm quyền giải quyết, gây khó khăn cho cá nhân và cơ quan trong việc thực hiện hồ sơ.
Quy định về thẩm quyền giải quyết liên quan đến thông tin nhân thân, hoàn cảnh gia đình và tình trạng án tịch của người xin trở lại quốc tịch Việt Nam, đặc biệt là mối liên hệ với nơi thường trú trước khi xuất cảnh Khi cá nhân hồi hương và đăng ký tạm trú ở nơi khác xa nơi thường trú trước đó, sẽ gặp khó khăn trong việc xác minh và hoàn tất hồ sơ bởi các cơ quan có thẩm quyền.
Quá trình giải quyết hồ sơ xin trở lại quốc tịch Việt Nam theo quy định của Luật hiện hành phải trải qua nhiều cơ quan và yêu cầu liên hệ qua lại giữa các cơ quan này Điều này dẫn đến tình trạng kéo dài thời gian xử lý, bao gồm thời gian gửi thư qua bưu điện, việc sửa đổi, đính chính khi có sai sót, và nguy cơ thất lạc thư, khiến tổng thời gian giải quyết vượt quá quy định.
Hiện nay, quy định về hồ sơ có sự tham gia của nhiều cơ quan gặp khó khăn do một số cơ quan chỉ thực hiện nhiệm vụ trung chuyển Việc phân định trách nhiệm và quyền hạn giữa các cơ quan chưa rõ ràng, thiếu cơ chế phối hợp, dẫn đến tình trạng chậm trễ và thất lạc hồ sơ.
Từ khi Luật Quốc tịch có hiệu lực đến tháng 12/2016, Cục Quản lý xuất nhập cảnh – Bộ Công an đã tiếp nhận và xác minh 9.735 hồ sơ của công dân Việt Nam ở nước ngoài xin thôi quốc tịch, thực hiện đúng quy định của Luật Quốc tịch và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Trong năm 2023, có 61 người đã được cấp quốc tịch Việt Nam và 170 hồ sơ công dân xin trở lại quốc tịch Việc xác minh các hồ sơ này gặp khó khăn, chủ yếu do đa số là phụ nữ Việt Nam đã kết hôn với người Trung Quốc, Đài Loan và Hàn Quốc Sau khi đăng ký kết hôn, họ đã phải xin thôi quốc tịch Việt Nam để nhập quốc tịch nước ngoài, và giờ đây muốn trở lại Tuy nhiên, nhiều phụ nữ này có trình độ học vấn thấp, dẫn đến việc khai hồ sơ không đầy đủ hoặc sai thông tin.
Công tác xác minh cần được thực hiện một cách đồng bộ, yêu cầu sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, đơn vị nghiệp vụ thuộc Bộ Công an và Công an các địa phương, từ cấp tỉnh đến cấp xã.
Vì vậy, việc xác minh đôi lúc không đảm bảo đúng thời gian quy định
- Thủ tục nhập quốc tịch Việt Nam đối với trẻ vị thành niên mang quốc tịch nước ngoài khi theo cha hoặc mẹ xin hồi hương về Việt Nam:
Theo quy định của Luật, thủ tục này cần được thực hiện đồng thời với việc trở lại quốc tịch Việt Nam của cha mẹ trẻ Do đó, trình tự thực hiện sẽ theo các bước tương tự như thủ tục trở lại quốc tịch Việt Nam.
Trẻ vị thành niên có thể nộp hồ sơ thông qua người đại diện theo pháp luật tại Bộ phận tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả của Sở Tư pháp Trong trường hợp không cần gửi Văn bản xác minh Công an tỉnh, Sở Tư pháp sẽ trình hồ sơ lên Ủy ban nhân dân tỉnh để phê duyệt Sau đó, Ủy ban nhân dân tỉnh sẽ chuyển hồ sơ đến Bộ Tư pháp để xem xét.
Tư pháp xem xét, đủ điều kiện thì thừa ủy quyền Thủ tướng Chính phủ ký trình
Chủ tịch nước sẽ gửi tờ trình và hồ sơ lên Văn phòng Chính phủ để được đóng dấu vào sổ Công văn Sau khi hoàn tất, hồ sơ sẽ được chuyển tiếp lên Văn phòng Chủ tịch nước để trình.
Chủ tịch nước xem xét và ký Quyết định về việc cho cá nhân đó nhập quốc tịch
Việt Nam (Nếu trong trường hợp bắt buộc phải thôi quốc tịch hiện tại thì sau khi
Chủ tịch nước xem xét và có Văn bản yêu cầu bổ sung văn bản, giấy tờ chứng
Chủ tịch nước đã ký quyết định xem xét việc thôi quốc tịch nước ngoài cho công dân Quyết định này sau đó được gửi đến Bộ Tư pháp, từ đó Bộ Tư pháp chuyển tiếp đến Sở Tư pháp, yêu cầu đương sự đến nhận quyết định.
Quy trình giải quyết hồ sơ hiện tại có sự tham gia của nhiều cơ quan, nhưng nhiều cơ quan chỉ đóng vai trò trung chuyển, dẫn đến việc phân định trách nhiệm và quyền hạn chưa rõ ràng Điều này gây khó khăn trong cơ chế phối hợp, dễ dẫn đến thất lạc hồ sơ và chậm trễ trong quá trình giải quyết.
Nguyên nhân d ẫn đế n th ự c tr ạ ng
Những tồn tại và hạn chế trong việc triển khai Luật quốc tịch năm 2008 cùng các văn bản hướng dẫn thi hành xuất phát từ một số nguyên nhân cơ bản.
Về nguyên nhân khách quan:
Thời gian gần đây, tình hình trong nước và quốc tế đã có nhiều biến động, ảnh hưởng đến chính sách và pháp luật về quốc tịch Việt Nam Tuy nhiên, các văn bản pháp luật vẫn chưa được sửa đổi, bổ sung kịp thời, dẫn đến nhiều vấn đề còn tồn tại và chậm được khắc phục.
Do những khó khăn trong đời sống kinh tế, nhiều công dân Việt Nam đã chọn ra nước ngoài để định cư, kết hôn và làm ăn Điều này dẫn đến nhu cầu gia tăng về việc giải quyết quốc tịch, bao gồm cả việc nhập quốc tịch nước ngoài trong khi vẫn giữ quốc tịch Việt Nam.
Việt Nam cho phép công dân trở lại quốc tịch Việt Nam và giữ quốc tịch nước ngoài, bao gồm cả trẻ em mang hai quốc tịch Tuy nhiên, do pháp luật Việt Nam chưa được cập nhật kịp thời, nhiều nhu cầu và nguyện vọng của công dân vẫn chưa được giải quyết.
Luật Quốc tịch năm 2008 chủ yếu phản ánh tư duy quản lý hành chính, tập trung vào yêu cầu của cơ quan nhà nước mà chưa chú trọng đến quyền lợi và lợi ích của công dân.
Việt Nam hiện có 63 quốc tịch, tuy nhiên, nhiều quy định trong các văn bản pháp luật vẫn chưa tạo điều kiện thuận lợi cho người dân trong việc giải quyết các vấn đề liên quan đến quốc tịch.
Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008 chưa quy định rõ ràng các biện pháp hiệu quả để đảm bảo nguyên tắc một quốc tịch, mặc dù đây là nguyên tắc chủ đạo Luật chỉ được sửa đổi một cách "mềm dẻo" để phù hợp với nhiệm vụ và hoàn cảnh thực tế của đất nước trong từng thời kỳ Điều này khiến luật chưa thể hiện được tính chiến lược và chủ quyền quốc gia trong lĩnh vực quốc tịch, đặc biệt là trong mối liên hệ với các thiết chế quốc tế liên quan.
- Việc ứng dụng công nghệ thông tin chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế:
Bộ Tư pháp đã xây dựng phần mềm quốc tịch đưa vào khai thác sử dụng năm
2014 Tuy nhiên, chưa xây dựng chức năng liên kết giữ các Bộ ngành, các cơ quan tham gia giải quyết hồ sơ.
Về nguyên nhân chủ quan:
Quan điểm và nhận thức về vấn đề quốc tịch, đặc biệt là nguyên tắc một hay đa quốc tịch, trong các cơ quan hành chính nhà nước và giữa các công chức, cán bộ của các bộ ngành trung ương và địa phương vẫn còn khác nhau và chưa thống nhất Sự khác biệt này dẫn đến việc tiếp cận và giải quyết các vấn đề liên quan đến quốc tịch chưa được nhịp nhàng và đồng bộ.
Công chức và viên chức làm công tác quốc tịch tại Sở Tư pháp và các cơ quan đại diện thường phải đảm nhận nhiều nhiệm vụ khác nhau, dẫn đến việc giải quyết hồ sơ thiếu tính chuyên nghiệp Bên cạnh đó, sự thay đổi thường xuyên của viên chức lãnh sự tại các cơ quan đại diện, do làm việc theo nhiệm kỳ, cũng ảnh hưởng đến tiến độ và chất lượng công việc, như việc sử dụng mẫu giấy tờ không đúng, thiếu sót hồ sơ và giấy tờ hết hạn.
- Công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục về pháp luật nói chung pháp luật
64 về quốc tịch chưa được quan tâm chú trọng, các hình thức tuyên truyền không đa dạng chưa gần giũ, dễ hiểu
Trong bối cảnh quốc tế hóa, quốc tịch không chỉ là một khái niệm pháp lý mà còn phản ánh mối quan hệ giữa cá nhân và nhà nước Việc giải quyết các vấn đề về quốc tịch, đặc biệt là đối với những cá nhân hồi hương và trẻ em mang quốc tịch nước ngoài, đang gặp nhiều khó khăn Nhiều người mong muốn có được quốc tịch Việt Nam để thuận lợi trong việc tìm kiếm việc làm và ổn định cuộc sống, đồng thời giúp con em họ hòa nhập và hưởng các quyền lợi của công dân Để giảm bớt gánh nặng kinh tế cho các gia đình trẻ và hạn chế tệ nạn xã hội, cần thiết phải có những giải pháp hiệu quả nhằm cải thiện quy trình và chính sách liên quan đến quốc tịch.