Pháp luật về hợp đồng phản ánh chế độ kinh tế - chính trị - xã hội của mỗi quốc gia vào từng thời điểm. Pháp luật về hợp đồng tại Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ. Trong thời kỳ phong kiến, pháp luật về hợp đồng đã manh nha xuất hiện ở Việt Nam nhưng do điều kiện kinh tế lạc hậu mà chưa có cơ hội phát triển. Pháp luật về hợp đồng chỉ bắt đầu phát triển kể từ khi pháp đô hộ và đưa hệ thống pháp luật dân sự vào Việt Nam. Việt Nam giành độc lập vào năm 1945 và trở thành một nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Dưới chế độ quản lý tập trung không theo cơ chế thị trường, hệ thống pháp luật dân sự được thay thế bằng hệ thống pháp luật Xô Viết trong một thời gian dài. Sau khi Việt Nam bắt đầu quá trifh đổi mới và chuyển sang cơ chế thị trường vào cuối thập kỷ 80 của thế kỷ 20, hệ thống pháp luật dân sự một lần nữa lại được thiết lập ở Việt Nam, tạo điều kiện cho pháp luật về hợp đồng phát triển trong hơn 20 năm vừa qua. Bộ luật dân sự năm 2005 và Luật thương mại năm 2005 cũng pháp điển hóa các nguyên tắc cơ bản áp dụng cho quan hệ hợp đồng, bao gồm tự do thỏa thuận, bình đẳng và thiện chí. Quyền tự do thỏa thuận của các bên trong hợp đồng bị hạn chế bởi các quy định cấm của pháp luật. Nói cách khác, thỏa thuận của các bên không được vi phạm các quy định cấm của pháp luật. Hợp đồng vi phạm các quy định cấm của pháp luật có thể bị vô hiệu. Bộ luật Dân sự năm 2005 sau 10 năm áp dụng một lần nữa lại được cập nhật và thay thế bằng Bộ luật dân sự năm 2015. Sự phân biệt giữa quan hệ dân sự và quan hệ thương mại cùng sự phân biệt giữa luật chung và luật riêng của Bộ luật Dân sự năm 2015 và Luật thương mại năm 2005 tiếp tục được duy trì. Luật thương mại năm 2005 đang được xem xét sửa đổi để phù hợp với quy định mới của Bộ luật Dân sự năm 2015. Bên cạnh chịu sự điều chỉnh của hai luật này thì các hợp đồng chuyên biệt vẫn chịu sự điều chỉnh của các luật riêng điều chỉnh các hợp đồng chuyên biệt đó. Cuối cùng, với xu hướng hội nhập về kinh tế, các khái niêm của hệ thống pháp luật Anh – Mỹ (và rộng hơn là hệ thống thông luật) cũng được giới thiệu trong hệ thống pháp luật Việt Nam, trong đó có pháp luật về hợp đồng. Chủ đề về hợp đồng đấu giá tài sản còn rất nhiều vấn đề cần bàn luận, để từng bước hoàn thiện luật riêng trong hệ thống luật chung – Luật thương mại năm 2005.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG VÀ PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG ĐẤU GIÁ TÀI SẢN
Khái quát chung về hợp đồng
1.1.1 Khái niệm về hợp đồng
1.1.1.1 Khái niệm về hợp đồng theo Bộ luật Dân sự năm 2015 và Luật thương mại năm 2005
Pháp luật về hợp đồng là một ngành luật cơ bản trong nhiều hệ thống pháp luật, bao gồm cả Việt Nam, nơi nó có phạm vi điều chỉnh rộng rãi Bộ luật Dân sự năm 2015 được xem là luật chung và luật gốc cho pháp luật về hợp đồng, định hướng cho sự phát triển trong các lĩnh vực chuyên ngành Ngoài Bộ luật Dân sự, pháp luật về hợp đồng còn được quy định trong Luật Thương mại năm 2005 và các văn bản pháp luật chuyên ngành khác.
Pháp luật về hợp đồng điều chỉnh quan hệ hợp đồng, và phạm vi áp dụng của nó phụ thuộc vào cách hiểu về hợp đồng Cụ thể, việc áp dụng pháp luật này chủ yếu dựa trên việc xác định sự tồn tại của hợp đồng Nếu quan hệ hợp đồng được công nhận là tồn tại, pháp luật về hợp đồng sẽ được áp dụng; ngược lại, nếu không có sự tồn tại của quan hệ hợp đồng, thì pháp luật về hợp đồng sẽ không áp dụng, và các quan hệ liên quan sẽ được điều chỉnh bởi các ngành luật khác.
Pháp luật Việt Nam phân biệt rõ ràng giữa hợp đồng dân sự và hợp đồng thương mại, với hợp đồng dân sự được điều chỉnh bởi Bộ luật dân sự năm 2015 và hợp đồng thương mại theo Luật thương mại năm 2005 Bên cạnh đó, còn có các quy định pháp luật chuyên ngành áp dụng cho từng loại hợp đồng, đặc biệt trong các lĩnh vực như lao động, xây dựng, ngân hàng, và sở hữu trí tuệ Hợp đồng dân sự là khái niệm chung bao gồm mọi hợp đồng, trong đó có hợp đồng thương mại, được ký kết giữa các chủ thể là pháp nhân hoặc cá nhân, nhằm mục đích sinh lợi hoặc không Ngược lại, hợp đồng thương mại là một loại hợp đồng dân sự đặc thù, liên quan đến hoạt động thương mại giữa các bên là thương nhân, với mục tiêu sinh lợi Phần lớn các hợp đồng điều chỉnh giao dịch kinh tế của pháp nhân thuộc loại hợp đồng thương mại.
1.1.1.2 Khái niệm hợp đồng theo pháp luật chuyên ngành
Trong một số lĩnh vực, pháp luật chuyên ngành quy định riêng về khái niệm hợp đồng Cụ thể, Điều 138.1 của Luật Xây dựng 2014 nêu rõ các quy định liên quan đến hợp đồng xây dựng.
Hợp đồng xây dựng là một loại hợp đồng dân sự, được thiết lập thông qua thỏa thuận bằng văn bản giữa bên giao thầu và bên nhận thầu, nhằm thực hiện một phần hoặc toàn bộ công việc trong lĩnh vực đầu tư xây dựng.
Hay tại khoản 1 Điều 13 Bộ luật lao động năm 2019 quy định:
Hợp đồng lao động là thỏa thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động, quy định về công việc có trả lương, điều kiện làm việc, cũng như quyền và nghĩa vụ của mỗi bên trong mối quan hệ lao động.
Các khái niệm về hợp đồng trong pháp luật chuyên ngành tương tự như hợp đồng theo Bộ luật dân sự năm 2015, nhưng nhấn mạnh quyền và nghĩa vụ đặc thù của từng loại hợp đồng, như trong lĩnh vực xây dựng, lao động và bảo hiểm Các bên tham gia hợp đồng được xác định với tư cách pháp lý cụ thể, ví dụ như bên giao thầu và bên nhận thầu, người lao động và người sử dụng lao động, hay bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm Ngoài ra, các đặc tính bổ sung có thể được áp dụng để phù hợp với tính chất của hợp đồng theo pháp luật chuyên ngành, như yêu cầu về hình thức “bằng văn bản” trong hợp đồng xây dựng, điều này không áp dụng cho các loại hợp đồng khác như hợp đồng dân sự, thương mại hay lao động.
1.1.2 Chủ thể của hợp đồng trong Bộ luật dân sự năm 2015
Với trường hợp tổ chức không có tư cách pháp nhân tham gia quan hệ hợp đồng, Điều 101 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định:
Trong trường hợp hộ gia đình, tổ hợp tác hoặc tổ chức không có tư cách pháp nhân tham gia quan hệ dân sự, các thành viên của những tổ chức này sẽ là chủ thể thực hiện giao dịch dân sự hoặc ủy quyền cho người đại diện Việc ủy quyền cần được lập thành văn bản, trừ khi có thỏa thuận khác Ngoài ra, nếu có sự thay đổi người đại diện, cần thông báo cho bên tham gia quan hệ dân sự.
Trong trường hợp thành viên của hộ gia đình, tổ hợp tác hoặc tổ chức không có tư cách pháp nhân tham gia vào quan hệ dân sự mà không được các thành viên khác ủy quyền làm đại diện, thì thành viên đó vẫn là chủ thể của quan hệ dân sự mà mình đã xác lập và thực hiện.
Việc xác định chủ thể trong quan hệ dân sự liên quan đến hộ gia đình sử dụng đất phải tuân theo các quy định của Luật đất đai.
Theo Điều 101 của Bộ luật dân sự năm 2015, tổ chức không có tư cách pháp nhân không được tự mình ký kết và thực hiện hợp đồng; thay vào đó, hợp đồng phải được xác lập và thực hiện bởi các thành viên của tổ chức đó, mà các thành viên phải là cá nhân hoặc pháp nhân Nếu thành viên là tổ chức không có tư cách pháp nhân, thì họ cũng không thể tự mình giao kết hợp đồng mà phải hành động thông qua các thành viên cá nhân hoặc pháp nhân của mình Tinh thần của Điều 101 khẳng định rằng chỉ cá nhân và pháp nhân mới có tư cách chủ thể trong hợp đồng, và trong trường hợp này, cá nhân và pháp nhân thực hiện hợp đồng với tư cách đại diện cho tổ chức không có tư cách pháp nhân mà họ là thành viên.
Bộ luật Dân sự năm 2015 thể hiện tinh thần trách nhiệm của các thành viên trong hợp đồng qua Điều 103, quy định rằng nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng được đảm bảo thực hiện bằng tài sản chung của các thành viên Tài sản chung này bao gồm tài sản do các thành viên đóng góp, tạo lập hoặc theo thỏa thuận Nếu tài sản chung không đủ để thực hiện nghĩa vụ, các thành viên sẽ chịu trách nhiệm liên đới hoặc riêng theo phần, tùy thuộc vào quy định trong hợp đồng Trách nhiệm riêng theo phần được xác định theo thỏa thuận hoặc theo quy định pháp luật, và trong trường hợp không có thỏa thuận, trách nhiệm của các thành viên sẽ chia đều.
Hợp đồng được phân thành nhiều loại khác nhau dựa trên các tiêu chí cụ thể, giúp thể hiện đặc điểm riêng của từng giao dịch Mỗi loại hợp đồng có thể được áp dụng khác nhau tùy theo tính chất giao dịch, sự lựa chọn của các bên hoặc quy định pháp luật Bộ luật Dân sự năm 2015 đã phân biệt một số loại hợp đồng chủ yếu.
1.1.3.1 Hợp đồng song vụ và hợp đồng đơn vụ
Phân loại hợp đồng thành hợp đồng song vụ và hợp đồng đơn vụ dựa trên tính chất nghĩa vụ của các bên Hợp đồng song vụ là loại hợp đồng mà mỗi bên đều có nghĩa vụ đối với nhau, trong khi hợp đồng đơn vụ chỉ có một bên chịu trách nhiệm nghĩa vụ, bên còn lại không có nghĩa vụ đối ứng.
Hợp đồng mua bán tài sản và hợp đồng tặng cho tài sản là hai loại hợp đồng thường gặp trong thực tế Hợp đồng mua bán tài sản là hợp đồng song vụ, trong đó bên bán có nghĩa vụ giao tài sản, còn bên mua phải thanh toán giá trị tài sản theo thỏa thuận Ngược lại, hợp đồng tặng cho tài sản là hợp đồng đơn vụ, trong đó bên tặng cho có nghĩa vụ giao tài sản, trong khi bên được tặng cho không cần thực hiện bất kỳ nghĩa vụ nào đối ứng.
1.1.3.2 Hợp đồng chính và hợp đồng phụ
Khái quát về hợp đồng đấu giá tài sản
1.2.1 Khái niệm hợp đồng đấu giá tài sản
1.2.1.1 Khái niệm bán đấu giá tài sản
Bán đấu giá tài sản là hình thức công khai cho phép nhiều người tham gia trả giá mua tài sản Người tham gia phải nộp lệ phí theo quy định pháp luật, nhằm đảm bảo họ cam kết tham gia đấu giá Nếu không tham gia hoặc không mua tài sản, khoản tiền này sẽ không được hoàn lại Tuy nhiên, nếu tham gia nhưng không thắng, họ sẽ được hoàn lại lệ phí Người trả giá cao nhất, không thấp hơn giá khởi điểm, sẽ là người mua tài sản Nếu không có ai trả giá cao hơn giá khởi điểm, cuộc đấu giá sẽ không thành công và sẽ được tổ chức lại.
1.2.1.2 Khái niệm hợp đồng đấu giá tài sản
Trong quan hệ đấu giá tài sản, có hai loại hợp đồng chính: hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản và hợp đồng mua bán tài sản đấu giá Hợp đồng dịch vụ đấu giá được ký giữa người sở hữu tài sản và tổ chức đấu giá, trong khi hợp đồng mua bán được ký giữa tổ chức đấu giá và người mua tài sản sau khi buổi đấu giá kết thúc Người có tài sản đấu giá có thể là cá nhân hoặc tổ chức, và tổ chức đấu giá có thể là trung tâm dịch vụ hoặc doanh nghiệp đấu giá Người trúng đấu giá là người trả giá cao nhất hoặc bằng giá khởi điểm trong trường hợp không có ai trả giá cao hơn Theo hợp đồng dịch vụ, tổ chức đấu giá thực hiện việc bán tài sản và nhận thù lao, trong khi theo hợp đồng mua bán, tổ chức đấu giá chuyển giao tài sản cho người mua và nhận thanh toán theo giá đã đấu giá.
Hoạt động bán đấu giá tài sản là hình thức công khai cho phép nhiều người tham gia trả giá nhằm mua tài sản Người mua cần nộp lệ phí theo quy định pháp luật, và hợp đồng mua bán tài sản bán đấu giá sẽ xác nhận giao dịch này Hợp đồng này không chỉ là cơ sở pháp lý để chuyển quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng tài sản mà còn đóng vai trò quan trọng trong thực tiễn.
1.2.2 Chủ thể của hợp đồng đấu giá tài sản
1.2.2.1 Chủ thể của bán đấu giá tài sản
Chủ thể của hoạt động bán đấu giá tài sản bao gồm ba thành phần chính: người bán đấu giá, người sở hữu tài sản được bán và người mua tài sản đấu giá Trong đó, người bán đấu giá đóng vai trò quan trọng trong việc tổ chức và điều phối quá trình đấu giá, đảm bảo sự minh bạch và công bằng cho tất cả các bên tham gia.
Người bán đấu giá là tổ chức chuyên cung cấp dịch vụ bán đấu giá tài sản, được quản lý trực tiếp bởi Sở Tư pháp hoặc các doanh nghiệp có tư cách pháp nhân Tổ chức đấu giá tài sản bao gồm Trung tâm dịch vụ đấu giá tài sản và doanh nghiệp đấu giá tài sản.
Tổ chức đấu giá tài sản có quyền yêu cầu người mua thực hiện hợp đồng mua bán tài sản đấu giá, với thời điểm giao kết là khi người điều hành tuyên bố giá cao nhất lần thứ ba mà không có ai trả giá thêm Nếu người mua không thực hiện hợp đồng, tổ chức đấu giá có quyền xử lý tiền đặt trước mà họ đã nộp, theo Điều 39 của Luật đấu giá tài sản.
Người có tài sản đấu giá là chủ sở hữu hoặc người được ủy quyền bán tài sản theo quy định pháp luật Để tiến hành đấu giá, họ cần ký hợp đồng dịch vụ với tổ chức đấu giá Giá khởi điểm bán đấu giá do người có tài sản quyết định, nhưng cần tham khảo ý kiến của tổ chức đấu giá để đảm bảo giá phù hợp với thị trường, nhằm tổ chức bán đấu giá thành công.
Người mua, có thể là cá nhân hoặc tổ chức, có ý định tham gia đấu giá tài sản Trong số các đối tượng tham gia, người trả giá cao nhất sẽ là người chiến thắng và được quyền sở hữu tài sản đó.
1.2.2.2 Chủ thể của hợp đồng đấu giá tài sản
Hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản được ký kết giữa người sở hữu tài sản và tổ chức đấu giá, nhằm thực hiện việc đấu giá tài sản Hợp đồng này cần được lập thành văn bản và tuân thủ các quy định của pháp luật dân sự cũng như Luật đấu giá tài sản 2016 Trong hợp đồng phải ghi rõ họ, tên của đấu giá viên và thông tin liên quan đến người có tài sản bán đấu giá, bao gồm họ, tên, địa chỉ và các thông tin cần thiết khác.
Họ tên, địa chỉ, thông tin liên quan khác của Tổ chức đấu giá tài sản.
Hợp đồng mua bán tài sản đấu giá được ký kết giữa người có tài sản và người trúng đấu giá, hoặc giữa cả hai bên và tổ chức đấu giá nếu có thỏa thuận Hợp đồng này phải tuân theo quy định của pháp luật về dân sự và cần bao gồm thông tin cụ thể như họ tên của đấu giá viên, thông tin của người có tài sản và người mua tài sản đấu giá.
1.2.3 Nội dung của pháp luật bán đấu giá tài sản
Pháp luật bán đấu giá tài sản bao gồm các nguyên tắc, trình tự và thủ tục liên quan đến hoạt động này, cũng như vai trò của người bán đấu giá và sự quản lý nhà nước Những nội dung này được quy định bởi pháp luật hoặc thông qua thỏa thuận giữa các bên, thể hiện quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm pháp lý Cụ thể, điều này được ghi nhận qua hợp đồng ủy quyền bán đấu giá tài sản và văn bản bán đấu giá tài sản.
Hợp đồng ủy quyền bán đấu giá tài sản là thỏa thuận giữa bên sở hữu tài sản và trung tâm hoặc doanh nghiệp bán đấu giá Hợp đồng này quy định rõ trách nhiệm, quyền lợi và nghĩa vụ của bên ủy quyền, đồng thời bao gồm một số điều khoản liên quan đến bên thứ ba như người giữ tài sản và người tham gia đấu giá.
Hợp đồng ủy quyền bán đấu giá tài sản bao gồm hai bên: một bên là tổ chức hoặc cá nhân có nhu cầu bán tài sản, và bên còn lại là trung tâm dịch vụ hoặc doanh nghiệp chuyên về bán đấu giá tài sản.
Theo quy định tại khoản 2, Điều 7 Nghị định số 05/2005/NĐ-CP, hợp đồng ủy quyền bán đấu giá tài sản cần được lập thành văn bản và phải bao gồm các nội dung chính sau đây.
Hợp đồng uỷ quyền bán đấu giá tài sản cần được lập thành văn bản và bao gồm các nội dung chính như họ tên và địa chỉ của người có tài sản cùng với người bán đấu giá, thời hạn và địa điểm bán đấu giá, mô tả chi tiết tài sản, giá khởi điểm, phương thức giao tài sản, quy định về thanh toán sau khi bán, các chi phí liên quan, quyền và nghĩa vụ của các bên, trách nhiệm vi phạm hợp đồng, cùng với các thoả thuận khác.
Thực trạng pháp luật hợp đồng bán đấu giá tài sản ở việt nam
2.2.1 Những ưu điểm về nội dung, hình thức pháp luật hợp đồng bán đấu giá tài sản
Pháp luật về bán đấu giá tài sản ngày càng hoàn thiện với nhiều văn bản pháp lý được ban hành, tạo điều kiện cho hoạt động này phát triển ổn định trên toàn quốc Nhiều doanh nghiệp và Trung tâm dịch vụ bán đấu giá đã hoạt động hiệu quả, góp phần nâng cao tính công khai, minh bạch trong quá trình thi hành án Việc bán đấu giá tài sản sung công quỹ nhà nước được thực hiện nghiêm túc, tăng thu cho ngân sách nhà nước Các Trung tâm đã chủ động điều chỉnh giá khởi điểm phù hợp với thị trường và sáng tạo trong việc chuyển giao tài sản chưa xử lý để tránh thất thoát Họ còn thực hiện đấu giá quyền sử dụng đất và cổ phần doanh nghiệp nhà nước chuyển đổi, thu về giá trị hợp đồng bán đấu giá vượt trội so với giá khởi điểm, chứng tỏ sự hiệu quả trong công tác quản lý và thu ngân sách.
Cấp ủy và Uỷ ban Nhân dân các địa phương đã thể hiện sự quan tâm đặc biệt đến hoạt động bán đấu giá tài sản, nhờ vào sự tham mưu tích cực của các Sở, ngành chuyên môn, đặc biệt là Sở Tư pháp Các văn bản quy phạm pháp luật đã được ban hành kịp thời dưới nhiều hình thức, nhằm chỉ đạo và thực hiện đúng theo tinh thần chỉ đạo của Đảng và Chính phủ.
Các hình thức đấu giá ngày càng được quy định chặt chẽ, thể hiện qua nội quy của từng cuộc bán, nhằm tăng cường tính chuyên nghiệp, công khai, minh bạch và dân chủ Điều này góp phần giảm thiểu thiếu sót và hạn chế khiếu nại trong hoạt động bán đấu giá tài sản Đội ngũ đấu giá viên và cán bộ trung tâm đã nhiệt tình thích ứng với cải cách thủ tục hành chính theo mô hình một cửa, như tại Yên Bái và Đà Nẵng Nhiều trung tâm và doanh nghiệp bán đấu giá đã bước đầu xây dựng được uy tín và thương hiệu không chỉ trong nước mà còn quốc tế.
Chỉ thị số 18/2006/CT - TTg đánh giá rằng sau một năm thực hiện Nghị định số 05/2005/NĐ-CP ngày 18 tháng 01 năm 2005 của Chính phủ, hoạt động bán đấu giá tài sản tại nhiều địa phương đã có những tiến triển tích cực.
Nghị định số 05/2005/NĐ-CP đã thúc đẩy mạnh mẽ cải cách hành chính và xã hội hóa hoạt động bán đấu giá tài sản, dẫn đến sự gia tăng đáng kể số lượng doanh nghiệp đăng ký kinh doanh dịch vụ này Các trung tâm dịch vụ bán đấu giá đang dần tự bảo đảm chi phí hoạt động, giảm bớt sự phụ thuộc vào ngân sách nhà nước, qua đó nâng cao hiệu quả hoạt động Quy trình và thủ tục bán đấu giá tài sản được thực hiện nghiêm túc hơn, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức tham gia.
Có sự chưa thống nhất trong nhận thức về nội dung, hình thức và tổ chức thực hiện pháp luật liên quan đến Nghị định số 05/2005/NĐ-CP Điều này được thể hiện qua sự không đồng nhất trong hướng dẫn và chỉ đạo của Bộ Tư pháp và Bộ Tài chính đối với các địa phương Một số quy định trong Thông tư số 34/2005/TT-BTC và các Công văn hướng dẫn của Bộ Tài chính đã bộc lộ sự mâu thuẫn và chồng chéo với Nghị định số 05/2005/NĐ-CP, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002, cùng với Nghị định số 134/2003/NĐ-CP.
CP đã gây khó khăn cho các địa phương trong quá trình thực hiện quy định, khiến nhiều nơi như Hà Nam, Nam Định, Khánh Hòa, Long An lúng túng và chờ hướng dẫn thống nhất từ các Bộ Trong khi đó, các địa phương như Vĩnh Phúc, Quảng Bình, Thừa Thiên Huế, Cần Thơ, Hà Tĩnh, Kon Tum đã từng thực hiện nghiêm chỉnh quy định của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 và Nghị định số 134/2003/NĐ-CP Tuy nhiên, sau khi có Thông tư số 34/2005/TT-BTC và một số Công văn của Bộ Tài chính, các địa phương này đã chỉ đạo tịch thu tài sản để bán đấu giá hoặc giao cho Hội đồng định giá.
Sở Tài chính tổ chức bán đấu giá
Các loại tài sản bán đấu giá, đặc biệt là tài sản nhà nước, hiện chưa có quy định cụ thể Theo Thông tư số 13/2007/TT-BTC sửa đổi Thông tư số 34/2005/TT-BTC, việc chuyển giao tài sản bán đấu giá được thực hiện qua hợp đồng ủy quyền giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và người bán đấu giá Tài sản này bao gồm quyền sử dụng đất do nhà nước chuyển giao thông qua hình thức giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất cho tổ chức kinh tế, hộ gia đình và cá nhân thông qua phương thức đấu giá.
Theo Quyết định số 216/2003 QA TTg, một số địa phương đã giao cho Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản, trong khi những địa phương khác tự tổ chức Hội đồng đấu giá quyền sử dụng đất Theo Điều 163 và Điều 174 Bộ Luật dân sự năm 2003, quyền sử dụng đất được coi là tài sản và bất động sản, có thể được mua bán qua hình thức đấu giá Tuy nhiên, theo Luật Đất đai năm 2003, nhà nước không thực hiện bán đấu giá quyền sử dụng đất mà chỉ trao quyền này thông qua giao đất hoặc cho thuê đất, với các quy định về mục đích và điều kiện sử dụng (Điều 5 và Điều 58) Ngoài ra, các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia cũng bảo lưu quyền sở hữu đất đai của nhà nước và khẳng định rằng các giao dịch liên quan đến bất động sản, bao gồm đất đai và quyền sử dụng đất, sẽ tuân theo pháp luật Việt Nam (Điều 769).
Bộ luật Dân sự năm 2005 cho phép bán đấu giá quyền sử dụng đất, mở rộng đối tượng mua bao gồm cả người nước ngoài và pháp nhân nước ngoài, trong khi nhiều quốc gia khác đã công nhận sở hữu tư nhân đối với đất đai.
Sự xung đột pháp luật và giải quyết mối quan hệ pháp luật liên quan đến quyền sử dụng đất không chỉ đơn thuần là việc áp dụng pháp luật Việt Nam, mà còn gặp khó khăn do chưa có quy định rõ ràng về việc xác định quyền sử dụng đất có phải là bất động sản hay không trong hệ thống pháp luật hiện hành.
Trình tự và thủ tục bán đấu giá tài sản hiện nay chưa thực hiện đúng theo Nghị định số 05/2005/NĐ-CP, với các biện pháp phòng ngừa hiện tượng tiêu cực còn hạn chế, như mức tiền đặt trước thấp và quy định chưa rõ ràng về hình thức đấu giá Việc định giá tang vật, phương tiện vi phạm sau khi tạm giữ rất quan trọng để xác định quyền xử lý và chuyển giao tài sản Trong trường hợp khó định giá, cần lập Hội đồng định giá với sự tham gia của Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản và các cơ quan liên quan, nhưng thực tế thường thiếu sự tham gia của Trung tâm này, dẫn đến khó khăn trong việc xử lý tang vật Theo Điều 22 Nghị định số 08-2005/NĐ-CP, nếu tài sản không bán được trong 3 ngày, Trung tâm phải trả lại tài sản mà không được định giá lại, điều này ảnh hưởng đến chi phí bán đấu giá và cần được điều chỉnh.
Công tác bán đấu giá tài sản để thi hành án đang gặp nhiều khó khăn, với tình trạng Trung tâm dịch vụ bán đấu giá đã hoàn tất việc bán nhưng không thể giao tài sản cho người mua do sự chống đối hoặc khiếu nại từ người phải thi hành án Điều này không chỉ gây thiệt hại cho người mua mà còn do hồ sơ thủ tục thi hành án thiếu sót, dẫn đến việc không thể chuyển quyền sử dụng, quyền sở hữu tài sản Các trường hợp như bán đấu giá nhà đất chưa có giấy tờ đăng ký hoặc tài sản tịch thu không rõ ràng càng làm ảnh hưởng đến uy tín của Trung tâm và giảm hiệu quả hoạt động bán đấu giá.
Theo Điều 19 Nghị định số 05/2005/NĐ-CP, trong trường hợp đặc biệt, việc bán đấu giá tài sản thi hành án sẽ được tiến hành nếu chỉ có một người đăng ký mua tài sản và trả giá ít nhất bằng giá khởi điểm Tài sản sẽ được bán cho người đó nếu chủ sở hữu tài sản hoặc cơ quan thi hành án đồng ý.
Nhận thức của các bộ ngành địa phương về cải cách hành chính và xã hội hóa hoạt động bán đấu giá tài sản chưa đồng nhất Nhiều địa phương vẫn hiểu sai về chủ trương xã hội hóa, cho rằng cần thành lập nhiều đơn vị sự nghiệp nhà nước để cạnh tranh, thay vì phát triển doanh nghiệp bán đấu giá tài sản, nhằm thực hiện việc bán đấu giá chủ yếu thông qua tổ chức doanh nghiệp theo Nghị định số 05.