TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN
Các công trình nghiên cứu về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh 8
Cuốn sách "Lợi thế cạnh tranh" của Michael E Porter, xuất bản năm 2016 bởi NXB Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, đã khẳng định ông là "cha đẻ" của chiến lược cạnh tranh Porter phân tích nguyên tắc, phạm vi và chiến lược cạnh tranh của ngành và doanh nghiệp, tạo nền tảng cho lý thuyết về lợi thế cạnh tranh và chiến lược nâng cao năng lực cạnh tranh (NLCT) Ông nhấn mạnh tầm quan trọng của các yếu tố sản xuất như nguồn nhân lực, đất đai, tài nguyên tự nhiên, vốn và cơ sở hạ tầng, coi đây là những đầu vào thiết yếu cho quá trình sản xuất và là yếu tố quyết định NLCT Đặc biệt, lợi thế cạnh tranh về chi phí, bao gồm hành vi chi phí và lợi thế chi phí, đóng vai trò quan trọng trong việc xác định sự thành công của doanh nghiệp.
Tác giả đã xây dựng một công thức chiến lược phát triển công nghệ nhằm cạnh tranh hiệu quả trong ngành Qua việc phân tích cấu trúc ngành, tác giả chỉ ra rằng mọi lĩnh vực, dù trong nước hay quốc tế, đều bị chi phối bởi 5 áp lực cạnh tranh Nghiên cứu này nhấn mạnh rằng các yếu tố đầu vào, công thức chiến lược phát triển công nghệ và nguồn áp lực cạnh tranh là những thành phần then chốt để thiết lập chiến lược cạnh tranh cho ngành ngân hàng trong các chương tiếp theo.
- Sách “Competitive Strategy” (Chiến lược cạnh tranh), của E.Porter năm
2016, NXB Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh [51] Trong công trình nghiên cứu này,
Nguy cơ từ những đối thủ
Những đối thủ mới tiềm năng
Những đối thủ cạnh tranh trong ngành
Cạnh tranh giữa các đối thủ hiện hữu
Tác giả đã tiến hành phân tích tổng quát về cơ cấu ngành, đối thủ cạnh tranh, tín hiệu thị trường, bước đi cạnh tranh, khách hàng và nhà cung cấp, cùng với sự vận động của ngành Bài viết trình bày lý thuyết về chiến lược cạnh tranh trong các ngành phân mảng, ngành mới nổi, và các giai đoạn bão hòa, suy thoái, từ đó đưa ra quyết định về chiến lược Đặc biệt, tác giả đã phân tích đối thủ cạnh tranh và cấu trúc ngành một cách chi tiết Yếu tố quyết định khả năng sinh lời của doanh nghiệp là mức độ hấp dẫn của ngành và chiến lược cạnh tranh, được thể hiện qua 5 nguồn áp lực chính.
Sức mạnh của nhà cung cấp
Sức mạnh của người mua
Nguy cơ của sản phẩm dịch vụ thay
Hình 1.1 Năm nguồn lực cạnh tranh quyết định khả năng sinh lợi của ngành
Nguồn: Trích sách “Competitive Strategy” (Chiến lược cạnh tranh) [51, tr.35]
Khung phân tích này hỗ trợ luận án trong việc thực hiện chiến lược cạnh tranh của chi nhánh ngân hàng thương mại, thông qua việc nghiên cứu hành vi của các đối thủ cạnh tranh cùng với các yếu tố liên quan đến năng lực cạnh tranh.
Các nghiên cứu đã xác định rằng lý thuyết cạnh tranh tồn tại ở nhiều cấp độ, bao gồm cạnh tranh quốc gia và doanh nghiệp, và nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xây dựng lợi thế cạnh tranh để đảm bảo sự phát triển bền vững cho tổ chức Năng lực cạnh tranh (NLCT) ngày càng trở nên quan trọng, đóng vai trò là "giá đỡ" cho các ngành và doanh nghiệp trong việc nâng cao NLCT Hơn nữa, lợi thế cạnh tranh hiện nay không chỉ dựa vào tài nguyên thiên nhiên hay lao động phổ thông, mà chủ yếu phụ thuộc vào khả năng đổi mới và nâng cao trình độ khoa học công nghệ, đặc biệt là trong lĩnh vực ngân hàng, cần được nghiên cứu sâu sắc hơn.
Chakravathi Raghavan (2002) trong bài viết “New Basel Accord draft raises concerns over unfair competition” đã phân tích những nội dung mới trong quy chế quốc tế về ngân hàng Basel III, đặc biệt là quy trình mới liên quan đến an toàn vốn tối thiểu và giám sát hoạt động ngân hàng Tài liệu này cung cấp cái nhìn sâu sắc về quy định và nguồn gốc cạnh tranh của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam, đặc biệt là các chi nhánh ngân hàng nhà nước còn non trẻ trong bối cảnh hội nhập WTO.
Sách “Chiến lược đại dương xanh” của W Chan Kim và Renée Mauborgne (2007) giới thiệu khái niệm tạo ra thị trường không có cạnh tranh, thay vì cạnh tranh trong thị trường hiện tại Các tác giả nhấn mạnh việc làm cho cạnh tranh trở nên không cần thiết và khuyến khích doanh nghiệp tạo ra nhu cầu mới thay vì khai thác nhu cầu hiện tại Qua nghiên cứu thực tiễn từ các công ty như Southwest Airlines, Curves và Starbucks, cùng với hơn 150 ví dụ từ 30 ngành công nghiệp trong hơn 100 năm, tác giả đã phát triển các công cụ phân tích đại dương xanh Họ đưa ra sáu cách cụ thể giúp doanh nghiệp xây dựng chiến lược này, bao gồm việc vạch lại ranh giới thị trường, tập trung vào các yếu tố lớn, tìm kiếm khách hàng tiềm năng mới, và đổi mới công nghệ để tạo thêm giá trị Công trình này đã tạo ra bước nhảy vọt về giá trị, mở ra con đường mới vững chắc cho doanh nghiệp hướng tới thành công.
- Bài tạp chí của Đỗ Văn Tính (2005) về “Nâng cao năng lực cạch tranh của doanh nghiệp Thành phố Đà Nẵng hiện nay” [42] Sau hi nghiên cứu về
NLCT của doanh nghiệp trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế cần được nhận diện và đánh giá để khắc phục hạn chế và phát huy thế mạnh Tác giả phân tích thực trạng và mức độ hỗ trợ của Nhà nước, chỉ ra khoảng cách giữa NLCT hiện tại và yêu cầu cạnh tranh Để phát triển bền vững, doanh nghiệp cần xây dựng, duy trì và sáng tạo lợi thế cạnh tranh, đáp ứng nhu cầu khách hàng ngày càng cao Nghiên cứu chỉ ra bảy yếu tố nội sinh quan trọng: quy mô hoạt động, chiến lược kinh doanh, bảo vệ thương hiệu, nghiên cứu thị trường, năng lực quản lý, chi phí R&D sản phẩm mới, và trình độ công nghệ nguồn nhân lực Ngoài ra, các yếu tố ngoại sinh như thể chế kinh tế, chính trị, và văn hóa - xã hội cũng ảnh hưởng đến khả năng hoạt động của doanh nghiệp.
Tình hình năng lực cạnh tranh (NLCT) của các doanh nghiệp tại Thành phố Đà Nẵng hiện đang gặp nhiều khó khăn, với trang thiết bị công nghệ, giá cả thị trường, thương hiệu và sản phẩm còn thấp, đặc biệt là đối với hơn 90% doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ Để cải thiện tình hình này, tác giả đề xuất một số giải pháp như tăng cường hoạt động marketing hỗn hợp, nghiên cứu thị trường, xác định sản phẩm và dịch vụ cần thiết, cũng như phát triển các kênh phân phối hiệu quả Đặc biệt, việc xây dựng và nuôi dưỡng nguồn nhân lực, cùng với việc đào tạo nghề cho người lao động trong doanh nghiệp, là rất cần thiết Tác giả cũng khuyến nghị áp dụng "chiến lược Đại dương xanh" nhằm xây dựng chiến lược kinh doanh độc đáo và kiểm soát cạnh tranh, không chỉ tập trung vào việc nâng cao chất lượng sản phẩm và giảm giá Thay vào đó, doanh nghiệp cần cạnh tranh bằng cách liên kết và khai thác những khoảng trống trên thị trường, từ đó tạo ra giá trị mới cho sản phẩm và tăng sức cầu của người tiêu dùng, giúp chiếm lĩnh thị phần lớn hơn.
Mặc dù nghiên cứu được thực hiện tại địa bàn thành phố của tỉnh, nhưng qua việc phân tích thực trạng và đề xuất giải pháp, luận án tiếp tục kế thừa các nghiên cứu về chiến lược kinh doanh của chi nhánh ngân hàng thương mại tại thành phố Hà Nội.
Luận án tiến sĩ của Nguyễn Vĩnh Thanh (2005) tại Trường Đại học Thương mại tập trung vào việc đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao sức cạnh tranh cho các doanh nghiệp thương mại Việt Nam trong bối cảnh mới Tác giả nhấn mạnh tầm quan trọng của việc cải thiện chiến lược kinh doanh và phát triển nguồn nhân lực để đáp ứng yêu cầu thị trường.
Sức cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện khả năng thỏa mãn nhu cầu khách hàng và tạo ra lợi ích trong môi trường cạnh tranh Tác giả đã xác định tám chỉ tiêu đo lường sức cạnh tranh, bao gồm thị phần, vị thế tài chính, quản lý và lãnh đạo, khả năng nắm bắt thông tin, chất lượng sản phẩm, giá cả, kênh phân phối và trình độ lao động Hai nhóm yếu tố ảnh hưởng đến sức cạnh tranh là nhân tố trong nước và quốc tế Qua phân tích thực trạng sức cạnh tranh của 175 doanh nghiệp thương mại Việt Nam, tác giả đã nêu rõ những hạn chế và nguyên nhân, từ đó đưa ra các giải pháp và kiến nghị khả thi nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp thương mại Việt Nam trong tương lai.
Luận án hiện tại mới chỉ dừng lại ở việc nhận thức và nguyên tắc chỉ đạo mà chưa đưa ra các giải pháp chi tiết để khuyến khích cạnh tranh lành mạnh Cần có các chính sách cụ thể theo khuôn khổ pháp luật nhằm kiểm soát độc quyền và tạo ra sân chơi bình đẳng cho tất cả các thành viên tham gia thị trường, bao gồm cả các chi nhánh ngân hàng thương mại Luận án sẽ tiếp tục nghiên cứu sâu hơn về vấn đề này.
Trong cuốn sách "Chính sách kinh tế và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp" của Đinh Thị Nga (2011), tác giả phân tích năng lực cạnh tranh (NLCT) của doanh nghiệp, nhấn mạnh rằng NLCT ngắn hạn là khả năng thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn lực để tạo ra sản phẩm có giá cả, chất lượng và tính độc đáo, trong khi NLCT dài hạn là khả năng tạo ra lợi nhuận thông qua sản phẩm mới Tác giả hệ thống hóa năm chính sách ảnh hưởng đến NLCT, bao gồm thuế, đầu tư công, tín dụng, xúc tiến thương mại và chính sách kinh tế phối hợp Qua việc khảo sát kinh nghiệm của Hàn Quốc và Trung Quốc, tác giả chỉ ra các chính sách hiệu quả trong việc nâng cao NLCT Bên cạnh đó, tác giả phân tích tác động của hệ thống chính sách kinh tế Việt Nam đến NLCT, chỉ ra sáu tác động tích cực và năm tác động tiêu cực của thuế gián thu, cùng ba tác động tích cực và ba tác động tiêu cực của thuế trực thu Cuối cùng, tác giả đề xuất sáu quan điểm và giải pháp cụ thể để hoàn thiện chính sách kinh tế nhằm nâng cao NLCT cho doanh nghiệp Việt Nam.
- Báo cáo của Viện Quản lý Kinh tế Trung ương và Học viện Năng lực cạnh tranh Châu Á của Singapore về “Năng lực cạnh tranh quốc gia 2011 của
Báo cáo phân tích năng lực cạnh tranh (NLCT) của Việt Nam dựa trên mô hình của E.Porter, nhấn mạnh sự tương tác giữa các yếu tố mà không xác định yếu tố nào quan trọng hơn Các yếu tố cốt lõi trong NLCT được xác định, trong đó năng suất được coi là động lực chính cho phát triển bền vững Năng suất là kết quả tổng hợp từ các yếu tố do các thành viên trong nền kinh tế tác động Các yếu tố NLCT vĩ mô, như chất lượng cơ sở hạ tầng, thể chế chính trị, văn hóa - xã hội, chính sách kinh tế vĩ mô và năng lực doanh nghiệp, được xác định là môi trường hoạt động của doanh nghiệp Ngoài ra, báo cáo còn phân tích lợi thế so sánh tự nhiên của Việt Nam qua các yếu tố nền tảng vĩ mô và vi mô, bao gồm chất lượng điều hành, cung cấp dịch vụ công, phát triển bền vững, sự năng động của các cụm ngành, chất lượng hạ tầng và mức độ cạnh tranh trong nước.
Những vấn đề đã được giải quyết, khoảng trống nghiên cứu và hướng nghiên cứu của luận án 26
3.1 GIỚI THIỆU CHUNG VỀ CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP
VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN THĂNG LONG
3.1.1 Giới thiệu chung về Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam Được thành lập ngày 26/3/1988 theo Nghị đinh số 53/HĐBT của hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ), NHNN&PTNT là NHTM quốc doanh hoạt động theo mô hình Tổng Công ty Năm 2011, NHNN&PTNT chuyển sang hoạt động theo mô hình Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu, có quy mô hoạt động lớn nhất, mạng lưới phủ rộng hắp mọi miền đất nước có 147 chi nhánh cấp I, cấp II, 9 Công ty con, 793 chi nhánh cấp III và 1.329 Phòng Giao dịch. Tại Trụ Sở chính NHNN&PTNT có 24 Ban, Ủy ban, trung tâm, 03 đơn vị sự nghiệp, 02 Văn phòng đại diện và 01 chi nhánh nước ngoài Số lượng cán bộ trong hệ thống và hách hàng đông nhất, quan hệ đại lý với trên 1 ngàn tổ chức quốc tế của nhiều quốc gia vùng lãnh thổ Từ năm 2015, chuyển sang mô hình NHTMNN, NHNN&PTNT tích cực thực hiện việc tái cơ cấu lại tổ chức bộ máy và tổ chức lại hoạt động inh doanh chuẩn bị cổ phần hóa theo chủ trương của Chính phủ, với mục tiêu xây dựng thành ngân hàng hiện đại, giữ vai trò chủ lực trên thị trường ở hu vực tam nông và hẳng định thương hiệu, uy tín trong hu vực và quốc tế Đến năm
Đến năm 2019, NHN&PTNT đã phát triển mạnh mẽ với 01 Trụ Sở chính, 06 Văn phòng đại diện, 01 Chi nhánh tại Campuchia, 03 đơn vị sự nghiệp, 170 chi nhánh cấp 1, 1.775 chi nhánh cấp 2 và 1.294 Phòng Giao dịch Ngân hàng này có 6 công ty con và đội ngũ nhân lực lên đến 37.860 nhân viên, phục vụ cho mạng lưới khách hàng gồm 30.000 doanh nghiệp, 4 triệu hộ sản xuất và 12 triệu khách hàng cá nhân NHN&PTNT được công nhận là ngân hàng thương mại lớn, điều này được xác nhận qua khảo sát xã hội học với 718 khách hàng tại 20 Hội sở và Phòng Giao dịch của CNTL cùng 5 chi nhánh NHNN&PTNT ở Hà Nội, trong đó có 90% khách hàng đồng ý và hoàn toàn đồng ý đánh giá ngân hàng là lớn.