1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Địa danh thủ dầu một quá trình hình thành, ý nghĩa và các giá trị lịch sử (1900 1956)

128 3 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Địa Danh Thủ Dầu Một: Quá Trình Hình Thành, Ý Nghĩa Và Các Giá Trị Lịch Sử (1900 - 1956)
Tác giả Nguyễn Thị Tiền
Người hướng dẫn PGS.TS. Nguyễn Văn Hiệp
Trường học Trường Đại Học Thủ Dầu Một
Chuyên ngành Lịch Sử Việt Nam
Thể loại Luận Văn Thạc Sĩ
Năm xuất bản 2021
Thành phố Bình Dương
Định dạng
Số trang 128
Dung lượng 3,69 MB

Cấu trúc

  • 1. Lý do chọn đề tài (8)
  • 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề (8)
  • 3. Đối tương nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu (14)
  • 4. Mục đích nghiên cứu (14)
  • 5. Phương pháp nghiên cứu (14)
  • 6. Đóng góp luận văn (15)
  • 7. Cấu trúc luận văn (16)
  • CHƯƠNG 1 ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN - KINH TẾ - XÃ HỘI TỈNH THỦ DẦU MỘT10 1.1. Đặc điểm tự nhiên (17)
    • 1.1.1. Vị trí địa lý (17)
    • 1.1.2. Địa thế - địa chất (18)
    • 1.1.3. Sông ngồi - khí hậu (18)
    • 1.1.4. Đặc điểm kinh tế (20)
      • 1.1.4.1. Nông nghiệp (20)
      • 1.1.4.2. Thủ công nghiệp (25)
      • 1.1.4.3. Thương nghiệp (27)
    • 1.2. Đặc điểm văn hóa - xã hội (29)
      • 1.2.1. Dân số (29)
      • 1.2.2. Phong tục - tín ngưỡng - tôn giáo (30)
      • 1.2.3. Y tế - giáo dục (33)
        • 1.2.3.1. Y tế (33)
        • 1.2.3.2. Giáo dục (34)
    • 1.3. Một số vấn đề lý luận về địa danh học (36)
      • 1.3.1. Khái niệm (36)
      • 1.3.2. Đối tượng nghiên cứu của địa danh (38)
      • 1.3.2. Phân loại địa danh (38)
      • 1.3.3. Phương thức định danh (39)
    • 2.1. Đôi nét về cây Dầu (41)
      • 2.1.1. Tên và nguồn gốc cây Dầu (41)
      • 2.1.2. Khảo tả cây Dầu (41)
      • 2.1.3. Phương pháp trồng cây Dầu (42)
      • 2.1.4. Công dụng của cây Dầu (42)
    • 2.2. Nguồn gốc tên gọi Thủ Dầu Một (43)
      • 2.2.1. Tên gọi Thủ Dầu Một qua ghi chép trong thư tịch cổ (43)
      • 2.2.2. Tên gọi Thủ Dầu Một qua những kiến giải mới (45)
      • 2.2.3. Tên gọi Thủ Dầu Một qua các định danh hành chính (48)
    • 2.3. Ý nghĩa tên gọi Thủ Dầu Một (51)
    • 2.4. Tên gọi Thủ Dầu Một ảnh hưởng trong đời sống của nhân dân Thủ Dầu Một (52)
      • 2.4.1. Ảnh hưởng về mặt kinh tế (53)
      • 2.4.2. Ảnh hưởng về mặt văn hóa - xã hội (62)
      • 2.4.3. Ảnh hưởng về mặt chính trị (67)
  • CHƯƠNG 3 VÙNG ĐẤT THỦ DẦU MỘT QUA CÁC THỜI KÌ LỊCH SỬ66 3.1. Thủ Dầu Một trước khi người Việt đến khai phá (41)
    • 3.2. Thủ Dầu Một thời kỳ người Việt đến khai phá (74)
    • 3.3. Thủ Dầu Một thời kỳ thuộc huyện Bình An (78)
    • 3.4. Tỉnh Thủ Dầu Một dưới thời Pháp thuộc (83)
    • 3.5. Thủ Dầu Một thời kỳ thuộc tỉnh Bình Dương (90)
  • KẾT LUẬN (94)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (100)
  • PHỤ LỤC (108)

Nội dung

Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Nghiên cứu về địa danh Thủ Dầu Một từ năm 1900 đến 1956 tập trung vào quá trình hình thành, ý nghĩa và các giá trị lịch sử của vùng đất này Đây là một đề tài mới mẻ, chưa được giới nghiên cứu khai thác sâu sắc, chủ yếu chỉ có những nghiên cứu khái quát về khu vực.

Thủ Dầu Một là một chủ đề chưa được nghiên cứu sâu, nhưng đã có nhiều công trình tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau Các công trình này chủ yếu được phân thành ba dạng: thứ nhất, các nghiên cứu đề cập đến Thủ Dầu Một trong bối cảnh rộng hơn của vùng đất Đồng Nai - Gia Định hay Nam Bộ; thứ hai, các công trình tổng quan về tỉnh có đề cập đến tên gọi và ảnh hưởng của Thủ Dầu Một về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội; thứ ba, những nghiên cứu chuyên sâu về tên gọi Thủ Dầu Một Trong dạng thứ nhất, các công trình tiêu biểu như quyển Phủ Biên tạp lục của Lê Quý Đôn (1726) nghiên cứu các yếu tố tác động đến văn hóa, chính trị, kinh tế, xã hội và ảnh hưởng đến việc hình thành tên gọi Thủ Dầu Một trong lịch sử.

Tác phẩm "Gia Định thành thông chí" của Trịnh Hoài Đức, viết vào thời vua Gia Long, là nguồn tư liệu quý giá về vùng đất phương Nam, cung cấp thông tin phong phú về cảnh quan, tài nguyên, dân cư, chế độ ruộng đất, thuế khóa và binh chế Được biên soạn trong bối cảnh khai khẩn và mở rộng vùng đất phía Nam, tác phẩm này không chỉ mô tả cương vực địa lý và thành trì mà còn phân tích khí hậu, kinh tế, chính trị, văn hóa và giải thích nguồn gốc của một số địa danh tại Gia Định, góp phần làm sáng tỏ lịch sử và văn hóa của Nam Bộ.

Nam nhất thống chí (1882) là tác phẩm của quốc sử quán triều Nguyễn, được dịch bởi Đào Duy Anh Nội dung của sách cung cấp thông tin địa chí về từng tỉnh trong cả nước Việt Nam, cùng với một số lãnh thổ lân cận như Cao Miên (Campuchia ngày nay) và Xiêm La (Thái Lan).

Xá, Hỏa Xá, Miến Điện (Myanmar hiện nay) và Nam Chưởng được trình bày qua nhiều mục như cương giới duyên cách, phân hạt, hình thể, khí hậu, phong tục, và nhiều khía cạnh khác của đời sống dân tộc Việt Nam Bộ địa chí này không chỉ phản ánh đầy đủ các mặt sống mà còn giải thích nguồn gốc và ý nghĩa của địa danh Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn tại Biên Hòa (Đồng Nai, Sông Bé, Bà Rịa, Vũng Tàu) vào năm 1994 của Nguyễn Đình Đầu đã chỉ ra những thay đổi về địa danh hành chính từ năm 1808 đến 1994, với sự khó khăn trong việc xác định địa bàn Thủ Dầu Một do nhiều lần thay đổi địa lý - hành chính Tác phẩm "Địa chí Bình Phước" của TS Lê Hữu Phước cung cấp một cái nhìn tổng hợp về tự nhiên, địa chất, lịch sử và văn hóa của vùng đất này, đồng thời cung cấp tài liệu quý giá về sự hình thành và phát triển của tỉnh Bình Phước cũng như Thủ Dầu Một Tên gọi Thủ Dầu Một cũng được đề cập trong nhiều công trình nghiên cứu khác nhau, bao gồm các tập địa chí của tỉnh qua các thời kỳ, từ năm 1910 đến nay.

Vào năm 1956, hai tập địa chí nghiên cứu sâu sắc về giai đoạn Thủ Dầu Một, một đơn vị hành chính cấp tỉnh quan trọng, đã cung cấp những giải thích đáng tin cậy về nguồn gốc tên gọi của tỉnh này Những tài liệu này trở thành nguồn tư liệu quý giá cho các luận văn nghiên cứu Tiếp theo, vào năm 1967, công trình "Tỉnh Bình Dương - Địa phương chí" được xuất bản, góp phần làm phong phú thêm kiến thức về địa chí tỉnh Bình Dương.

Tập Địa phương chí Bình Dương được biên soạn với sự cộng tác của sinh viên Quốc gia Hành Chánh K-12 nhằm giới thiệu các đặc điểm nổi bật của tỉnh Bình Dương trong giai đoạn hiện tại Nội dung tập trung vào các khía cạnh của đời sống xã hội, bao gồm kinh tế, chính trị, hành chính, văn hóa và xã hội Tác giả cũng đã đề cập đến nhiều cách hiểu khác nhau về tên gọi Thủ Dầu Một và ý nghĩa của tên gọi Bình Dương ngày nay Đặc biệt, tập Địa chí Bình Dương năm 1975 và công trình Địa chí Bình Dương toàn tập của PGS.TS Phan Xuân Biên xuất bản năm 2010 đã khắc họa lịch sử hình thành và phát triển của tỉnh qua các thời kỳ, đồng thời phục dựng bức tranh kinh tế xã hội Ngoài ra, Địa chí tỉnh Sông Bé của Trần Bạch Đằng xuất bản năm 1991 cũng cung cấp cái nhìn tổng quan về địa lý tự nhiên, lịch sử và truyền thống văn hóa của vùng đất này, cùng với phần trích nguyên văn địa chí Thủ Dầu Một năm 1910, giải thích về tên gọi Thủ Dầu Một trong thời kỳ đó.

Các công trình nghiên cứu về lịch sử đảng bộ địa phương, như "Lịch sử đảng bộ tỉnh Bình Dương 1930 - 1945" và "Lịch sử đảng bộ thị xã Thủ Dầu Một, tập 1, sơ thảo 1930 - 1954", đã ghi lại quá trình hình thành và phát triển của đảng bộ trong bối cảnh kháng chiến chống thực dân Pháp Tiếp theo, "Lịch sử đảng bộ thị xã Thủ Dầu Một, tập 2, sơ thảo 1954 - 1975" phản ánh giai đoạn kháng chiến chống Mỹ, nhằm tái hiện bối cảnh lịch sử và giáo dục truyền thống yêu nước của nhân dân và đảng bộ địa phương cho các thế hệ sau.

Tác giả Nguyễn Minh Đức đã biên soạn công trình "Lược sử tên đường Thị xã Thủ Dầu Một", trong đó giới thiệu lịch sử các địa danh, sự kiện và danh nhân liên quan đến 82 tuyến đường tại Thị xã Thủ Dầu Một, Bình Dương.

Tác giả Nguyễn Văn Bình đã nghiên cứu và viết công trình "Lịch sử lực lượng vũ trang nhân dân thành phố Thủ Dầu Một (1945 - 2010)", tập trung vào vị trí địa lý, con người, truyền thống đấu tranh yêu nước và lực lượng vũ trang của nhân dân Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương trong các giai đoạn kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954), chống Mỹ cứu nước (1954 - 1975), và thời kỳ xây dựng, bảo vệ tổ quốc (1975 - 2010) Nhiều công trình nghiên cứu về lịch sử và văn hóa Bình Dương cũng đã được công bố gần đây.

Dương đất lành chim đậu của Sở Văn hóa Thông tin Bình Dương biên soạn

Năm 1999, tập tài liệu của nhiều tác giả về Bình Dương đã cung cấp thông tin phong phú về lịch sử, văn hóa và con người nơi đây, trở thành nguồn tư liệu quý giá cho tôi Thư viện tỉnh Bình Dương cũng đã tập hợp tất cả các bài viết liên quan đến tỉnh này đã được đăng tải trên các báo Ngoài ra, công trình nghiên cứu của tác giả Nguyễn Đình xuất bản năm 2017 cũng là một nguồn tài liệu hữu ích về Bình Dương.

Tài liệu "Địa chí hành chính các tỉnh Nam kỳ thời Pháp thuộc (1859 - 1954)" ghi nhận quá trình sắp xếp và điều chỉnh ranh giới cũng như tên gọi các đơn vị hành chính từ cấp làng xã đến cấp quận, tỉnh, tạo nên một hệ thống vẫn tồn tại đến ngày nay Những văn kiện quý hiếm này sẽ hỗ trợ các tỉnh trong việc biên soạn tiến trình thành lập và các đơn vị hành chính qua từng giai đoạn lịch sử Chúng cũng phản ánh sự phát triển dân số của từng tỉnh ở Nam kỳ trong thời kỳ Pháp thuộc, theo từng năm và giai đoạn Bên cạnh đó, các tài liệu này cung cấp thông tin về chức vụ đứng đầu mỗi tỉnh trong suốt thời gian Pháp cai trị Ngoài ra, chúng còn liên quan đến quy hoạch đường sá ở các vùng nông thôn, đặc biệt là địa lý hành chính tỉnh Bình Dương qua các thời kỳ lịch sử, cùng với những nghiên cứu chuyên sâu về tên gọi địa danh Thủ Dầu Một trong khuôn khổ Hội thảo “300 năm phát triển Thủ Dầu Một.”

Trương Chi, tác giả bài viết “Thủ Dầu Một - Bình Dương, tên đất tên làng”, đã đưa ra quan điểm cá nhân về nguồn gốc tên gọi Thủ Dầu Một Ông cho rằng tên gọi này xuất phát từ nguyên ngữ Campuchia Tuln Phombốt, có nghĩa là “đỉnh đồi cao nhất”, chỉ về đỉnh đồi cao nằm ven sông Sài Gòn Thêm vào đó, ông cũng tham khảo các ý kiến từ các nhà nghiên cứu trước đó trong lĩnh vực này.

Nhà văn Nguyễn Yên Mô đã đưa ra cách giải thích độc đáo về tên gọi Thủ Dầu Một, trong khi tác giả Minh Châu trong bài viết "Tiếp cận địa danh Thủ Dầu Một: nhìn từ góc độ lịch sử, từ nguyên" đã tổng hợp nhiều quan điểm về nguồn gốc và thời điểm xuất hiện của tên gọi này Tác giả Nguyễn Minh Giao cũng đã lý giải tên gọi Thủ Dầu Một từ góc độ từ nguyên và xác định thời điểm ra đời của nó Mặc dù có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến tên gọi Thủ Dầu Một, nhưng chưa có công trình nào tổng hợp đầy đủ và hệ thống Do đó, tác giả sẽ tiếp tục nghiên cứu sâu về tên gọi này, tập trung vào khía cạnh dân gian và pháp lý cùng các vấn đề liên quan Gần đây, các tham luận trong hội thảo khoa học về Tỉnh Thủ Dầu Một - 120 năm đã được công bố, đóng góp thêm vào việc tìm hiểu về địa danh này.

Vào ngày 17/12/2020, Trường Đại học Thủ Dầu Một phối hợp cùng Hội Khoa học Lịch sử Bình Dương tổ chức hội thảo nghiên cứu chuyên sâu về địa danh Thủ Dầu Một.

- Lịch sử địa danh Thủ Dầu Một: những kiến giải mới của tác giả Nguyễn Văn Giác và Phan Thị Út Nhựt

- Thủ Dầu Một, một địa danh của tác giả Võ Nguyên Phong

- Nguồn gốc tên gọi Thủ Dầu Một về mặt dân gian và pháp lý của tác giả Nguyễn Thị Tiền (tác giả đề tài)

- Tìm hiểu địa danh Thủ Dầu Một nhân kỉ niệm 120 năm ngày thành lập tỉnh Thủ Dầu Một của tác giả Nguyễn Văn Ngoạn và Lê Thị Kim Út

Đối tương nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu

Đối tƣợng nghiên cứu luận văn là địa danh Thủ Dầu Một, quá trình hình thành, ý nghĩa và các giá trị lịch sử

Luận văn nghiên cứu chuyên sâu về địa danh Thủ Dầu Một, bao gồm quá trình hình thành, ý nghĩa và các giá trị lịch sử của nó từ khi được công nhận là một đơn vị hành chính cho đến khi tỉnh Thủ Dầu Một bị giải thể vào tháng 10 năm 1956.

- Phạm vi về không gian: Vùng đất Thủ Dầu Một

- Phạm vi về thời gian: từ năm 1900 đến năm 1956.

Mục đích nghiên cứu

Làm rõ nguồn gốc tên gọi Thủ Dầu Một, quá trình hình thành, từ đó xác định ý nghĩa tên gọi Thủ Dầu Một

Thủ Dầu Một là một địa danh có giá trị lịch sử to lớn, đóng góp quan trọng vào đời sống kinh tế - xã hội của cư dân tỉnh Bình Dương Vùng đất này không chỉ là trung tâm thương mại sầm uất mà còn là nơi lưu giữ nhiều di sản văn hóa, phản ánh quá trình phát triển của cộng đồng Sự phát triển của Thủ Dầu Một đã tạo ra nhiều cơ hội việc làm và nâng cao chất lượng sống cho người dân, khẳng định vị thế của vùng đất này trong bối cảnh kinh tế hiện đại.

“Hội tụ - Khát vọng - Lan tỏa”.

Phương pháp nghiên cứu

Trong thời gian nghiên cứu và viết đề tài, tác giả đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau:

Đề tài nghiên cứu thuộc chuyên ngành khoa học lịch sử, vì vậy tác giả áp dụng phương pháp lịch sử làm chủ đạo trong luận văn Tên gọi Thủ Dầu Một được xác định từ góc độ lịch sử, trong bối cảnh không gian và thời gian cụ thể Tác giả phác họa bức tranh đời sống xã hội của nhân dân Thủ Dầu Một trong thời gian nghiên cứu, đồng thời kết hợp phương pháp lịch sử và logic để tìm mối liên hệ giữa các sự kiện lịch sử Mục tiêu là nêu bật nội dung cốt lõi và bản chất của sự vật, sự việc, trình bày lịch sử như nó đã diễn ra.

Phương pháp thu thập và xử lý tư liệu bao gồm việc sử dụng các tài liệu lưu trữ hành chính từ các tỉnh, thành phố, bản đồ địa hình, hành chính, kinh tế và quân sự của tỉnh Thủ Dầu Một Ngoài ra, các báo địa phương, sách địa phương chí, bài viết về địa phương và tác phẩm văn học liên quan cũng rất quan trọng Các tài liệu lý luận về địa danh học và ngôn ngữ học, cùng với nguồn tư liệu từ các loại từ điển, là cần thiết cho nghiên cứu địa danh Cuối cùng, tư liệu điền dã được thu thập qua quan sát, ghi chép và chọn lọc trong quá trình thực địa cũng đóng vai trò quan trọng trong việc nghiên cứu.

Phương pháp thống kê, phân loại và miêu tả là những công cụ thiết yếu trong nghiên cứu địa danh Chúng tôi áp dụng các phương pháp này trong suốt quá trình thực hiện đề tài, dựa vào nguồn tư liệu đã thu thập Qua việc thống kê và phân loại, chúng tôi làm rõ mục đích nghiên cứu, từ đó rút ra những đặc điểm riêng của từng loại địa danh cũng như những đặc điểm chung của chúng.

Phương pháp so sánh, đối chiếu là công cụ hữu ích để khám phá những nét tương đồng và khác biệt của địa danh Thủ Dầu Một so với các địa danh lân cận Bằng cách áp dụng phương pháp so sánh đồng đại, chúng ta có thể nhận diện các đặc điểm chung và riêng biệt Đồng thời, việc sử dụng phương pháp so sánh lịch đại giúp xác định nguồn gốc và ý nghĩa ban đầu của địa danh, cũng như quy luật thay đổi tên gọi qua các thời kỳ lịch sử.

Đóng góp luận văn

Cung cấp và bổ sung tài liệu lịch sử địa phương của Thủ Dầu Một và Bình Dương hiện nay là cần thiết để biên soạn và giảng dạy lịch sử địa phương Điều này nhằm bồi dưỡng và giáo dục thế hệ trẻ lòng yêu quê hương, đất nước, cũng như ý thức trân trọng, giữ gìn và phát huy những thành quả và truyền thống mà các thế hệ cha ông đã xây dựng.

Chúng tôi tổng hợp các tài liệu đã được công bố nhằm cung cấp cho các nhà nghiên cứu những thông tin cần thiết để tiếp tục khám phá sâu hơn về vùng đất Thủ Dầu Một.

Cấu trúc luận văn

Về cấu trúc, ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn được chia thành 3 chương:

Chương 1: Đặc điểm tự nhiên - kinh tế - xã hội tỉnh Thủ Dầu Một

Chương 2: Nguồn gốc tên gọi Thủ Dầu Một - ý nghĩa phản ánh những giá trị hiện thực

Chương 3: Vùng đất Thủ Dầu Một qua các thời kì lịch sử.

ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN - KINH TẾ - XÃ HỘI TỈNH THỦ DẦU MỘT10 1.1 Đặc điểm tự nhiên

Vị trí địa lý

Tỉnh Thủ Dầu Một là một dải đất dài hơn 200 km, kéo dài từ Đông Bắc đến Tây Nam, nằm ở cuối rặng Hoành Sơn của trung tâm Cao Nguyên, dốc xuống đồng bằng thấp của miền Nam, giữa hai con sông Bé ở phía Đông và sông Sài Gòn ở phía Tây Ranh giới của tỉnh được xác định lại theo Nghị định của Toàn quyền Đông Dương ký ngày 2 tháng 12 năm 1910.

Phía Bắc, tỉnh Kratié giáp với đường thung lũng Fonlé, dẫn đến một khúc quanh của sông theo hướng Đông Từ đây, có con đường đi về phía Bắc và Tây Bắc, kết nối với giao điểm Preck - Chrieu và Quốc lộ 13 Đường ranh giới theo sông Preck - Chrieu kéo dài đến nguồn, tiếp nối với một con đường song song với vĩ tuyến 12 đến Preck - Jerman Dọc theo sông này, đường đi tiếp tục đến nguồn và rẽ sang phía Đông Nam đến ngã ba sông Dok - Hoyt, sau đó theo sông Dok - Hoyt đến tận nguồn của nó.

Phía Nam giáp tỉnh Gia Định với một đường ranh giới thỏa thuận vô điều kiện, kéo dài từ Tuy An đến sông Sài Gòn tại ngã ba rạch Gò Dưa.

Phía Đông được xác định bởi một đường ranh nhân tạo từ làng Tuy An, kéo dài theo lưu vực sông Đồng Nai đến thung lũng suối Bà Phổ Hiền Tại đây, đường ranh đi dọc theo con lộ địa phương số 1, uốn cong theo sông Bé và tiếp tục lên thượng lưu sông Phước Hòa, kéo dài đến tận nguồn của lưu vực sông.

Phía Tây, giáp với sông Sài Gòn tạo thành đường thiên nhiên với các tỉnh Gia Định, Tây Ninh và Kompong - Cham (Cao Miên) [82;12]

Vào thời điểm đó, diện tích toàn tỉnh ước tính khoảng 500.000 mẫu, bao gồm cả khu vực đất mới được khắc phục ở phía bắc Bù Đốp và phía đông Dok - Hoyt.

1911) Vị trí của tỉnh Thủ Dầu Một có bề dài nhƣng không có bề ngang: từ Tây

1Kratie là một tỉnh ở phía đông Campuchia.

Nam đến Đông Bắc trên 200 cây số mà từ Đông sang Tây nơi rộng nhất không quá 40 cây số [93;1].

Địa thế - địa chất

Tỉnh Thủ Dầu Một nằm ở miền Đông Nam Bộ, có đặc điểm là vùng cao nguyên với độ cao trung bình không vượt quá 180 mét Địa hình nơi đây kết hợp giữa đồng bằng và đồi núi thấp, tạo thành hai vùng địa lý riêng biệt.

Vùng phía nam của tỉnh có thổ nhưỡng và hình thể tương đồng với các miền khác ở Nam Kỳ, bao gồm vườn tược và ruộng rẫy, chiếm khoảng 1/6 diện tích Trung tâm Phú Cường chủ yếu là đất sét pha cát (Argilo-siliceux) màu mỡ, nhờ vào sự bồi đắp hàng năm từ nước sông Sài Gòn và các con rạch Đặc biệt, xã Thuận Giao (Lái Thiêu) nổi bật với nguồn đất sét trắng, được sử dụng làm nguyên liệu sản xuất gốm.

Vùng phía bắc có địa hình đồi núi thoai thoải giữa sông Sài Gòn và sông Bé, với rừng và đồn điền cao su trải dài trên các đồi Đất ở phía Nam chủ yếu là đất xám, kém phì nhiêu do không giữ được lớp phân thiên nhiên lâu bền sau khi khai phá, dẫn đến sự phát triển nông nghiệp hạn chế Trong khi đó, từ Bến Cát trở lên, đất đỏ chiếm ưu thế và được ngăn cách bởi các thung lũng nhỏ và suối.

Sông ngồi - khí hậu

Thủ Dầu Một, nằm ở miền Đông Nam Bộ, có vị trí địa lý thuận lợi với vĩ tuyến thấp, mang lại nhiệt độ và độ ẩm ổn định Khu vực này được bao bọc bởi các con sông lớn, tạo nên một môi trường tự nhiên phong phú.

Sông Sài Gòn là ranh giới tự nhiên phía Tây tỉnh lỵ, bắt nguồn từ vùng đồi cao thuộc quận Lộc Ninh, tỉnh Bình Long, với chiều dài 261,9 km Sông chảy qua các tỉnh Bình Long và Tây Ninh theo hướng Đông Bắc - Tây Nam, trước khi vào tỉnh Thủ Dầu Một, nơi hợp lưu với sông Prek-Chak-Ân-Chang Phần thượng lưu của sông chỉ là dòng suối nhỏ, nhưng khi đến Phú Cường, lòng sông rộng hơn 200m và tiếp tục kéo dài đến ranh giới tỉnh Gia Định Sông Sài Gòn cung cấp nhiều nguồn lợi thiên nhiên cho tỉnh Thủ Dầu Một, bồi đắp phù sa cho các đồng bằng và đóng vai trò quan trọng trong thủy lợi, đặc biệt là đoạn từ Bến Súc trở xuôi, thường được sử dụng để vận chuyển cao su từ các vùng nội tỉnh về đô thị Sài Gòn.

Sông Bé, dài 360 km và bắt nguồn từ các sông Đắc Rơ Láp, Đắc Giun, Đắc Huýt ở tỉnh Đắc Lắc, là ranh giới tự nhiên ngăn cách với tỉnh Biên Hòa Với bờ dốc đứng và lòng sông nhiều khúc có đá ngầm, sông Bé không thuận lợi cho giao thông đường thủy như sông Sài Gòn Tuy nhiên, sông Bé đã đóng góp quan trọng trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, trở thành chiến hào thiên nhiên giúp ngăn chặn sự tấn công của kẻ thù vào các căn cứ địa Ngoài sông Bé, khu vực còn có nhiều kênh rạch và suối nhỏ khác.

Sông Thị Tính, bắt nguồn từ đồi Cam Xe, chảy qua Bến Cát và đổ ra sông Sài Gòn tại cầu Ông Cộ, mang lại phù sa màu mỡ cho đồng bằng Bến Cát Dài hơn 25 km, sông cung cấp lượng nước lớn cho sản xuất nông nghiệp, với nhiều cánh đồng lúa xanh tươi hơn các vườn trái cây, do đất ngập nước chỉ phù hợp cho trồng lúa Một trong những vùng canh tác quan trọng là cây thị Phú An.

An Điền, xóm Mương Đào…[82;14]

Suối Bến Trúc là nguồn cung cấp cát chủ yếu cho người dân địa phương, với sản lượng lên đến 800 tấn mỗi năm Suối bắt nguồn từ xã Chánh Phú Hòa, huyện Bến Cát, và chảy qua Thái Hòa trước khi tiếp giáp với rạch Thị Tính.

Suối Ông Thiềng không chỉ cung cấp nguồn nước dồi dào mà còn sản xuất khoảng 400 tấn cát trắng mỗi năm Suối bắt nguồn từ xã Phú Chánh, huyện Châu Thành, chảy qua các xã Tương Bình Hiệp và Chánh Hiệp.

Tỉnh Thủ Dầu Một sở hữu nhiều con sông và rạch như sông Bà Lụa, rạch Bình Nhâm, Vĩnh Bình, suối Bà, suối Bến Học, suối Đá, và suối Cát, phân bố rộng rãi ở các vùng đồng bằng kết nối với sông Sài Gòn Hệ thống sông ngòi này không chỉ đóng vai trò quan trọng trong giao thông mà còn cung cấp nguồn nước ổn định, hỗ trợ phát triển nông nghiệp trong khu vực.

Mực nước trung bình ở khu vực này ít bị ngập lụt, với giếng nước ở vùng đất cao có độ sâu từ 20 đến 35 mét, trong khi ở vùng đất thấp, mực nước dao động từ 2 đến 10 mét Vào mùa nắng, vùng bưng thường khô, nhưng vào mùa mưa, mực nước có thể tăng cao từ 6 tấc đến 1 thước 50.

Khí hậu của vùng này, tương tự như các tỉnh miền Đông Nam Bộ, mang đặc trưng nhiệt đới ẩm gió mùa với gió Nam trong mùa mưa, gió Bắc vào mùa lạnh và gió chướng trong mùa nóng Mùa mưa diễn ra từ tháng 5 đến tháng 11 hàng năm, thường có những đợt mưa kéo dài từ 2 đến 5 ngày liên tiếp, và trong một số năm, mùa mưa có thể kéo dài đến gần cuối tháng Chạp.

Nhiệt độ, mùa lạnh từ tháng 12 đến tháng Giêng dương lịch từ 17 0 C -

20 0 C; mùa nóng từ tháng 2 đến tháng 4 dương lịch từ 30 0 C - 35 0 C Độ ẩm trung bình 76% - 80% trong khoảng cách dịch chuyển từ 66% - 86% Lƣợng mƣa trung bình từ 1.800mm đến 2000mm.

Đặc điểm kinh tế

Thủ Dầu Một, một vùng đất giàu bản sắc, không chỉ nổi tiếng với ẩm thực như nem Lái Thiêu, trái cây ngọt và bánh bèo An Thạnh, mà còn là nơi có dòng sông Sài Gòn uốn lượn qua những khu rừng xanh và những đồn điền xa xôi Nơi đây từng là trung tâm quan trọng trong chiến tranh, với nhiều khu tị nạn và trung tâm thương mại sầm uất Dù trong bối cảnh chiến sự khốc liệt, Thủ Dầu Một đã không ngừng phát triển và khẳng định vị thế của mình qua những tác phẩm sơn mài nổi tiếng toàn cầu.

Với địa thế đặc biệt gồm rừng rậm, chồi và vườn tược nối tiếp nhau, khu vực này tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các ngành trồng cây ăn trái, cây công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp Vùng hướng Nam chủ yếu là vườn tược và ruộng rẫy, chiếm 1/6 diện tích của tỉnh, trong khi vùng hướng Bắc lại là rừng và đồn điền cao su liên tiếp.

Mặc dù Thủ Dầu Một có hệ thống sông ngòi phong phú và nhiều kênh, rạch thuận lợi cho nông nghiệp, nhưng diện tích rừng rậm chiếm ưu thế khiến ngành nông nghiệp, đặc biệt là trồng lúa gạo, gặp khó khăn trong phát triển So với các tỉnh khác ở Nam Kỳ, diện tích trồng lúa tại Thủ Dầu Một vẫn còn hạn chế.

Tỉnh Diện tích ruộng lúa

Diện tích tự nhiên Tỷ lê ( diện tích ruộng lúa/diện tích tự nhiên)

Bảng 1.1 Bảng thống kê so sánh diện tích trồng lúa ở Thủ Dầu Một với các tỉnh/vùng khác ở Nam [91;41]

Qua số liệu cho thấy, diện tích trồng lúa của Thủ Dầu Một đứng hàng thứ

18 Trong khi đó diện tích tự nhiên của tỉnh đứng hàng thứ 7 trên tổng số 20 tỉnh/vùng Nam kỳ Diện tích đất trồng lúa ở Thủ Dầu Một vẫn còn ở tỉ lệ thấp so với diện tích đất tự nhiên, chiếm 5% diện tích tự nhiên Qua các giai đoạn tiếp theo diện tích trồng lúa có xu hướng tăng nhưng vẫn ở mức thấp ở Nam Kỳ Căn cứ vào báo cáo thống kê ngày 29 tháng 3 năm 1956 những tháng cuối cùng trước khi giải thể tỉnh Thủ Dầu Một của tỉnh trưởng như sau: toàn tỉnh diện tích có thể canh tác lúa gạo là 25.000 mẫu nhƣng chỉ mới đi vào sản xuất 20.000 mẫu còn bỏ hoang 5.000 mẫu, trước năm 1945 sản xuất 19.400 tấn mỗi năm Theo thống kê, ƣớc tính sản xuất trung bình 1ha là 1.200kg

Sản xuất trung bình mỗi ha (Kg)

Tổng số sản xuất (lúa)

Tổng số sản xuất (gạo)

Số gạo tiêu thụ trong tỉnh

Giá tối đa 100Kg Mùa

Bảng 1.2 Bảng thống kê nông sản (lúa gạo) năm 1956 của tỉnh Thủ Dầu Một

Tỉnh có 26 nhà máy sản xuất lúa gạo với sản lượng trung bình khoảng 29.000 tấn/năm, nhưng hàng năm vẫn phải nhập khẩu thêm 500 tấn để đáp ứng nhu cầu Nguyên nhân là do chiến tranh kéo dài khiến dân cư di cư và ruộng đất bị bỏ hoang, làm giảm sản xuất lúa gạo Để giải quyết tình trạng này, tỉnh trưởng Thủ Dầu Một đã đề xuất cho dân chúng tự khai thác các vùng đất quốc gia, cấp bằng khoán vĩnh viễn cho những vùng sản xuất hiệu quả, tạm thời trưng dụng đất không khai thác để cấp cho nông dân, và thành lập hợp tác xã nông nghiệp.

Mặc dù điều kiện tự nhiên không thuận lợi cho việc sản xuất lúa gạo, nhưng các loại nông sản khác lại phát triển mạnh mẽ nhờ vào địa hình đa dạng, bao gồm các vùng đất cao, thung lũng và đất thấp ứ đọng nước Điều này giúp các loại hoa màu phụ phát triển nhanh chóng, đáp ứng nhu cầu của người dân và cung cấp sản phẩm ra ngoài các tỉnh lân cận.

Ngũ cốc là nguồn thực phẩm quan trọng bao gồm lúa, bắp, sắn và các loại khoai như khoai lang, mì, môn, cùng với nhiều loại đậu như đậu xanh, đậu trắng, đậu đen, đậu nành, đậu ván, đậu đũa và đậu phộng Ngoài ra, các loại rau như bầu, bí, mướp, dưa và cà tím cũng đóng vai trò thiết yếu trong chế độ ăn uống hàng ngày.

Cây ăn trái: Sầu riêng, măng cụt, chôm chôm, mãng cầu, thơm, dừa, dâu, cam, quýt, chanh, xoài, bưởi, mít, chuối, ổi, vú sữa,…

Cây kỹ nghệ tại Thủ Dầu Một chủ yếu tập trung vào cây cao su, với diện tích lớn và lợi nhuận cao; trước năm 1945, tỉnh có 44.000ha sản xuất 31.000 tấn cao su Đến tháng 3 năm 1956, toàn tỉnh có 70 đồn điền với diện tích trồng đạt 40.000ha, sản xuất 25.000 tấn Điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý và truyền thống nông nghiệp đã giúp Thủ Dầu Một trở thành trung tâm phát triển cây cao su khi thực dân Pháp khai thác thuộc địa từ cuối thế kỷ XIX Ngoài cao su, mía cũng là cây quan trọng, được trồng dọc sông Sài Gòn (Lái Thiêu) với diện tích 1.000ha và thu hoạch hàng năm đạt 30.000 tấn Thêm vào đó, thuốc lá cũng được trồng nhiều tại Thủ Dầu Một, đóng góp vào sản lượng nông nghiệp của tỉnh.

Rừng ở Thủ Dầu Một chiếm diện tích quan trọng, chủ yếu nằm ở phía Bắc tỉnh, nhưng nguồn gỗ quý hiếm rất ít Các loại gỗ phổ biến bao gồm bằng lăng, huỷnh, gỗ mật, chai, dầu, vên vên, cám, săng đá và chiêu liêu Sau khi giành lại chính quyền, sản xuất gỗ tại tỉnh có nhiều triển vọng với nguồn cung dồi dào nhờ việc vận chuyển gỗ qua các con sông và suối, cùng với Quốc lộ 13 và thủy lộ sông Sài Gòn là những tuyến đường chính Tuy nhiên, tỉnh đã trải qua nhiều biến cố lịch sử.

Từ năm 1945 đến 1954, rừng ở Bến Cát bị tàn phá nghiêm trọng do khai thác bởi Nhật Bản và cuộc di cư lớn vào năm 1954 Nhiều khu rừng tươi tốt đã bị chuyển đổi thành đất định cư cho người dân di cư từ phía Bắc Sự khai thác này tiếp tục diễn ra vì nhu cầu an ninh, dẫn đến sự sụt giảm diện tích lâm sản Theo thống kê tháng 2/1956, diện tích rừng bảo hộ chỉ còn 1.410 km², rừng cấm 1.008 km² và rừng khai thác là 100 km² Mặc dù sản lượng gỗ khai thác lúc này rất cao và đáp ứng nhu cầu trong tỉnh, nhưng tình trạng khai thác quá mức dự kiến sẽ dẫn đến suy giảm nghiêm trọng trong tương lai do thiếu chính sách khắc phục kịp thời.

Loại Số lƣợng sản xuất

Số xí nghiệp chuyên môn

Trại cƣa máy 19 Trại cƣa tay10

Bảng 1.3 Bảng thống kê lâm sản (lâm sản kiểm soát) của tỉnh Thủ Dầu Một năm 1956 [93;13]

Trong chăn nuôi, tỉnh chủ yếu tập trung vào các loại gia súc như bò (Bù Đóp, Lộc Ninh, Phú Hòa, An Mỹ) và trâu, được nuôi phổ biến ở hầu hết các quận để phục vụ việc cày cấy Heo thường được nuôi theo hộ gia đình, với mỗi nhà nuôi từ một đến vài con, đặc biệt là ở các đồn điền, Lộc Ninh và Dầu Tiếng Tuy nhiên, sản phẩm chăn nuôi chủ yếu chỉ đáp ứng nhu cầu trong địa bàn tỉnh và không được buôn bán ra bên ngoài.

Làm thịt Bán ra ngoài

Bảng 1.4 Bảng thống kê gia súc của tỉnh Thủ Dầu Một năm 1956 [93;20]

Trong thời kỳ kháng chiến, tình hình an ninh không ổn định đã ảnh hưởng đến nguồn cung cá trong tỉnh, buộc địa phương phải nhập thêm khoảng 400 tấn cá biển từ Vũng Tàu và cá nước ngọt từ miền Tây hàng năm Để khắc phục tình trạng này, nhà nước đã phát động phong trào đào ao nuôi cá, với hai trung tâm dƣỡng ngƣ tại xã Hƣng Định nhờ vào nguồn nước ổn định và hệ thống mương tưới tiêu từ vườn trái cây Nông dân đã nuôi các loại cá như cá chép, cá tra và cá sặc, đồng thời tỉnh Thủ Dầu Một cũng phát triển nhiều trại chăn nuôi và đào tạo cán bộ canh nông và kiểm lâm, đặc biệt là ở Bến Cát Nghề trồng dâu nuôi tằm cũng đã cho ra các sản phẩm chất lượng, từng được trưng bày trong cuộc thi nông nghiệp khu vực vào ngày 26 tháng 5 năm 1895.

Tại Thủ Dầu Một, kinh tế phát triển ổn định nhờ vào điều kiện thiên nhiên thuận lợi và vị trí gần Sài Gòn, đáp ứng nhu cầu cung cầu Mặc dù gặp khó khăn do ảnh hưởng của tình hình an ninh chính trị, khu vực vẫn đạt được nhiều kết quả khả quan, đặc biệt trong một số ngành công nghiệp và kỹ nghệ trong giai đoạn này.

- Lò gốm: tập trung ở Lái Thiêu và Châu Thành với 56 lò gồm 28 lò trên

10 công nhân và 28 lò dưới 10 công nhân, tổng có trên 500 công nhân trong lò gốm, mỗi ngày sản xuất đƣợc 100 chậu, 30 cái lu và 1600 cái chén Đồ gốm ở

Thủ Dầu Một không chỉ đáp ứng nhu cầu trong tỉnh mà còn cung cấp sản phẩm cho Sài Gòn - Chợ Lớn và nhiều cơ sở nổi tiếng xuất khẩu ra nước ngoài.

Ngành sơn mài tại Thủ Dầu Một phát triển mạnh mẽ nhờ vào nguồn nguyên liệu dồi dào từ gỗ và sự hiện diện của nhiều thợ chuyên môn trong lĩnh vực chạm trổ Trường Mỹ Nghệ được thành lập vào năm 1901 đã đóng vai trò quan trọng trong việc giảng dạy về sơn mài và đồ gỗ, góp phần đào tạo nhân lực cho ngành Nhiều học viên từ trường cao đẳng Mỹ Nghệ Hà Nội đã trở về địa phương để phát triển nghề sơn mài Theo thống kê năm 1956, khu vực Châu Thành có 7 xưởng sơn mài với hơn 10 công nhân mỗi xưởng và 3 xưởng nhỏ hơn, tổng số lao động trong ngành ước tính khoảng 100 người.

- Nhà máy xay lúa: tập trung ở quận Châu Thành (1 nhà máy), Lái Thiêu

Đặc điểm văn hóa - xã hội

Theo Grammont, tri huyện đầu tiên tại Thủ Dầu Một (1861) trong cuốn

Dân số mỗi xã của Thủ Dầu Một ước lƣợc từ 1000 đến 1500 người Qua các lần thay đổi địa giới, vào năm 1861, khi người Pháp chiếm Thủ Dầu Một, tỉnh này có 51 xã thuộc huyện Bình An và 10 xã thuộc huyện Bình Long, với tổng dân số khoảng 60.000 đến 90.000 người Quy mô dân số của tỉnh Thủ Dầu Một phản ánh tình trạng kinh tế, chính trị và xã hội trong từng thời kỳ.

Từ năm 1910 đến 1925, dân số tỉnh tăng từ 110.827 lên 126.730 người Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới đã ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế tỉnh, dẫn đến sự giảm nhẹ dân số trong các năm 1932, 1933 và 1943.

1931 là 177.259 người giảm xuống 172.042 người (1932), 159.425 người (1933), 146.600 người (1943) [91;146] Theo tài liệu thống kê của Địa chí - Tỉnh Thủ

Vào tháng 3 năm 1956, tỉnh Thủ Dầu Một ghi nhận dân số là 179.674 người, với sự đa dạng sắc tộc đáng chú ý Ngoài người Việt, tỉnh còn có sự hiện diện của người Hoa, người Miên và người Pháp Kiều Sự đa dạng này phản ánh vị trí địa lý đặc biệt của tỉnh, tạo nên một bức tranh phong phú về văn hóa và cộng đồng.

Số dân di cƣ tới Việt

Bảng 1.5 Bảng thống kê dân số của tỉnh Thủ Dầu Một năm 1956 [93;5] 1.2.2 Phong tục - tín ngưỡng - tôn giáo

Tín ngưỡng tại Thủ Dầu Một, như nhiều vùng đất khác ở miền Đông Nam Bộ, rất phát triển và đa dạng Các tôn giáo được tự do thực hành, trong đó nổi bật là tín ngưỡng thờ thần Thành Hoàng Bổn Cảnh, có nguồn gốc từ cư dân Việt ở Thuận Quảng từ những ngày đầu lập làng Ngoài ra, tín ngưỡng thờ Nữ thần (Ngũ hành Nương Nương, Chúa Xứ Thánh Mẫu) và việc thờ tổ nghề của những người làm nghề thủ công truyền thống cũng rất phổ biến, bao gồm tổ nghề mộc, gốm, sơn mài, và tín ngưỡng thờ Thần nông Người Việt di cư từ miền Bắc vào Bình Dương vào đầu thế kỷ XX mang theo tín ngưỡng thờ Tam Phủ, Tứ Phủ, trong khi nhiều dòng họ lớn vẫn giữ gìn việc thờ ông tổ của dòng họ Thêm vào đó, tại sân đình còn tồn tại hình thức bái vật giáo, như thờ hổ, rồng, và hà bá, phản ánh dấu ấn của thời kỳ mở cõi.

Phong tục từ ngàn xưa vẫn được người dân gìn giữ và phát huy, đặc biệt là lễ Kiệu Bà Thiên Hậu diễn ra vào Rằm tháng Giêng âm lịch, thu hút đông đảo khách thập phương Lễ rước Tào Kê diễn ra vào buổi chiều, người dân di chuyển vòng quanh thành phố Thủ Dầu Một, tạo nên không khí sôi động với tiếng pháo, chiêng trống và đoàn lân Đây là một hoạt động tôn giáo quan trọng, thể hiện đời sống tinh thần của người dân nơi đây, nơi tồn tại nhiều tôn giáo khác nhau.

Phật giáo tại Việt Nam đã phát triển từ rất sớm với sự xuất hiện của nhiều vị cao tăng nổi tiếng như Thượng tọa Từ Vân và Đại Ngạn Thiền sư Mối liên hệ giữa tín đồ và chùa, cũng như giữa tăng lữ, không thật sự mật thiết, với các hoạt động tôn giáo chủ yếu tập trung vào việc cầu an và cầu siêu trong các dịp lễ Phật giáo Phần lớn dân chúng tự nhận mình là con cháu nhà Phật nhưng hiếm khi đến chùa và không hiểu rõ giáo lý Trong thời kỳ này, Phật giáo chia thành nhiều nhánh như Tịnh độ tông và Thiền tông, và sau cuộc cách mạng năm 1963, các môn phái này đã hợp nhất thành Phật giáo Việt Nam thống nhất Nhiều ngôi chùa nổi tiếng với kiến trúc đồ sộ như chùa Hội Khánh đã bị chiến tranh tàn phá Những năm 1920, phong trào chấn hưng Phật giáo bùng nổ ở Nam Kỳ, với chùa Hội Khánh là trung tâm, nơi thành lập “Hội Danh dự” nhằm cổ vũ lối sống đạo đức và tinh thần yêu nước, ảnh hưởng mạnh mẽ đến tín đồ Phật giáo tại Thủ Dầu Một Đức tin Phật giáo cũng lan tỏa qua sự ra đời của nhiều ngôi chùa ở các khu vực như Lái Thiêu và An Thạnh.

Công giáo là tôn giáo có số tín đồ đứng thứ hai tại địa phương, chỉ sau Phật giáo Tôn giáo này đã xuất hiện tại Thủ Dầu Một từ rất sớm, trước khi người Pháp chiếm đóng vào năm 1861 Năm 1845, giáo sĩ Le Fevre trở lại Sài Gòn và định cư tại Lái Thiêu Làng Thiên Chúa giáo Hưng Định đã từng bị thiêu hủy trong quá khứ.

Đạo Công giáo đã xuất hiện tại tỉnh Thủ Dầu Một trước năm 1845, với các tín đồ đầu tiên tập trung ở Hưng Định, Búng, Lái Thiêu Trong giai đoạn đầu dưới triều Nguyễn, việc truyền giáo gặp nhiều khó khăn, nhưng sau khi người Pháp chiếm Thủ Dầu Một, đạo Công giáo phát triển nhanh chóng Nhiều nhà thờ được xây dựng tại Lái Thiêu, Búng, Phú Cường và Dầu Tiếng Đến năm 1936, tỉnh Thủ Dầu Một có khoảng 13.799 giáo dân, và năm 1940, nhà thờ Phú Cường kiên cố được hoàn thành Đến năm 1945, toàn tỉnh đã có 11 giáo xứ.

Sự du nhập và phát triển của Công giáo đã làm phong phú thêm đời sống tinh thần của cư dân, nhờ vào hệ thống giáo lý chặt chẽ, nhân văn và lòng yêu thương đồng loại Điều này đã giúp Công giáo nhanh chóng thu hút đông đảo tín đồ và để lại dấu ấn sâu sắc về tín ngưỡng tôn giáo tại Bình Dương, đặc biệt là tại Thủ Dầu Một.

Vào ngày 12 tháng 1 năm 1966, địa phận Phú Cường được thành lập dưới sự quản lý của giám mục Giuse Phạm Văn Thiên, bao gồm giáo dân từ 4 tỉnh: Bình Dương, Tây Ninh, Bình Long và Phước Long Địa phận này được chia thành 6 Hạt: Phú Cường, Lạc An, Tha La, Bình Long, Tây Ninh và Phước Thành.

Đạo Cao Đài, hay còn gọi là Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, ra đời năm 1926 tại Thủ Dầu Một và nhanh chóng phát triển rộng rãi, bao gồm nhiều giáo phái như Tòa Thánh Tây Ninh, phái Chơn Lý, phái Cao Đài Thống Nhất và phái Tiên Thiên Trong đó, phái Tòa Thánh Tây Ninh có số lượng tín đồ đông đảo nhất, thờ Thiên nhãn, với thánh thất nằm tại Ngã tư Phú Văn (Phú Cường) ven Quốc lộ 13, được xây dựng năm 1948 theo mô hình rút gọn của Tòa thánh Tây Ninh Phái Chơn Lý, thuộc Tòa Thánh Định Tường, được thành lập tại Thủ Dầu Một vào năm 1938 dưới sự quản lý của vị phối sư đầu tiên, Thượng Nhồng Thanh Phái Tiên Thiên có thánh thất Bồng Lai tại Lái Thiêu, theo đạo tiên, trong khi phái Cao Đài Thống Nhất có thánh thất nằm giữa xã Phú Long, Vĩnh Phú Đạo Cao Đài là một tôn giáo bản địa, kết hợp các yếu tố văn hóa Đông - Tây trong nghi lễ, đồng thời chịu ảnh hưởng từ nền văn hóa Pháp, trong đó có sự tôn thờ văn hào Victor Hugo.

“hỗn dung tôn giáo” của đạo Cao Đài đã được cư dân vùng đất “mở” Thủ Dầu Một đón nhận nhiệt tình” [91;266]

Đạo Tin Lành tại tỉnh Thủ Dầu Một chưa phát triển mạnh mẽ, với ngôi giáo đường đầu tiên được xây dựng đơn sơ tại ấp Chánh Nhì, xã Chánh Hiệp, bên phải Quốc lộ 13 Năm 1961, một giáo đường mới đã được thành lập tại ấp Bông Dâu, xã Phú Cường, nằm bên trái Quốc lộ 13.

13, sát cầu Bà Hên, thay thế ngôi giáo đường trước đã quá cũ kĩ

Các đoàn thể tôn giáo trong tỉnh đã đóng góp tích cực vào việc hỗ trợ chính quyền, nâng cao đời sống người dân và giúp xoa dịu nỗi đau do chiến tranh để lại.

Theo tài liệu Địa chí tỉnh Thủ Dầu Một năm 1910, để chăm sóc sức khỏe cho dân chúng, mỗi tuần có một y sĩ thăm khám sức khỏe cho toàn tỉnh, đồng thời phụ trách y tế tại trại giam Ông Yệm Tại Phú Cường, có một bệnh viện do một dì phước Pháp quản lý, phục vụ cho dân bản sứ, với sự hỗ trợ của hai dì phước (một Việt và một Pháp) cùng một nam y tá có khả năng tiêm chủng.

Công tác y tế dân vận tại tỉnh Bình Dương ngày càng phát triển, đặc biệt so với thời kỳ đầu thành lập tỉnh Thủ Dầu Một Chính quyền địa phương đã triển khai nhiều chính sách nhằm hỗ trợ người dân nông thôn trong việc khám chữa bệnh và cung cấp thuốc Các cơ sở y tế tại các ấp đã hợp tác với chính quyền xây dựng bệnh xá, chẩn y viện và trạm y tế Tuy nhiên, tình hình an ninh chính trị đã ảnh hưởng đến hoạt động của nhiều trạm y tế Các cơ sở y tế ở quận cũng đã hỗ trợ người dân ở những khu vực xa xôi, đặc biệt trong những trường hợp khẩn cấp Bệnh viện Phú Cường, thành lập năm 1908, là một trong những bệnh viện lớn nhất, đã đóng góp quan trọng vào công tác y tế của tỉnh.

Một số vấn đề lý luận về địa danh học

1.3.1 Khái niệm Địa danh là một bộ phận đặc biệt của từ vựng, có nguồn gốc và ý nghĩa riêng, nằm trong đối tƣợng của bộ môn từ vựng học Bên cạnh việc nhận biết, hiểu rõ những đặc điểm ngôn ngữ trong các phương thức cấu tạo của hàng loạt tên gọi, địa danh còn cung cấp nguồn tƣ liệu quý giá cho nhiều ngành khoa học khác nhƣ dân tộc học, địa lý học, lịch sử học, khảo cổ học, văn hóa học Vì vậy, công việc nghiên cứu địa danh có ý nghĩa và có giá trị rất lớn Giống nhƣ một

Nghiên cứu địa danh không chỉ giúp khắc họa bức tranh về sự ra đời và giao thoa của các tộc người, mà còn phản ánh sự biến đổi và phát triển của tiếng Việt Địa danh là đối tượng nghiên cứu của nhiều lĩnh vực khoa học như lịch sử, địa lý, dân tộc học, văn hóa học và ngôn ngữ học Theo A.V Superanskaja, địa danh học là ngành ngôn ngữ học chuyên nghiên cứu tên gọi địa lý, cấu tạo và ý nghĩa của chúng Lê Trung Hoa định nghĩa địa danh là những từ được dùng làm tên riêng cho các địa hình, đơn vị hành chính và công trình xây dựng Nguyễn Văn Âu tiếp cận địa danh từ góc độ địa lý - văn hóa, trong khi Nguyễn Kiên Trường cho rằng địa danh là tên riêng chỉ các đối tượng địa lý có vị trí xác định Mặc dù có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm địa danh, vấn đề này vẫn còn nhiều tranh cãi và chưa thống nhất trong giới nghiên cứu.

1.3.2 Đối tượng nghiên cứu của địa danh Địa danh học là một ngành của ngôn ngữ học, chuyên nghiên cứu ý nghĩa, nguồn gốc và những biến đổi của địa danh Bên cạnh đó, nghiên cứu địa danh học còn cần phải chỉ ra được các phương thức đặt địa danh và phân tích cách cấu tạo địa danh, phát hiện những nguyên nhân chi phối sự ra đời, hành chức và tiêu vong của địa danh Nhƣ vậy, đối tƣợng của địa danh học chính là địa danh Nhƣ đã trình bày ở trên, địa danh bao gồm các đối tƣợng tự nhiên và các đối tƣợng nhân tạo Địa danh học cũng nghiên cứu tên riêng nhƣng liên quan đến một vùng lãnh thổ nhất định và có tính bền vững Nhƣ đã nói ở trên, địa danh học chuyên nghiên cứu về nguồn gốc, ý nghĩa và những chuyển biến của địa danh; tức là lấy những từ, ngữ đƣợc dùng để đặt tên riêng của địa hình thiên nhiên, các đơn vị hành chính, các công trình xây dựng, các vùng lãnh thổ về không gian hai chiều làm đối tƣợng nghiên cứu

Năm 1976, Trần Thanh Tâm trong bài viết “Thử bàn về địa danh Việt Nam” đã phân chia địa danh Việt Nam thành sáu loại chính: thứ nhất, loại địa danh dựa trên địa hình và đặc điểm; thứ hai, loại địa danh theo vị trí không gian và thời gian; thứ ba, loại địa danh liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo và lịch sử; thứ tư, loại địa danh dựa trên hình thái, đất đai và khí hậu; thứ năm, loại địa danh theo đặc sản, nghề nghiệp và tổ chức kinh tế; và cuối cùng, loại địa danh dựa trên sinh hoạt xã hội.

Cuốn sách “Địa danh học Việt Nam” của Lê Trung Hoa phân loại địa danh dựa trên hai tiêu chí chính: tự nhiên và không tự nhiên, cùng với tiêu chí ngữ nguyên Theo đó, địa danh được chia thành các loại khác nhau dựa trên đối tượng mà chúng đại diện.

1 Địa danh chỉ các đối tƣợng tự nhiên (còn gọi là địa danh chỉ địa hình); 2 Địa danh chỉ các đối tƣợng nhân tạo gồm có ba loại: địa danh chỉ các công trình xây dựng thiên về không gian hai chiều, địa danh hành chính và địa danh vùng (không có ranh giới rõ ràng) Theo ngữ nguyên gồm có: 1 Địa danh thuần Việt;

2 Địa danh Hán Việt; 3 Địa danh bằng các ngôn ngữ dân tộc thiểu số (Chăm, Khmer, Ba Na, Ê Đê, Gia Rai, Tày, Thái, Mường…); 4 Địa danh ngoại ngữ (chủ yếu là địa danh gốc Pháp, ngoài ra còn có gốc Indonesia, Malaysia) [39;15-16] Nguyễn Văn Âu phân địa danh theo ba cấp: loại, kiểu và dạng Trong đó, có 2 loại (tự nhiên và kinh tế - xã hội), 7 kiểu (thủy danh, sơn danh, lâm danh, làng xã, huyện thị, tỉnh, thành phố và quốc gia) và 12 dạng (sông ngòi; hồ đầm; đồi núi; hải đảo; rừng rú; truông, trảng; làng, xã; huyện, quận; thị trấn; tỉnh; thành phố và quốc gia) [4;5-6]

Phân loại địa danh của Lê Trung Hoa và Nguyễn Kiên Trường có nhiều điểm hợp lý và tiêu chí rõ ràng, áp dụng cho mọi vùng Dựa trên hai tác giả này, chúng tôi phân loại địa danh Đồng Nai theo hai tiêu chí: theo đối tượng, chia thành hai nhóm chính là địa danh tự nhiên (địa hình) và địa danh nhân tạo Trong nhóm địa danh nhân tạo, chúng tôi tiếp tục phân chia thành ba loại nhỏ hơn: địa danh chỉ công trình xây dựng (không gian hai chiều), địa danh vùng (không có ranh giới rõ ràng) và địa danh hành chính (đơn vị hành chính).

1.3.3 Phương thức định danh Đi theo khuynh hướng của ngôn ngữ học, người ta nghiên cứu địa danh ở ba bình diện: bình diện nghiên cứu cấu tạo (tức là nghiên cứu địa danh ở mặt đồng đại); bình diện nghiên cứu “nghĩa” của địa danh, tức là mỗi địa danh cho chúng ta biết cái gì; và bình diện nghiên cứu nguồn gốc địa danh Cả ba bình diện nghiên cứu này tất yếu đều có liên quan đến phương thức định danh vì mỗi một địa danh đều được xác lập theo nguyên tắc đặt tên nhất định Phương thức định danh là phương pháp đặt tên cho đối tượng [50; ] Các nhà nghiên cứu địa danh cho rằng, địa danh mang trong mình hai thông tin: đối tƣợng đƣợc gọi tên thuộc loại hình địa lý nào (núi, sông, xã, huyện…) thể hiện qua ý nghĩa của danh từ chung, và nó có ý nghĩa nào đó (khả năng phản ánh hiện thực) thể hiện qua tên riêng Trong hai loại thông tin trên, mỗi loại đều có vai trò của riêng mình: thông tin đầu giúp con người nhận biết đối tượng một cách tổng quát, còn thông tin thứ hai nhằm xác định đối tƣợng cụ thể Định danh, về bản chất, là nhằm trả lời câu hỏi người ta dựa vào đâu và bằng cách nào để đặt tên cho đối tượng để mỗi địa danh ra đời ít nhiều đều có “tính lý do” của nó Thao tác định danh gồm: xác định những đặc tính chung để phân nhóm, tức là lựa chọn thành tố chung (danh từ chung) cho đối tƣợng (ví dụ: làng, thôn, cầu, bãi, khu du lịch…), và lựa chọn những nét riêng để xác lập thành tố riêng (tên riêng) cho đối tƣợng Với hai thao tác này, việc định danh phải lựa chọn từ ngữ nào, ký hiệu nào để làm phương tiện, xuất phát từ tính chất điển hình của đối tƣợng hoặc tâm thức chủ quan của chủ thể định danh

CHƯƠNG 2 NGUỒN GỐC TÊN GỌI THỦ DẦU MỘT - Ý NGHĨA PHẢN ÁNH

Đôi nét về cây Dầu

2.1.1 Tên và nguồn gốc cây Dầu

Cây Dầu, thuộc chi Dipterocarpus, là một loại lâm mộc phổ biến ở Đông Nam Á, đặc biệt là miền Nam Việt Nam Vùng đất Thủ Dầu Một nổi bật với việc trồng nhiều cây dầu, từng là trung tâm sản xuất và xuất khẩu gỗ lớn của Nam Bộ Từ Huế trở vào Nam, người ta thường gặp nhiều loại cây dầu khác nhau.

“- Dầu Song Nàng…….: Dipterrocarpus Dyerri

- Dầu Con Rái……… : Dipterrocarpus Alatus

- Dầu Trà Ben……… : Dipterrocarpus Obtusofolius

Cây dầu Con Rái, phổ biến tại Thủ Dầu Một, nổi bật với lõi màu đỏ nâu pha vàng và dác màu xám lợt Gỗ cắt ngang có chất dầu màu vàng lợt, bề mặt thô nhám và sớ gỗ thẳng, tạo nên đặc trưng riêng cho loại cây này.

Cây dầu trong rừng dày thường rất lớn, có thể cao tới 40m và đường kính lên đến 1.5m Thân cây thẳng, hình trụ đều và trơn, chỉ có một ít nhánh gần ngọn Dù mọc đơn lẻ hay thành cụm, lá cây lớn, cứng với gân to và vỏ màu xám hơi mỏng Khi còn nhỏ, tán cây có hình chóp đều và dày, nhưng khi trưởng thành, tán cây trở nên thưa và hình tròn, đến khi già chỉ còn vài nhánh tỏa ngang ở ngọn.

Các loại cây dầu mọc ở rừng thưa thường có kích thước nhỏ hơn so với cây dầu ở rừng dày, với thân cây ngắn và kém đều đặn Lá cây lớn, vỏ dày có màu xám đến nâu sậm và thường nứt nẻ giống như vỏ cây thông 2 lá Do thường xuyên bị cháy hàng năm trong môi trường rừng thưa, lớp vỏ của cây dầu có thể dày hơn, và tán cây cũng rậm rạp hơn so với cây ở rừng dày.

Dầu Rái phát triển tốt trong điều kiện đất ẩm sâu, thoát nước và có thành phần cơ giới từ thịt nhẹ đến sét trung bình, với độ pH từ 4,5 đến 5,5 Loài cây này ưa sáng mạnh, nhưng trong giai đoạn dưới một năm tuổi, cần được che bóng khoảng 50% Tái sinh hạt diễn ra mạnh mẽ ở độ tàn che từ 0,5 đến 0,6, nhưng giảm dần khi độ tàn che tăng lên 0,7 đến 0,8, đặc biệt là ở các cây tái sinh có chiều cao từ 1,5 đến 2,0 mét Tuy nhiên, khả năng tái sinh chồi của cây rất hiếm.

2.1.3 Phương pháp trồng cây Dầu

Trồng cây dầu bằng gốc (Stump) đòi hỏi phải lập vườn ươm, trong đó cây con cần được ươm ít nhất 1 năm trước khi trồng Trước khi trồng, cần cắt bớt lá và sén rễ con để cây dễ dàng phát triển và ra lá non Việc bổ sung một ít phân chuồng khi trồng sẽ giúp cây mọc nhanh và khỏe mạnh hơn Cây dầu thích hợp với đất thịt, đất đỏ, và đất sét pha cát, khoảng cách trồng lý tưởng là (3m x 3m) hoặc (4m x 4m) Người dân thôn quê thường trồng cây dầu xung quanh đình, chùa, miếu, và ven đường để tạo bóng mát và cung cấp gỗ.

Dưới thời Việt Nam Đệ II Cộng hòa, Nha Lâm vụ cảnh báo về sự khan hiếm cây dầu ở miền Đông Nam Bộ do khai thác quá mức, dẫn đến giá gỗ dầu tăng cao Người dân các xã, ấp được khuyến khích đến vườn ươm của các Hạt Lâm vụ để xin cây dầu trồng quanh nhà, bên đường, hoặc trên những đất hoang không canh tác được Hành động này không chỉ giúp bảo tồn nguồn gỗ cho tương lai mà còn mang lại lợi ích kinh tế cho gia đình và để lại di sản cho con cháu sau này.

2.1.4 Công dụng của cây Dầu

Nhiều người tiêu dùng gỗ dầu chưa hiểu rõ về các loại cây dầu, dẫn đến việc khó phân biệt gỗ phù hợp cho việc sản xuất đồ nội thất, trang trí, hay xây dựng Trong số các loại gỗ dầu, Dầu Long, Dầu Mít, Dầu Trà Ben, Dầu Sơn, Dầu Con Rái và Dầu Song Nàng được ưa chuộng, nhưng chỉ có Dầu Con Rái và Dầu Song Nàng được khai thác nhiều nhất Hai loại này có kích thước lớn, dễ chế biến và ít tỳ vết, nên thường được bày bán trên thị trường.

Dầu là một loại gỗ phổ biến tại Việt Nam, đặc biệt ở miền Nam, với Thủ Dầu Một là một trong những vùng trồng nhiều Loại dầu đặc trưng được trồng nhiều ở đây là Dầu Con Rái Ngoài những lợi ích khác, Dầu Con Rái còn sản xuất ra nhựa cây được gọi là “dầu rái” hay “dầu trong”, thường được sử dụng để trét nón và ghe.

Nguồn gốc tên gọi Thủ Dầu Một

2.2.1 Tên gọi Thủ Dầu Một qua ghi chép trong thư tịch cổ

Trong lịch sử, Thủ Dầu Một là một tên gọi khác của thủ phủ huyện Bình

Thôn Phú Lợi, nằm trong tổng Bình An, đã trở thành một trung tâm dân cư phát triển mạnh mẽ từ thời kỳ đầu khai mở vùng đất mới và được nhắc đến trong các tác phẩm của Trịnh Hoài Đức, Lê Quý Đôn và Quốc Sử quán Triều Nguyễn Đến cuối thế kỷ XVII, Phú Lợi là một trong những điểm tập trung dân cư đông đúc ven sông Tân Bình Nhận thấy tầm quan trọng của thôn Phú Lợi đối với sự phát triển của tổng Bình An và toàn vùng, chúa Nguyễn Phúc Chu đã quyết định chọn nơi này làm lỵ sở tổng Bình An Năm 1808, vua Gia Long nâng huyện Phước Long thành phủ và thôn Phú Lợi trở thành huyện lỵ Bình An, với công vụ giản dị và quy chế như huyện trước Trịnh Hoài Đức xác nhận rằng lỵ sở huyện Bình An được đặt tại thôn Phú Lợi, trước khi thuộc về thôn Phú Cường sau này.

Khảo sát của Quốc Sử quán Triều Nguyễn trong Đại Nam Nhất Thống chí đã ghi nhận danh xưng Dầu Một từ năm 1864, cụ thể là "Chợ Phú Cường" tại thôn Phú Cường, huyện Bình An Chợ này, thường được gọi là chợ Dầu Một, nằm cạnh huyện lỵ và có hoạt động buôn bán sôi nổi với xe thuyền tấp nập Tuy nhiên, tài liệu không đề cập đến tên gọi Thủ Dầu.

Chợ Thủ Dầu Một có thể là tên gọi phổ biến cho địa danh này, thể hiện sự kết hợp giữa các yếu tố thương mại và lịch sử Trong bài viết về Thủ Dầu Một, chúng ta khám phá các khía cạnh văn hóa và đặc trưng của vùng đất này, nơi gắn liền với tên tuổi của Võ Nguyên.

Phong và một số học giả cho rằng Thủ Dầu Một đã hình thành từ khi huyện Bình An được thành lập vào năm 1808 dưới triều vua Gia Long Mặc dù bộ Gia Định Thành Thông chí của Trịnh Hoài Đức, hoàn thành vào năm 1820, không đề cập đến Thủ Dầu Một, nhưng lại ghi nhận nhiều sự kiện liên quan đến huyện Bình An Đặc biệt, trong bối cảnh tranh chấp giữa hai đạo quân người Hoa vào khoảng năm 1775-1776, đồn Dầu Miệt (Dầu Một) đã được nhắc đến khi Lý Tài cử tướng đi rước Mục-vương về đây Điều này cho thấy địa danh Dầu Một đã tồn tại từ thời điểm này.

Một đã xuất hiện và khá phù hợp với các tƣ liệu khác về sau

Theo Ts Nguyễn Văn Giác, trước khi được gọi là Thủ Dầu Một, vùng đất trung tâm của tổng và huyện Bình An được biết đến với tên gọi Dầu Một, có niên đại vào khoảng giữa thế kỷ XVIII Tuy nhiên, Dầu Một chỉ là tên gọi thông thường, trong khi tên chính thức được ghi nhận là Băng Bột hoặc Băng Bọt.

Vào năm 1806, khu vực rạch Mụ Lụa được mô tả với chiều rộng 10 tầm và dài 2.400 tầm, hai bên bờ có ruộng vườn dân cư thưa thớt Tại bờ bắc, có vườn trầu cau và đến đồn đạo Băng Bột, còn gọi là chợ Thủ Dầu Một, nơi có quán xá đông đúc và chợ bán nhiều loại nông sản như khoai, đậu, mít, dưa, dứa Đồn này có nhiệm vụ canh gác và thu thuế từ dân cư, bao gồm cả thuế mã la và các sản phẩm thổ sản từ vùng đầu nguồn.

1806, địa danh Thủ Dầu Một đã xuất hiện và là tên gọi dân gian của đồn Băng Bột, tức thủ sở đạo Băng Bột 3

Vào năm 1863, đại úy Lucien de Grammont đã khảo sát và ghi chép về Thủ Dầu Một, trong đó ông giải thích lý do viết tên địa danh này là Fou-Yen-Môt thay vì Thu-Dau-Môt Ông đã chiết tự địa danh tiếng Việt với ý nghĩa: "Thủ - có nghĩa là canh giữ, bảo tồn; Dầu - dầu; Một - một".

Thủ Dầu Một, có thể hiểu là thủ sở nơi cây dầu một, được ghi chép lần đầu vào năm 1806 bởi Lê Quang Định Trước đó, vào năm 1828, bản đồ "Map of the Kingdoms of Siam and Cochin China" của John Walker đã chỉ ra địa danh Tho-Dieu-Moe, tương ứng với vị trí Thủ Dầu Một hiện nay, cho thấy tác giả có thể đã muốn thể hiện địa danh này.

Sau khi nghiên cứu các nguồn thư tịch cổ, địa danh Thủ Dầu Một không được nhắc đến, mà thay vào đó là những mô tả về vị trí của khu vực này Tục danh Dầu Một đã xuất hiện và tồn tại từ lâu trước khi tên gọi Thủ Dầu Một được sử dụng Về những ghi chép liên quan đến tên gọi Thủ Dầu Một trong các thư tịch cổ, Ts Nguyễn Văn Giác đã đề cập trong bài viết "Lịch sử địa danh".

Thủ Dầu Một là một vùng đất quan trọng, được ghi nhận trong tài liệu Hoàng Việt nhất thống dư địa chí (1806), là cuốn sách cổ nhất đề cập đến khu vực này với hai tên gọi: đồn Băng Bột/Băng Bọt và chợ/thủ Dầu Một Hơn mười năm sau, tài liệu Gia Định thành thông chí (1819) tiếp tục khẳng định vị trí của Thủ Dầu Một trong lịch sử.

Vào năm 1820, Băng Bọt/Băng Bột và Dầu Một được nhắc đến trong hai ngữ cảnh khác nhau, bao gồm chợ và đồn Đại Nam Nhất Thống chí, khoảng sau năm 1864, tiếp tục ghi nhận sự tồn tại của Dầu Một, khẳng định vị trí quan trọng của địa danh này trong lịch sử.

2.2.2 Tên gọi Thủ Dầu Một qua những kiến giải mới

Gần đây, địa danh Thủ Dầu Một đã thu hút sự chú ý đáng kể từ giới nghiên cứu, bên cạnh các tài liệu trong thư tịch cổ Nhiều công trình nghiên cứu đã được thực hiện để khám phá và phân tích về khu vực này.

Thủ Dầu Một, một trong những thủ sở đạo quan trọng thời Chúa Nguyễn, nằm dọc sông Sài Gòn ở thượng lưu, bao gồm thủ sở đạo Kiên Uy (Bến Súc) và thủ sở đạo Băng Bột (Thủ Dầu Một) Theo Trương Chi trong bài viết “Thủ Dầu Một - Bình Dương, tên đất tên làng”, nguồn gốc tên gọi Thủ Dầu Một xuất phát từ ngữ Campuchia Tuln Phombốt, có nghĩa là “đỉnh đồi cao nhất”, chỉ đỉnh đồi ven sông Sài Gòn Ông khẳng định đây là cách giải thích chính xác nhất, với thực tế tên gọi đã tồn tại trước năm 1623 khi vùng đất này thuộc về người Cao Miên Giả thuyết này không chỉ chính xác về ngôn ngữ mà còn phù hợp với lịch sử và địa lý của Bình Dương, được hỗ trợ bởi 187 địa danh khác của vùng Nam Bộ mà Trương Vĩnh Ký đã ghi nhận Năm 1965, sách địa phương chí tỉnh Bình Dương cũng ghi nhận ý kiến từ một số người Việt gốc Miên cho rằng Thủ Dầu Một từng được gọi là “Tuln Phom bốt” Một số tác giả như Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ trong “Việt Nam Tự điển” cũng đồng tình rằng tên Thủ Dầu Một có nguồn gốc từ tiếng Cao Miên “Thun Đoán Bôth”, nghĩa là “gò có đỉnh cao nhất”.

Tên "Thủ Dầu Một" có thể được hiểu là "Thun Đoán Bôth", nghĩa là "gò có đỉnh cao nhất", do tỉnh lỵ Thủ Dầu Một nằm ở vị trí cao nhất trong các đồi ven sông Sài Gòn Nhiều địa phương miền Nam mang tên gốc Miên, như Sóc Trăng hay Trà Vinh, nhưng sự ra đời của địa danh Thủ Dầu Một lại không hoàn toàn rõ ràng Tên gọi này được ghi bằng tiếng Campuchia, và việc phiên âm từ ngôn ngữ nước ngoài là hiện tượng phổ biến trong giao lưu văn hóa Do đó, cách đọc "Thun Đoán Bôth" của người Campuchia chỉ đơn giản là cách phát âm tên Thủ Dầu Một, không có nghĩa là nguồn gốc của tên này đến từ tiếng Campuchia.

Tên gọi Thủ Dầu Một hiện nay được lý giải là sự kết hợp giữa hai thành tố: “Thủ” có nghĩa là “giữ”, phản ánh vai trò của đồn binh canh gác tại đây, và “Dầu Một” được hình thành từ tên một loài thảo mộc kết hợp với từ chỉ số lượng Theo truyền thuyết, tên gọi này xuất phát từ đồn binh ở huyện lỵ Bình An, nằm trên ngọn đồi có cây dầu lớn, được gọi là “cây dầu một” Ngoài ra, cũng có cách lý giải khác tương tự, thể hiện rõ nét bản sắc văn hóa Việt Nam qua việc ghép từ “thủ” (đồn, trạm) với tên thực vật và số từ.

Ý nghĩa tên gọi Thủ Dầu Một

Tác giả trình bày cách lý giải riêng về tên gọi Thủ Dầu Một, cho rằng tên gọi này do lưu dân người Việt đặt ra Đáng chú ý, tên Dầu Một đã xuất hiện trước tên Thủ Dầu Một, với các địa danh như chợ Dầu Một và đồn Dầu Miệt Theo Đại Nam Nhất Thống chí, địa danh này được ghi chép với những thông tin cụ thể về chợ Phú.

Tên gọi Dầu Một có nguồn gốc từ cây Dầu, một loài cây đặc trưng của vùng đất này, và tên Thủ Dầu Một cũng bắt nguồn từ đó Nhiều tác giả cho rằng từ “Một” ám chỉ đến cây Dầu lớn nhất ở khu vực, nhưng theo quan điểm của tác giả, “Một” nên được hiểu là số 1, biểu thị cho sự khởi đầu, sự sinh sôi nảy nở và cuộc sống mới cho người dân nơi đây Từ “Thủ” trong tên Thủ Dầu Một có thể hiểu là đồn binh hoặc nơi “thủ sở,” gắn liền với việc xây dựng đồn trú của nhà Nguyễn, thường được gọi là đồn Phú Cường.

Theo tác giả, từ “Thủ” có nghĩa là đứng đầu, tượng trưng cho những người đầu tiên khai hoang lập ấp tại vùng đất này Khi kết hợp với từ “Dầu Một”, tên gọi Thủ Dầu Một thể hiện ý nghĩa của những người đi đầu trong quá trình khai phá và chinh phục vùng đất mới ở xứ cây Dầu.

Tên gọi Thủ Dầu Một không chỉ phản ánh trí tuệ, sự tài giỏi và tính kiên cường của những cư dân đầu tiên mà còn thể hiện khát vọng về một cuộc sống tốt đẹp, an bình và hạnh phúc Vùng đất này, với đặc điểm nhận dạng là nhiều cây Dầu, mang trong mình ý nghĩa của sự vượt khó và ý chí mạnh mẽ chinh phục thiên nhiên Niềm tin và khát vọng của những người "tha phương cầu thực" đã tạo nên một tên gọi đầy ý nghĩa, gắn liền với mong muốn xây dựng một tương lai phát triển Lịch sử xã hội đã chứng minh rằng Thủ Dầu Một là vùng đất giàu tài nguyên cây dầu, nơi khai thác và sản xuất tài nguyên phục vụ đời sống cư dân.

VÙNG ĐẤT THỦ DẦU MỘT QUA CÁC THỜI KÌ LỊCH SỬ66 3.1 Thủ Dầu Một trước khi người Việt đến khai phá

Ngày đăng: 04/01/2022, 19:21

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Nguyễn Thế Anh (1971), Kinh tế - xã hội Việt Nam dưới các vua triều Nguyễn, Nxb. Lửa Thiêng, Sài Gòn Sách, tạp chí
Tiêu đề: Kinh tế - xã hội Việt Nam dưới các vua triều Nguyễn
Tác giả: Nguyễn Thế Anh
Nhà XB: Nxb. Lửa Thiêng
Năm: 1971
2. Đào Duy Anh (2005), Hán Việt từ điển, Nxb. Văn hóa Thông tin Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hán Việt từ điển
Tác giả: Đào Duy Anh
Nhà XB: Nxb. Văn hóa Thông tin
Năm: 2005
3. Nguyễn Thị Kim Ánh (2005), Lịch sử - Văn Hóa vùng đất Bình Dương từ thế kỉ XVII đến thế kỉ XIX, Luận văn thạc sĩ Khoa học Lịch sử Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lịch sử - Văn Hóa vùng đất Bình Dương từ thế kỉ XVII đến thế kỉ XIX
Tác giả: Nguyễn Thị Kim Ánh
Năm: 2005
4. Nguyễn Văn Âu (1993), Một số vấn đề về địa danh học Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một số vấn đề về địa danh học Việt Nam
Tác giả: Nguyễn Văn Âu
Nhà XB: Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội
Năm: 1993
5. Ban Chấp hành Đảng Bộ tỉnh Bình Dương (2009), Lịch sử Đảng Bộ tỉnh Bình Dương, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lịch sử Đảng Bộ tỉnh Bình Dương
Tác giả: Ban Chấp hành Đảng Bộ tỉnh Bình Dương
Nhà XB: Nxb. Chính trị Quốc gia
Năm: 2009
6. Báo cáo hoạt động năm 1957 của Bình Dương, Hồ sơ số 121, Phông Đệ nhất Cộng hòa, Tài liệu lưu trữ tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II Sách, tạp chí
Tiêu đề: Báo cáo hoạt động năm 1957 của Bình Dương
7. Báo cáo hoạt động 1/9/1958 của Bình Dương, Hồ sơ số 188, Phông Đệ nhất Cộng hòa, Tài liệu lưu trữ tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, Thành phố Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Báo cáo hoạt động 1/9/1958 của Bình Dương
8. Báo cáo về tình hình hoạt động của quận Dầu Tiếng, tỉnh Thủ Dầu Một, Hồ sơ số 9971, Phông Đệ nhất Cộng hòa, Tài liệu lưu trữ tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, Thành phố Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Báo cáo về tình hình hoạt động của quận Dầu Tiếng, tỉnh Thủ Dầu Một
9. “Bình Dương một thế kỉ”, Tạp chí Xƣa và Nay, Tháng 11/1997 Sách, tạp chí
Tiêu đề: “Bình Dương một thế kỉ”
10. Lâm Châu Ngọc Bửu (1973), Vấn đề giáo dục Bình Dương, Luận văn tốt nghiệp Sách, tạp chí
Tiêu đề: Vấn đề giáo dục Bình Dương
Tác giả: Lâm Châu Ngọc Bửu
Năm: 1973
11. Nguyễn Đình Cơ (2020), Vùng đất Bình Dương buổi đầu khai phá từ thế kỉ XVII đến thế kỉ XIX, Hội Khoa học Lịch sử tỉnh Bình Dương Sách, tạp chí
Tiêu đề: Vùng đất Bình Dương buổi đầu khai phá từ thế kỉ XVII đến thế kỉ XIX
Tác giả: Nguyễn Đình Cơ
Năm: 2020
12. Công ty Nghiên cứu về Đông Dương, Địa chí tỉnh Thủ Dầu Một và tỉnh Bà Rịa vũng Tàu, Lê Tùng Hiếu và Nguyễn Văn Phúc dịch, Nxb. Đồng Nai Sách, tạp chí
Tiêu đề: Địa chí tỉnh Thủ Dầu Một và tỉnh Bà Rịa vũng Tàu
Nhà XB: Nxb. Đồng Nai
13. Công văn của Phủ Thủ tướng, Phủ Tổng ủy dinh điền về việc điều chỉnh tình trạng hành chính của tỉnh Bình Dương năm 1953, Hồ sơ số 1885, Phông Đệ nhất Cộng hòa, Tài liệu lưu trữ tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, Thành phố Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Công văn của Phủ Thủ tướng, Phủ Tổng ủy dinh điền về việc điều chỉnh tình trạng hành chính của tỉnh Bình Dương năm 1953
14. Công báo Việt Nam Cộng Hòa năm 1958, Hồ sơ số J.386, Phông Đệ nhất Cộng hòa, Tài liệu lưu trữ tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, Thành phố Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Công báo Việt Nam Cộng Hòa năm 1958
15. Công văn phúc trình về kinh tế tỉnh Thủ Dầu Một năm 1943, Hồ sơ số L4/58, Phông Đệ nhất Cộng hòa, Tài liệu lưu trữ tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, Thành phố Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Công văn phúc trình về kinh tế tỉnh Thủ Dầu Một năm 1943
16. Công văn về việc dời các quận lỵ của tỉnh Ba Xuyên, Bình Dương,… đến các trụ sở mới năm 1961, Hồ sơ số 20517, Phông Đệ nhất Cộng hòa, Tài liệu lưu trữ tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, Thành phố Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Công văn về việc dời các quận lỵ của tỉnh Ba Xuyên, Bình Dương,… đến các trụ sở mới năm 1961
17. Công văn về việc lập bảng kê tình hình các xã, thôn năm 1957 - 1958 tại Bình Dương, Hồ sơ số 5353, Phông Đệ nhất Cộng hòa, Tài liệu lưu trữ tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, Thành phố Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Công văn về việc lập bảng kê tình hình các xã, thôn năm 1957 - 1958 tại Bình Dương
18. Công văn về việc lập dinh điền ở Bến Cát năm 1958 - 1960, Hồ sơ số 13522, Phông Đệ nhất Cộng hòa, Tài liệu lưu trữ tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, Thành phố Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Công văn về việc lập dinh điền ở Bến Cát năm 1958 - 1960
20. Nguyễn Đình Đầu (1994), Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn - Biên Hòa, Nxb.Thành phố Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn - Biên Hòa
Tác giả: Nguyễn Đình Đầu
Nhà XB: Nxb.Thành phố Hồ Chí Minh
Năm: 1994
21. Đại Nam thực lục tập 2, Bản dịch, 2012, Nxb. Giáo dục, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đại Nam thực lục tập 2
Nhà XB: Nxb. Giáo dục

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Bảng 1.1. Bảng thống kê so sánh diện tích trồng lúa ở Thủ Dầu Một với các - Địa danh thủ dầu một  quá trình hình thành, ý nghĩa và các giá trị lịch sử (1900   1956)
Bảng 1.1. Bảng thống kê so sánh diện tích trồng lúa ở Thủ Dầu Một với các (Trang 21)
Bảng 1.2. Bảng thống kê nông sản (lúa gạo) năm 1956 của tỉnh Thủ Dầu Một - Địa danh thủ dầu một  quá trình hình thành, ý nghĩa và các giá trị lịch sử (1900   1956)
Bảng 1.2. Bảng thống kê nông sản (lúa gạo) năm 1956 của tỉnh Thủ Dầu Một (Trang 22)
Bảng 1.3. Bảng thống kê lâm sản (lâm sản kiểm soát) của tỉnh Thủ Dầu Một - Địa danh thủ dầu một  quá trình hình thành, ý nghĩa và các giá trị lịch sử (1900   1956)
Bảng 1.3. Bảng thống kê lâm sản (lâm sản kiểm soát) của tỉnh Thủ Dầu Một (Trang 24)
Bảng 1.5. Bảng thống kê dân số của tỉnh Thủ Dầu Một năm 1956 [93;5].  1.2.2. Phong tục - tín ngưỡng - tôn giáo - Địa danh thủ dầu một  quá trình hình thành, ý nghĩa và các giá trị lịch sử (1900   1956)
Bảng 1.5. Bảng thống kê dân số của tỉnh Thủ Dầu Một năm 1956 [93;5]. 1.2.2. Phong tục - tín ngưỡng - tôn giáo (Trang 30)
Bảng 2.1. Bảng thống kê số làng, thôn của hạt Thủ Dầu Một (1869 - 1876) - Địa danh thủ dầu một  quá trình hình thành, ý nghĩa và các giá trị lịch sử (1900   1956)
Bảng 2.1. Bảng thống kê số làng, thôn của hạt Thủ Dầu Một (1869 - 1876) (Trang 50)
Bảng 2.2. Bảng thống kê 10 chợ chi phối địa phận hạt Thủ Dầu Một - Địa danh thủ dầu một  quá trình hình thành, ý nghĩa và các giá trị lịch sử (1900   1956)
Bảng 2.2. Bảng thống kê 10 chợ chi phối địa phận hạt Thủ Dầu Một (Trang 55)
Hình  án  của  năm  trấn:  Phiên  An,  Biên  Hòa,  Vĩnh  Thanh,  Định  Tường  và  Hà  Tiên, đồng thời còn kiêm lãnh đạo từ xa thêm trấn Bình Thuận ở phía bắc - Địa danh thủ dầu một  quá trình hình thành, ý nghĩa và các giá trị lịch sử (1900   1956)
nh án của năm trấn: Phiên An, Biên Hòa, Vĩnh Thanh, Định Tường và Hà Tiên, đồng thời còn kiêm lãnh đạo từ xa thêm trấn Bình Thuận ở phía bắc (Trang 79)
Bảng 3.1. Bảng thống kê quy hoạch hành chính vùng Nam Bộ năm 1908 - Địa danh thủ dầu một  quá trình hình thành, ý nghĩa và các giá trị lịch sử (1900   1956)
Bảng 3.1. Bảng thống kê quy hoạch hành chính vùng Nam Bộ năm 1908 (Trang 80)
Bảng 3.2. Bảng thống kê diện tích ruộng đất phân bố ở tỉnh Biên Hòa - Địa danh thủ dầu một  quá trình hình thành, ý nghĩa và các giá trị lịch sử (1900   1956)
Bảng 3.2. Bảng thống kê diện tích ruộng đất phân bố ở tỉnh Biên Hòa (Trang 82)
Bảng 3.3. Bảng thống kê các tỉnh ở Nam kỳ theo nghị định ngày 1/1/1900 - Địa danh thủ dầu một  quá trình hình thành, ý nghĩa và các giá trị lịch sử (1900   1956)
Bảng 3.3. Bảng thống kê các tỉnh ở Nam kỳ theo nghị định ngày 1/1/1900 (Trang 85)
Bảng 3.4. Bảng Thống kê tổng quát về tỉnh Thủ Dầu Một năm giữa năm 1956 - Địa danh thủ dầu một  quá trình hình thành, ý nghĩa và các giá trị lịch sử (1900   1956)
Bảng 3.4. Bảng Thống kê tổng quát về tỉnh Thủ Dầu Một năm giữa năm 1956 (Trang 86)
Bảng 3.5. Bảng Thống kê danh sách các vị chỉ huy hành chánh tỉnh Thủ Dầu - Địa danh thủ dầu một  quá trình hình thành, ý nghĩa và các giá trị lịch sử (1900   1956)
Bảng 3.5. Bảng Thống kê danh sách các vị chỉ huy hành chánh tỉnh Thủ Dầu (Trang 87)
Bảng 3.6. Danh sách các đơn vị hành chính Nam Việt [63;2]. - Địa danh thủ dầu một  quá trình hình thành, ý nghĩa và các giá trị lịch sử (1900   1956)
Bảng 3.6. Danh sách các đơn vị hành chính Nam Việt [63;2] (Trang 89)
Hình 2. Chùa Bà (Pagode Chua-Ba) - Thủ Dầu Một - Đầu thế kỷ XX. (Nguồn: Kỷ yếu hội thảo khoa học “Tỉnh Thủ Dầu Một - 120 năm) - Địa danh thủ dầu một  quá trình hình thành, ý nghĩa và các giá trị lịch sử (1900   1956)
Hình 2. Chùa Bà (Pagode Chua-Ba) - Thủ Dầu Một - Đầu thế kỷ XX. (Nguồn: Kỷ yếu hội thảo khoa học “Tỉnh Thủ Dầu Một - 120 năm) (Trang 108)
Hình 1. Một phần bản đồ Map of the Kingdoms of Siam and Cochin China  năm 1828.  (Nguồn: Kỷ yếu hội thảo khoa học “Tỉnh Thủ Dầu Một - 120 năm) - Địa danh thủ dầu một  quá trình hình thành, ý nghĩa và các giá trị lịch sử (1900   1956)
Hình 1. Một phần bản đồ Map of the Kingdoms of Siam and Cochin China năm 1828. (Nguồn: Kỷ yếu hội thảo khoa học “Tỉnh Thủ Dầu Một - 120 năm) (Trang 108)

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w