1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Góp phần tìm hiểu quá trình hình thành, phát triển và giá trị di tích lịch sử chùa quỳnh lâm, huyện đông triều, tỉnh quảng ninh

79 48 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 79
Dung lượng 1,4 MB

Cấu trúc

  • A. MỞ ĐẦU (7)
    • 1. Lý do chọn đề tài (7)
    • 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề (8)
    • 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu (11)
    • 4. Nhiệm vụ nghiên cứu (11)
    • 5. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu (11)
    • 6. Đóng góp của khóa luận (12)
    • 7. Bố cục của khóa luận (12)
  • B. NỘI DUNG (13)
  • Chương 1. KHÁI QUÁT VỀ LỊCH SỬ - VĂN HÓA HUYỆN ĐÔNG TRIỀU (13)
    • 1.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên - địa lý kinh tế (13)
    • 1.2. Khái quát về điều kiện xã hội (15)
    • 1.3. Những giá trị văn hóa tiêu biểu (17)
  • Chương 2. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CHÙA QUỲNH LÂM (19)
    • 2.1. Vị trí địa lý chùa Quỳnh Lâm (19)
    • 2.2. Sự ra đời chùa Quỳnh Lâm (20)
      • 2.2.1. Nguồn gốc lịch sử chùa Quỳnh Lâm (20)
      • 2.2.2. Công trình tiêu biểu tại chùa Quỳnh Lâm (21)
    • 2.3. Sự phát triển của chùa Quỳnh Lâm trong lịch sử (23)
      • 2.3.1. Thời nhà Trần (23)
      • 2.3.2. Chùa Quỳnh Lâm từ thế kỷ XV đến đầu thế kỷ XVIII (31)
      • 2.3.3. Từ thế kỷ XIX cho đến nay (35)
    • 2.4. Một số nhận xét về chùa Quỳnh Lâm (36)
    • 3.1. Lễ hội chùa Quỳnh Lâm (39)
      • 3.1.1. Phần lễ (39)
      • 3.1.2. Phần hội (47)
    • 3.2. Giá trị lịch sử - văn hóa (52)
    • 3.3. Giá trị du lịch (55)
    • 3.4. Hiện trạng và một số kiến nghị về bảo tồn, phát triển di tích lịch sử văn hóa quốc gia chùa Quỳnh Lâm (57)
      • 3.4.1. Hiện trạng (57)
      • 3.4.2. Công tác bảo tồn (58)
      • 3.4.3. Một số đề xuất kiến nghị (61)
    • C. KẾT LUẬN (65)

Nội dung

NỘI DUNG

1.1 Khái quát về điều kiện tự nhiên - địa lý kinh tế

Đông Triều, một huyện thuộc tỉnh Quảng Ninh, có lịch sử lâu dài và là vùng đất giàu di sản văn hóa đặc sắc Nằm ở phía tây tỉnh, Đông Triều sở hữu cảnh đẹp thiên nhiên kỳ thú với rừng núi, đồi nương, sông ngòi và đồng lúa Vùng đất này được bao bọc bởi dãy núi Yên Tử cao 1.068m ở phía bắc, giáp huyện Sơn Động tỉnh Bắc Giang; phía tây tiếp giáp huyện Kinh Môn, Hải Dương và huyện Thủy Nguyên của Hải Phòng; và phía đông giáp thành phố Uông Bí Đông Triều còn nổi bật với tiềm năng lâm nghiệp và khoáng sản quý giá, không chỉ của Quảng Ninh mà còn của cả nước.

Tại phía tây nam huyện Đông Triều, ranh giới giáp Hải Dương được xác định bởi con sông Kinh Thầy và sông Đá Bạc Sông Đạm Thủy, trước đây gọi là sông Đạm Giang, bắt nguồn từ vùng núi An Sinh và chảy qua các địa điểm như Đạm Thủy, Vị Thủy và An Biên (làng Vẻn) Bên cạnh đó, sông Cần (nơi có cầu Cầm) chảy từ khu vực núi Yên Tử, đi qua các xã Tràng Lương, Bình Khê, Xuân Sơn và Hưng Đạo.

Đông Triều không chỉ nổi bật với các con sông tự nhiên mà còn sở hữu nhiều hồ nhân tạo quan trọng như hồ Bến Châu (xã Bình Khê), hồ Khe Chè và hồ Trại Lốc (xã An Sinh) Những hồ này đóng vai trò quan trọng trong việc tưới tiêu cho hơn 1.800ha ruộng trong huyện, góp phần nâng cao sản xuất nông nghiệp.

Núi non Đông Triều nổi bật với dãy núi vòng cung ở phía bắc huyện, kéo dài từ tây sang đông, trong đó có núi Yên Tử nổi tiếng Phía nam huyện là những dãy núi nhỏ, có độ cao giảm dần.

KHÁI QUÁT VỀ LỊCH SỬ - VĂN HÓA HUYỆN ĐÔNG TRIỀU

Khái quát về điều kiện tự nhiên - địa lý kinh tế

Đông Triều, một trong 10 huyện của tỉnh Quảng Ninh, sở hữu lịch sử lâu dài và phong cảnh kỳ thú, là vùng đất có giá trị văn hóa đặc sắc và tiềm năng lâm nghiệp, khoáng sản quý giá Nằm ở phía tây tỉnh Quảng Ninh, Đông Triều được bao bọc bởi dãy núi Yên Tử cao 1.068m ở phía bắc, giáp huyện Sơn Động, tỉnh Bắc Giang; phía tây giáp huyện Kinh Môn, Hải Dương và huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng; phía đông tiếp giáp với Thành phố Uông Bí Với sự kết hợp của rừng núi, đồi nương, sông ngòi và đồng lúa, Đông Triều là một điểm đến hấp dẫn không chỉ của Quảng Ninh mà còn của cả nước.

Phía tây nam huyện Đông Triều, ranh giới giáp Hải Dương được xác định bởi con sông Kinh Thầy và sông Đá Bạc Sông Đạm Thủy, trước đây gọi là sông Đạm Giang, chảy qua các vùng An Sinh, Đạm Thủy, Vị Thủy và An Biên (làng Vẻn) Bên cạnh đó, sông Cần, có cầu Cầm, bắt nguồn từ vùng núi Yên Tử và chảy qua các xã Tràng Lương, Bình Khê, Xuân Sơn và Hưng Đạo.

Đông Triều không chỉ nổi bật với các con sông tự nhiên mà còn sở hữu nhiều hồ nhân tạo quan trọng như hồ Bến Châu (xã Bình Khê), hồ Khe Chè và hồ Trại Lốc (xã An Sinh) Những hồ này đóng vai trò quan trọng trong việc tưới tiêu cho hơn 1.800ha ruộng trong huyện, góp phần thúc đẩy nông nghiệp địa phương.

Núi non Đông Triều nổi bật với vòng cung Đông Triều ở phía bắc huyện, kéo dài từ tây sang đông và bao gồm núi Yên Tử nổi tiếng Phía nam huyện là những dãy núi nhỏ hơn, cũng chạy dài từ tây sang đông, trong đó có núi Con Mèo, một thắng cảnh đẹp.

Khí hậu Đông Triều rất trong lành với nhiệt độ trung bình hàng năm đạt 23º4 Tháng lạnh nhất có nhiệt độ trung bình 16º6, trong khi tháng 6 nóng nhất đạt 28º4 Độ ẩm trung bình hàng năm là 81º và lượng mưa trung bình là 1.089 mm Khu vực này có khoảng 4,4 giờ nắng mỗi ngày và thỉnh thoảng xuất hiện sương mù vào cuối đông Đông Triều nằm cách thủ đô Hà Nội khoảng 84km và cũng cách thành phố Hạ Long một khoảng tương tự, đóng vai trò là hành lang phía tây của tỉnh Quảng Ninh Hệ thống giao thông tại Đông Triều đa dạng với các phương tiện đường bộ, đường sắt và đường thủy.

Đường bộ quốc lộ 18A kéo dài 28km từ Cầu Vàng đến Dốc Đỏ, kết nối Đông Triều với thành phố Bắc Ninh, Hà Nội, Hải Dương và Hải Phòng Ngoài tuyến quốc lộ, huyện còn có nhiều tuyến đường liên xã, liên thôn thuận tiện Về giao thông đường sắt, Đông Triều có 3 ga: Đông Triều, Mạo Khê và Yên Dưỡng Hệ thống đường thủy tại Đông Triều bao gồm sông Đá Bạc, sông Cầm, sông Đạm Thủy và sông Kinh Thầy, với chiều dài 36km trên sông Đá Bạc, 5km trên sông Kinh Thầy và 10km trên sông Cầm.

Đông Triều có tổng diện tích 397,2 km2, trong đó đất nông nghiệp chiếm 8.080 ha và đất canh tác là 7.500 ha, được xếp vào một trong ba huyện nông nghiệp quan trọng nhất tỉnh Tổng sản lượng lương thực đạt 41.000 tấn, tương đương 265 kg/người/năm, với năng suất lúa bình quân đạt 28,5 tạ/ha/vụ nhờ vào việc áp dụng khoa học kỹ thuật và đầu tư từ tỉnh và trung ương Hệ thống thủy lợi và thủy nông đã được hoàn thiện, với 80% diện tích đất canh tác được tưới tiêu chủ động Gần 80% số xã sử dụng điện từ lưới điện quốc gia Đông Triều còn nổi bật với lợi thế lâm nghiệp, có 12.700 ha rừng tự nhiên và 5.627 ha rừng trồng, cung cấp hàng vạn m3 gỗ mỗi năm Gần đây, huyện cũng phát triển trồng cây đặc sản như vải thiều và dâu nuôi tằm với kết quả khả quan.

Đông Triều sở hữu tiềm năng kinh tế mạnh mẽ nhờ vào nguồn khoáng sản phong phú, đặc biệt là than đá và đất cao lanh Mỏ than tại đây có trữ lượng lớn, đủ để khai thác trong nhiều năm tới, với loại than gầy giàu nhiệt lượng rất được ưa chuộng trên thị trường quốc tế Mỏ than Mạo Khê hiện sản xuất khoảng 500.000 tấn/năm với gần 5.000 thợ mỏ Ngoài ra, Đông Triều còn nổi tiếng với ngành sản xuất gốm sứ, cung cấp nguyên liệu cho cả nước và xuất khẩu ra nhiều thị trường quốc tế Ngành gốm sứ tại Đông Triều, với truyền thống lâu đời, đã khẳng định được vị thế của mình và từng xuất khẩu từ 13-14 triệu sản phẩm sang một số nước Đông Âu Trong bối cảnh cơ chế thị trường, ngành gốm sứ Đông Triều đã có cơ hội mở rộng thị trường tiêu thụ cả trong và ngoài nước, đặc biệt là các sản phẩm gốm sứ nặng lửa (1350ºC) đang có nhiều triển vọng phát triển.

Khái quát về điều kiện xã hội

Đông Triều, thuộc tỉnh Quảng Ninh, là một khu vực đông dân với diện tích 397,2 km² và dân số 163.984 người (năm 2011), tỷ lệ tăng dân số hàng năm khoảng 1,78% Mật độ dân số đạt 331 người/km², trong đó 28% sống ở đô thị và 72% ở nông thôn Thị trấn Mạo Khê là nơi có số dân đông nhất với 36.000 người, chủ yếu là công nhân mỏ Đông Triều có sự đa dạng về dân tộc, với 97% dân số là người Kinh và 7 dân tộc thiểu số khác, trong đó người Tày là đông nhất, tập trung chủ yếu tại hai xã miền núi Bình Khê và Tràng Lương.

Đông Triều có hai tôn giáo chính là Phật giáo và Thiên Chúa giáo, với khoảng 5% dân số theo đạo Thiên Chúa Toàn huyện có hai xứ đạo lớn là Đông Khê và Mạo Khê, bao gồm hai nhà thờ lớn và 14 họ lẻ Trong đó, Mạo Khê có 6 họ và 2 nhà thờ xứ.

Huyện Đông Triều hiện có 1.324 gia đình và hơn 5.600 người theo đạo Phật, với số lượng tín đồ ngày càng đông đảo Vào các ngày rằm và mồng một âm lịch hàng tháng, nhiều tín đồ từ khắp nơi đến các ngôi chùa để dâng hương và cầu nguyện Toàn huyện có hơn 30 ngôi chùa, trong đó chùa Quỳnh Lâm ở xã Tràng An nổi tiếng nhất Ngoài ra, chùa Phúc Lâm ở thị trấn Đông Triều và chùa Nhuệ cũng là những địa điểm đáng chú ý.

Hổ (xã Kim Sơn), chùa Tế (thị trấn Mạo Khê), chùa Hoa Hiên ở Trạo Hà và nhiều đền, miếu, đình làng nằm rải rác khắp huyện

Sau quá trình phấn đấu không ngừng, đời sống người dân Đông Triều đã có sự cải thiện rõ rệt, với 93% hộ nông dân đủ ăn trong các kỳ giáp hạt Một bộ phận nông dân đã trở nên khá giả và tích lũy được vốn kinh doanh Đến nay, 98% nhà ở đã được lợp ngói, và 86% hộ gia đình đã nâng cấp đồ dùng tiện nghi, bao gồm cả những sản phẩm cao cấp như xe máy, tivi và tủ lạnh Đông Triều hiện chiếm 13,2% tổng số xe máy, 32,4% số đầu máy kéo, 0,7% số tàu thuyền gắn máy và 12,4% số ô tô trong toàn tỉnh Quảng Ninh.

Chất lượng giáo dục và đào tạo đã được nâng cao thông qua việc ban hành nghị quyết của Ban Thường vụ Huyện ủy về xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia giai đoạn 2011 - 2015 Xã hội hóa giáo dục được đẩy mạnh, cùng với việc phát huy nguồn lực đầu tư, đã giúp 42 trường đạt chuẩn quốc gia, chiếm 47,7% tổng số trường, trong đó có 3 trường đạt chuẩn mức độ 2 Đồng thời, việc duy trì phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi và phổ cập trung học cơ sở cũng được thực hiện hiệu quả Quy mô giáo dục không ngừng được củng cố và nâng cao, với tỷ lệ học sinh tốt nghiệp các cấp đạt khá; tỷ lệ tốt nghiệp lớp 9 đạt 97,7% và tốt nghiệp THPT đạt 96,43%.

Theo số liệu năm 1992, nhân dân Đông Triều đã tự xây dựng trung tâm văn hóa, rạp hát và chiếu bang, với một số rạp hiện đại Đông Triều còn có đài phát thanh với hơn 80 trạm cơ sở, đáp ứng nhu cầu thông tin đại chúng Huyện có 2 bệnh viện với gần 300 giường bệnh, 2 phòng khám khu vực, 30 trạm y tế cơ sở và 2 trung tâm phục vụ kế hoạch hóa gia đình, cho thấy ngành y tế đã tương đối thỏa mãn nhu cầu bảo vệ sức khỏe và chữa bệnh cho người dân.

Những giá trị văn hóa tiêu biểu

Đông Triều là một điểm đến du lịch nổi bật với nhiều di tích lịch sử và danh thắng nổi tiếng Nơi đây có chùa Quỳnh Lâm, được công nhận là di tích lịch sử quốc gia, cùng với chùa Hồ Thiên, cách Đông Triều 20 km, mang dấu tích từ thời Lý Chùa Ngọa Vân, tọa lạc trên đèo Voi, là nơi vua Trần Nhân Tông từng tu hành Đền thờ An Sinh vương Trần Liễu, cha của Trần Quốc Tuấn, cũng nằm ở An Sinh, đi kèm với câu chuyện lịch sử tự hào về gia tộc Trần Hưng Đạo và triều đại nhà Trần.

Tại thôn Đức Sơn, thuộc xã Yên Đức ngày nay, có một khu đồi thấp với cảnh quan tuyệt đẹp, được người dân truyền tụng là khu vườn của quan lại và hoàng tộc nhà Trần vào thế kỷ XIII, được gọi là Thượng Uyển.

Chùa Bắc Mã, nằm trong căn cứ địa Chiến khu Đông Triều, là biểu tượng cho truyền thống lịch sử lâu đời và cách mạng mới mẻ Nơi đây có ngôi mộ chung của 73 liệt sĩ du kích, ghi dấu ấn của một cuộc chống càn Cách thị trấn Đông Triều 15km, Yên Đức là một xã nhỏ với khoảng 4.000 dân, nổi bật với phong cảnh hữu tình, đặc biệt là núi Con Mèo và bến sông tại ngã ba sông Kinh Thày, nơi giáp ranh ba huyện của ba tỉnh: Đông Triều (Quảng Ninh), Thủy Nguyên (Hải Phòng) và Kinh Môn (Hải Dương) Với núi non hùng vĩ, dòng sông uốn lượn và thuyền bè tấp nập, cảnh sắc nơi đây đẹp như tranh vẽ, trên vách núi còn khắc nhiều bài thơ của các danh sĩ ca ngợi vẻ đẹp này.

Đông Triều, với bề dày lịch sử hàng ngàn năm, là nơi nhân dân kiên cường chống chọi với thiên nhiên và các thế lực xâm lược, tạo ra nhiều giá trị văn hóa và lịch sử to lớn Đây là vùng đất thiêng liêng, nơi phát tích của dòng họ Trần, với những con người đã đóng góp vào lịch sử dân tộc Mặc dù địa hình khó khăn, Đông Triều vẫn nổi bật với truyền thống văn hóa phong phú, thể hiện qua các di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh và tín ngưỡng dân gian Hiện nay, chính quyền địa phương đang tập trung phát triển kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng và nâng cao chất lượng giáo dục, đồng thời bảo tồn và phát triển các giá trị văn hóa truyền thống Những điều kiện tự nhiên và giá trị văn hóa phong phú đã tạo nền tảng cho sự hình thành và phát triển của trung tâm Phật giáo, điển hình là chùa Quỳnh Lâm, mà chúng ta sẽ khám phá ở chương sau.

QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CHÙA QUỲNH LÂM

Vị trí địa lý chùa Quỳnh Lâm

Chùa Quỳnh Lâm, một trong những công trình kiến trúc cổ xưa, có lịch sử xây dựng và tu sửa phong phú, từng thuộc xã Hà Lôi, phủ Kinh Môn, tỉnh Hải Dương Đây là một trung tâm Phật giáo nổi tiếng tại xứ Đông.

Chùa Quỳnh Lâm, giống như nhiều ngôi chùa lớn khác, được xây dựng trên một địa điểm có môi trường thẩm mỹ tuyệt đẹp Ngôi chùa nằm trên một ngọn đồi cao thoai thoải, được các thư tịch cổ gọi là núi Tiên.

Chùa Quỳnh Lâm tọa lạc trong hệ thống triền đồi từ Yên Tử đến đồng bằng, với cây cối um tùm và rừng thông xanh tươi, tạo nên một không gian tĩnh mịch, thanh bạch và cổ kính Địa thế cao của chùa giúp công trình Phật giáo này tách biệt khỏi sự ồn ào của xóm làng, mang lại cho khách hành hương cảm giác thiêng liêng và tâm linh Nhờ vị trí đẹp, những tháp cao và tiếng chuông khánh của chùa vang xa hơn, thể hiện ý đồ của những người xây dựng nhằm chinh phục không gian rộng lớn của vùng đất Tràng An cổ kính.

Chùa Quỳnh Lâm được xây dựng tại vị trí thuận lợi cho cả giao thông đường bộ và đường thủy, giúp việc vận chuyển nguyên liệu xây dựng dễ dàng và tạo điều kiện thuận tiện cho khách hành hương Dân gian còn lưu truyền câu thơ thể hiện sự kết nối này.

“Nức tiếng Quỳnh Lâm cõi xứ Đông

Ai đi không ngừng lại, ngắm nhìn tháp cao chín tầng mây phủ Chùa rộng với hàng trăm gian, gác ngựa lồng Trước điện, tiếng thông reo hòa cùng âm thanh trúc Trong am, khánh đá vang vọng cùng tiếng chuông chùa.

Chùa Quỳnh Lâm tọa lạc trong khung cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp, lưng tựa núi và hướng ra hồ Quỳnh Bốn gò đất xung quanh được cho là bốn mắt rồng, tạo nên một không gian tâm linh sâu sắc Với rừng thông xanh rì rào suốt bốn mùa, nơi đây mang lại cảm giác tĩnh lặng và thiền định Tiến sĩ Nguyễn Thực, trong chuyến thăm Quỳnh Lâm vào thế kỷ XVIII, đã nhận xét rằng khu vực này có vị trí đắc địa, với đường xe ngựa và bến sông lớn, nơi thuyền bè tụ tập, tạo nên khung cảnh sống động Ông tin rằng đây từng là nơi lý tưởng để xây dựng những công trình nguy nga, thu hút sự cầu nguyện và linh ứng từ nhân dân.

Sự ra đời chùa Quỳnh Lâm

2.2.1 Nguồn gốc lịch sử chùa Quỳnh Lâm

Chùa được xây dựng dưới triều Lý Thần Tông, với sự đóng góp quan trọng của quốc sư Nguyễn Minh Không trong việc hình thành và phát triển công trình Phật giáo này, theo các tài liệu thư tịch và bia chùa.

Lý Quốc Sư (15 tháng 10 năm 1065 - 1141) là danh hiệu cao nhất của thiền sư Nguyễn Minh Không, một cao tăng nổi bật trong triều đại Lý của Việt Nam Ông được tôn kính vì những công lao to lớn trong việc chữa bệnh cho vua và nhân dân, bên cạnh Trần Hưng Đạo, trở thành những nhân vật lịch sử được người Kinh tôn thờ như đức thánh Nguyễn và đức thánh Trần Trong dân gian, Nguyễn Minh Không còn được xem như một vị thánh trong tứ bất tử và là tổ nghề đúc đồng.

Lý Quốc Sư Nguyễn Minh Không, tên thật là Nguyễn Chí Thành, sinh ra tại xã Đàm Xa, phủ Tràng An (nay là làng Điền Xá, xã Gia Thắng, Gia Viễn, Ninh Bình) Cha của ông, Nguyễn Sùng, quê ở thôn Điền Xá, và mẹ là Dương Thị Mỹ, quê ở Phả Lại, phủ Từ Sơn (Bắc Ninh) Dù gia cảnh nghèo khó, ông bà Nguyễn Sùng luôn chăm lo làm việc thiện và sinh hạ một người con trai khôi ngô, tuấn tú, đặt tên là Nguyễn Chí Thành.

Nguyễn Chí Thành, một cậu bé mồ côi, đã phải tự lập từ nhỏ bằng việc mò cua, bắt cá để sinh sống Sau khi lớn lên, anh sang Tây Trúc học đạo và kết nghĩa với hai vị chân sư nổi tiếng là Từ Đạo Hạnh và Giác Hải Khi đạt được đạo hạnh, Nguyễn Chí Thành trở về quê hương và xây dựng chùa Viên Quang, sau đó tiếp tục lập nhiều ngôi chùa khác tại Phả Lại (Bắc Ninh), Giao Thủy (Nam Định), Vũ Thư (Thái Bình) với hiệu Minh Không Trong suốt cuộc đời, ông đã xây dựng tổng cộng 500 ngôi chùa trên đất Đại Việt.

Nguyễn Minh Không, một nhà sư tài năng, nổi tiếng với khả năng chữa bệnh "hóa hổ" cho vua Lý Thần Tông, đã được phong là Quốc Sư và nhận được sự ưu ái từ nhà vua với nhà ở và miễn thuế Sau khi ông qua đời, nhiều đền chùa đã được xây dựng để thờ phụng ông Đại Việt sử ký toàn thư ghi nhận những đóng góp và tôn vinh ông trong lịch sử.

Quốc Sư Nguyễn Minh Không được biết đến với sự linh ứng trong việc cầu đảo, đặc biệt trong những thời điểm tai ương, hạn hán Ông được tôn vinh là tổ sư của nghề đúc đồng tại các làng nghề, và là nhân vật quan trọng trong việc tạo ra "Tứ đại khí" nổi tiếng của Việt Nam thời Lý, bao gồm Tháp Báo Thiên, Chuông Quy Điền, tượng Phật chùa Quỳnh Lâm và Vạc Phổ Minh.

2.2.2 Công trình tiêu biểu tại chùa Quỳnh Lâm

Trong đó tượng phật chùa Quỳnh Lâm là pho tượng bằng đồng hun cao

6 trượng, các nhà kiến trúc phải là một tòa điện cao 7 trượng để chứa tượng

Tượng lớn trên đồi Đông Triều, từng được người xưa nhắc đến, đã mất từ lâu, có thể do chiến tranh chống Nguyên Mông dưới triều Trần Mặc dù không còn tồn tại, tượng cùng với “Tứ đại khí” khác phản ánh trình độ đúc đồng cao và thể hiện những hoài bão lớn lao trong việc xây dựng nghệ thuật của cha ông thời đó.

Tấm bia đá lớn còn lại duy nhất từ thời Lý tại chùa hiện nay được dựng ở cổng ra vào, mặc dù nhiều chữ đã bị mòn và bị xóa để khắc lại bởi những người trùng tu vào thế kỷ XVII Tuy nhiên, chất Lý của tấm bia vẫn được nhận diện qua hình dáng và hoa văn trang trí còn sót lại Với kích thước cao 2,4m, rộng 1,56m và dày 0,27m, tấm bia có hình dáng trán dẹt, một đặc điểm nổi bật giúp phân biệt với các tấm bia sau này Hình dáng và kích thước của nó gần giống với tấm bia Lý ở chùa Long Dọi (Hà Nam Ninh).

Trang trí của bia vẫn giữ nguyên nhiều hoa văn cổ, mặc dù một số mảng đã bị mòn và được thay thế bằng hoa văn mới Những hoa văn hình rồng nhỏ, thân mảnh và uốn lượn mềm mại, cùng với những đôi rồng lớn chầu viên ngọc quý, tạo nên sự liên kết hài hòa trong thiết kế Các hình rồng này có cấu trúc tương tự như trên các kiến trúc đá thời Lý khác, như chùa Phật Tích và chùa Dạm Dù trải qua thời gian, những hình rồng vẫn mang đến ấn tượng về vẻ đẹp cổ xưa với đường nét tinh xảo và bố cục đơn giản nhưng đối xứng Những khối tròn căng mập, chuyển tiếp cuồn cuộn, tạo nên sự sống động cho bức chạm, khiến người xem cảm nhận được sự tinh tế của nghệ thuật cổ truyền.

“cờ đuôi nheo đang reo trước gió” Đây là những di vật quý nó giúp chúng ta hiểu thêm về trình độ thẩm mỹ rất cao của cha ông.

Sự phát triển của chùa Quỳnh Lâm trong lịch sử

Dưới triều đại nhà Trần, chùa Quỳnh Lâm trở thành một trung tâm Phật giáo quan trọng nhờ vị trí chiến lược nối liền với trung tâm Phật giáo Yên Tử và các chùa khác trong đồng bằng Nơi đây đã tổ chức nhiều lễ hội lớn mang tính quốc gia, tiêu biểu là lễ hội “thiên phật” vào năm 1325, kéo dài suốt 7 ngày 7 đêm Nhiều nhân vật quan trọng như Trần Nhân Tông, Huyền Quang và Pháp Loa đã lui tới chùa, trong đó Pháp Loa đóng góp lớn trong việc tu tạo và mở mang chùa.

Theo “Tam tổ thực lục”, Pháp Loa sinh vào giờ Mão ngày 17 tháng 5 năm Giáp Thân (1284) tại thôn Đồng Hòa, hương Cửu La bên sông Nam Sách Cha ông họ Đồng, pháp danh Thuần Mậu, và mẹ ông họ Vũ, hiệu Từ Cứu, đã sinh liên tiếp 8 người con gái trước khi ông ra đời Vào tháng 8 năm Quý Mùi (1283), mẹ ông mơ thấy dị nhân trao kiếm thần và sau khi tỉnh dậy, bà biết mình có thai Dù đã dùng thuốc để phá thai do chán nản với việc sinh con gái, nhưng thai vẫn không mất Khi ông ra đời, mùi hương lạ lan tỏa khắp nhà, khiến bà vô cùng mừng rỡ và đặt tên ông là Kiên Cương Ngay từ nhỏ, ông đã có thiên tư dĩnh ngộ, không nói lời ác, không ăn thức ăn cay nồng hay thịt cá.

Năm 1304, khi 21 tuổi, Nhân Tông Điều ngự đi khắp nơi khuyên chúng sinh từ bỏ dân gian, bố thí pháp dược để chữa bệnh cho người nghèo và tìm người nối dòng Pháp Trong một lần đi chơi, ngài cảm thấy tâm thần phiền muộn và đã quay về, đúng lúc gặp Điều Ngự đến thôn mình Ngài đã đảnh lễ và xin xuất gia Điều Ngự nhìn thấy ngài và nhận định: “Đứa bé này có đạo nhãn, sau này hẳn là bậc pháp khí.” Vui mừng trước sự tự nguyện xin xuất gia của ngài, Điều Ngự đã tiếp nhận và đặt tên cho ngài.

Thiên Lai nhận được mạn y từ Điều Ngự thế pháp và được chỉ dẫn đến Quynh quán học đạo với Hòa thượng Tịnh Giác, nơi sư thệ nguyện tu tập theo 12 hạnh đầu đà.

Năm 1305, trong năm Ất Tỵ, Điều Ngự Trần Nhân Tông đã truyền giới Thanh văn và Bồ tát cho sư tại liêu Kỳ Lân Nhờ sự ham học và thành tài, sư được ban hiệu là Pháp Loa Cùng năm đó, Huyền Quang cũng xuất gia tại chùa Lễ Vĩnh và sau đó thọ giới với Bảo Phác.

Năm Bính Ngọ (1306) Điều Ngự cử sư làm chủ giảng tại chùa Báo Ân (Siêu Loại)

Năm Đinh Mùi (1306), sư 24 tuổi Điều Ngự đã giảng Đại tuệ ngữ lục cho các học trò Đến tháng 5 năm Đinh Mùi (1307), tại am Ngọa Vân, Điều Ngự yêu cầu các môn đệ lui ra ngoài và đã trao y bát cùng tâm kệ, nhấn mạnh việc phải giữ gìn cẩn thận.

Ngày 1 tháng Giêng năm Mậu Thân (1308) sư phụng mệnh nối dòng phs trụ trì cam lộ đường chùa Siêu Loại Điều Ngự trao pháp y cho sư rồi đem chùa Siêu Loại của sơn môn Yên Tử giao cho sư bảo phải kế thế trụ trì làm

Tổ thứ hai của thiền phái Trúc Lâm đã trao tặng 100 hộp Kinh sử ngoại điển và 20 hộp đại tạng cỡ nhỏ viết bằng máu cho sư, nhằm mở mang tri thức về học nội và ngoại điển.

Vào năm đó, vua Trần Nhân Tông đã ban cấp độ điệp cho sư, cho phép ngài tự do theo tăng chúng mà không bị ràng buộc bởi các quy định thông thường Điều này xuất phát từ việc sư là người nối dòng pháp chính thống, khác biệt hoàn toàn so với những tăng chúng khác.

Giờ Tý ngày 3 tháng 11 năm 1308 Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông viên tịch tại am Ngọa Vân

Bảo Sái đã thực hiện nghi lễ hỏa thiêu Điều Ngự tại am Ngọa Vân Sau bốn ngày, Pháp Loa từ kinh đô trở về, mang theo nước thơm để rưới lên hỏa đàn Sau khi hoàn thành lễ, ông thu được 5 mẫu xá lợi lớn, khoảng 500 viên, cùng nhiều viên nhỏ bằng hạt lúa và hạt cải.

Sư cùng Trần Anh Tông rước xá lợi về trí tôn ở Đại Nội

Ngày 14 tháng 7 năm Kỷ Dậu (1309) su tiếp Huyền Quang và bảo:

“Ngươi quên những lời di choc của Điều Ngự rồi sao? ” Từ ấy Huyền Quang theo sư tham học không rời nửa bước

Sau khi hoàn tất tang lễ tổ thứ nhất vào năm 1311, Pháp Loa đã chủ trì việc in Kinh Đại tạng Đến tháng 9 năm 1313, sư phụng chiếu đã đến chùa Vĩnh Nghiêm ở Lạng Giang (nay là Yên Dũng, Bắc Giang) để quy định các chức vụ tăng sĩ trên toàn quốc và bổ nhiệm hơn 100 ngôi già lam Từ đó, các chư tăng trong nước đã có sổ bộ quản lý, và sư đã trông coi hơn 10 người, với kế hoạch độ tăng định kỳ ba năm một lần, không dưới 100 người.

Tháng 2 năm 1317 sư bị bệnh nặng

Tháng 12 năm 1317 sư sáng lập Viện Quỳnh Lâm để đào tạo các nhà sư Tháng 8 năm 1318 Thượng hoàng Trần Anh Tông đặc phong sư hiệu là Phổ Tuệ Tôn Giả, tự xưng là đệ tử của sư

Tháng 12 năm Kỷ Mùi (1319) sư kêu gọi tăng chúng và cư sĩ chích máu in kinh Đại Tạng hơn 5000 quyển để tại viện Quỳnh Lâm Trần Anh Tông chích máu qua đời, sư đều có mặt khi đưa thi thể của Anh Tông vào Kim Quan và khi hạ huyệt

Ngày 16 tháng 3 năm Canh Thân (1320) Thượng Hoàng Trần Anh Tông qua đời, Sư đều có mặt khi đưa thi thể của Anh Tông vào Kim Quan và khi hạ huyệt

Ngày 16 tháng 3 năm 1322 Trần Minh Tông ban thêm cho sư hiệu Minh Giác Sư tạo lập các am Hồ Thiên, Chân Lạc; muốn đúc 1000 pho tượng Phật

Tháng 9 năm 1323 giảng hội thứ 5 kinh Hoa Nghiêm tại Quỳnh Lâm Bảo Từ Hoàng Thái Hậu tới dự

Tháng 12 năm 1324 khởi tạo mô hình tượng Di Lặc cao 1 trượng 6 Tháng 3 năm 1325 giảng hội thứ 9 kinh Hoa Nghiêm tại chùa Quỳnh Lâm, thiết lễ Thiên Phật Hội 7 ngày 7 đêm, xây 2 ngôi tháp bằng gạch và đá tại chùa Quỳnh Lâm

Ngày 7 tháng 3 năm Đinh Mão (1327) sư đúc Đại tượng Di Lặc và Thánh tăng tại chùa Quỳnh Lâm

Tháng 3 năm Mậu thìn (1328) sư về chùa Quỳnh Lâm tập hợp chư tăng

Một số nhận xét về chùa Quỳnh Lâm

Chùa Quỳnh Lâm, một tổ chức của phật phái Trúc Lâm, đã trở thành biểu tượng trong tâm trí người dân Việt Ngôi chùa không chỉ là nơi thờ phụng mà còn là mảnh tâm hồn của phật tử khắp nơi Dù trải qua những thử thách như chiến tranh và hỏa hoạn, chùa vẫn được phục dựng, giữ vững dòng thiền trong tâm linh người dân.

Chùa Quỳnh, một di sản kiến trúc quan trọng thời Lý, không chỉ phản ánh sự phát triển của dân tộc mà còn là minh chứng cho lịch sử ngàn năm Kiến trúc chùa Lý chủ yếu tập trung ở miền đồng bằng sông Hồng và một phần xứ Thanh, với các di tích còn lại chủ yếu quanh Bắc Ninh, Hà Nội, ven sông Đáy, Hải Phòng và Ninh Bình Chùa Quỳnh đóng vai trò kết nối giữa chùa Giạm và chùa Tường Long, tạo thành một liên kết chiến lược từ cửa biển vào đồng bằng và miền cao.

Chùa Quỳnh không chỉ là biểu tượng của một Phật phái mà còn phản ánh tầm nhìn chính trị sâu sắc trong lịch sử Con đường từ Bắc Ninh qua Phả Lại, Chí Linh, Đông Triều đến Uông Bí và Quảng Yên là huyết mạch của đất Việt, để lại nhiều dấu tích thời Trần như Kiếp Bạc, Côn Sơn, Thanh Mai, và Ngọa Vân Mặc dù chưa thể xác định chính xác địa điểm nào quan trọng nhất, Quỳnh Lâm vẫn được xem là trung tâm của Phật phái Trúc Lam, với nhiều ngôi chùa kiêm hành cung thời Lý Trong khi các chùa khác ít được triều đình chú ý dưới thời Trần, chùa Quỳnh Lâm lại được đặc biệt quan tâm như một chốn tổ.

Phật phái Trúc Lâm cần được hiểu trong bối cảnh lịch sử hình thành của nó, thể hiện tinh thần bảo tồn ý thức dân tộc cao Trong bối cảnh Việt Nam thường xuyên bị xâm lược từ phương Bắc, nhiều người có xu hướng xem Trúc Lâm như một tông phái ngang hàng với các tông phái ở Trung Quốc Mặc dù những nhận định về tính độc lập và vẻ đẹp của Phật giáo Việt Nam gắn liền với Trúc Lâm là chính xác, nhưng việc coi đây chỉ là công cụ tư tưởng cho nền độc lập dân tộc là chưa đủ.

Từ thời Lý, người Việt đã nhận ra rằng đạo Phật không đủ khả năng tổ chức xã hội, dẫn đến việc Lý Công Uẩn được tôn vinh bởi nhóm trí thức Phật giáo nhưng Lý Thánh Tông lại lập ra phái thảo đường, kết hợp giữa Phật giáo và Nho giáo Khi Nho giáo ngày càng phát triển, đến thời Trần, nho sĩ đã có vị trí vững chắc và phê phán Phật giáo và Đạo giáo, trong khi nhiều người lại coi văn hóa Trung Hoa là mẫu mực, xem thường văn hóa dân tộc Trong bối cảnh đó, đạo Phật trở thành cứu cánh cho tầng lớp thống trị và nhân dân lao động nhằm chống lại xu hướng Bắc hóa Phật phái Trúc Lâm ra đời như một tất yếu lịch sử, không chỉ do triều đình mà từ lòng người, với chùa Quỳnh trở thành tổ đình quan trọng của thời kỳ này.

Chùa Quỳnh Lâm, với lịch sử dài và nhiều thăng trầm, đã từng được biết đến như “Đệ nhất danh lam cổ tích” nhưng cũng đã trải qua giai đoạn suy tàn Nơi đây nổi bật trong lịch sử dân tộc Việt Nam với hai thời kỳ phát triển rực rỡ của Phật giáo, đặc biệt là thời kỳ Lý - Trần vào thế kỷ trước.

Trong các thế kỷ XVII - XVIII và thời kỳ cuối Lê, chùa Quỳnh Lâm nổi bật như một trung tâm Phật giáo quan trọng của Việt Nam Dù phải đối mặt với những khắc nghiệt của thiên nhiên và sự tàn phá do chiến tranh, Quỳnh Lâm vẫn là minh chứng cho sự phát triển đa dạng của Phật giáo Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử khác nhau.

LỄ HỘI CHÙA QUỲNH LÂM VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ TIÊU BIỂU CỦA CHÙA QUỲNH LÂM TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN

CỦA HUYỆN ĐÔNG TRIỀU, TỈNH QUẢNG NINH

Lễ hội chùa Quỳnh Lâm

Lễ hội chùa Quỳnh Lâm diễn ra hàng năm từ mồng 1 đến ngày 4 tháng 2 âm lịch, trở thành một hoạt động văn hóa tâm linh quan trọng cho người dân sau một năm lao động vất vả Đây là dịp để mọi người cầu mong sức khỏe, an khang thịnh vượng và chiêm nghiệm tâm hồn, hướng tới những giá trị cao đẹp, hòa nhập tâm vào Phật Khi tâm và cảnh hòa quyện, chúng ta sẽ cảm nhận được lẽ tự nhiên của Tâm Phật.

“Tâm của vạn pháp là tâm Phật

Tâm Phật, Tâm ta khác gì đâu”

Các nghi thức lễ tắm Phật, phóng sinh, phóng đăng, cầu an, chẩn tế, bạt độ, cầu quốc thái dân an đã thể hiện sự hiện thực hóa của Phật giáo trong đời sống xã hội Những nghi thức này không chỉ nâng cao vị thế của Phật giáo mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng và bảo vệ đất nước, góp phần vào sự thịnh vượng lâu dài Một quốc gia độc lập và phát triển phồn thịnh luôn dựa trên nguyên tắc "dân có giàu, nước mới mạnh", tương tự như quan niệm của cha ông xưa "dân có an, quốc gia mới thái bình".

Một năm chùa Quỳnh Lâm có những sự lệ chính sau đây (tính theo âm lịch):

- Lễ hội chùa (lễ hội làng hay hội tế cầu phúc): tế lễ vào ngày mùng 1 đến ngày mùng 4 tháng 2

- Lễ phật đản: tế lễ vào ngày 14 đến 15 tháng 4

- Lễ vu lan: tế lễ vào ngày 14 đến ngày 15 tháng 7

Trong các sự lễ trên, lễ hội chùa Quỳnh Lâm được tổ chức vào ngày từ

Từ ngày 1 đến 4 tháng 2, lễ hội chùa Quỳnh Lâm diễn ra sôi nổi, thu hút đông đảo du khách thập phương Đây là một sự kiện quan trọng của vùng, với nhiều loại đồ tế lễ phong phú, bao gồm lễ sớ và các món cỗ lễ từ 7 thôn thuộc xã Tràng An, theo thông tin từ các cụ ông, cụ bà sống gần chùa.

Lễ sớ bao gồm một mâm sớ với hương vàng, một mâm oản, cùng một mâm trầu cau và hoa quả các loại Lễ sớ được chuẩn bị vào chiều ngày mùng 1, sau khi thực hiện lễ mộc dục tượng Phật và khai môn điện thờ Sau đó, lễ vật sẽ được dâng lên hàng ngày cho đến hết ngày 4 tháng 2.

Lễ cúng của 7 thôn thuộc 4 làng của xã Tràng An bao gồm thôn 1, thôn 2, thôn 3, thôn 4, thôn 5, thôn 6 và thôn 7 Mỗi làng sẽ chuẩn bị một mâm cỗ riêng và vào sáng ngày mùng 1, các mâm cỗ này sẽ được dâng lên điện để thực hiện lễ cúng Không có quy định cụ thể về việc cỗ chay hay cỗ mặn, mà tùy thuộc vào điều kiện và phong tục của từng làng, nhưng tất cả đều được chuẩn bị rất cầu kỳ và tinh tế.

Ngoài hai loại đồ tế, còn nhiều loại đồ lễ khác được sử dụng trong các nghi lễ Người dân từ các vùng khác đến cầu xin đức Phật và tham gia lễ hội thường chuẩn bị lễ vật để dâng cúng Kể từ khi di tích được công nhận là di tích lịch sử văn hóa quốc gia, vào ngày lễ hội, Phòng văn hóa thông tin huyện và chính quyền xã Tràng An cũng chuẩn bị một mâm cỗ để dâng hương.

Thực hiện lễ tế gồm có các lễ nhỏ như:

Lễ Tắm Phật được tổ chức trang nghiêm và ấm cúng vào tối ngày 1/2 Âm lịch, nơi chư Tăng và Phật tử tại bổn tự lắng lòng trong lời kinh tiếng kệ, tưởng niệm ngày Bồ Tát Hộ Minh từ cung trời Đâu Suất chuyển kiếp lâm phàm.

Buổi lễ diễn ra tại một ngôi “tiểu tự” tuy đơn sơ mà ấm cúng, nhưng cũng không kém phần trang trọng

Sau khi Thượng Thích Đao Quang dâng hương cúng đường Tam Bảo, một lời đạo từ được tuyên đọc nhằm tóm tắt lược sử của đức Phật Tiếp theo các nghi thức hành chánh, nghi thức tắm Phật đã diễn ra trong không khí trang nghiêm với tiếng tụng kinh trầm hùng.

Các sư sử dụng hương thơm như ngưu đầu chiên đàn, bạch đàn, tử đàn, trầm hương, uất kim hương, long não, xạ hương để pha vào nước sạch, sau đó đựng trong bình sạch Tại một nơi thanh tịnh, họ thiết lập đàn tràng với bệ tắm ở giữa, đặt tượng Phật lên đó Khi tắm tượng, dùng nước nóng thơm, sạch rưới từ trên xuống, sau đó tắm lại bằng nước tinh khiết đã lọc sạch Nước tắm được thấm bằng hai ngón tay và nhỏ lên đầu gọi là nước cát tường Không được giẫm chân lên dòng nước tắm tượng, và sau khi tắm xong, dùng khăn mềm, sạch lau khô tượng, xông hương quanh tượng rồi đặt về vị trí cũ Đức Phật dạy rằng việc tắm tượng mang lại phước báu cho chúng sinh, giúp sở nguyện thành tựu và quyến thuộc an ổn Cuối cùng, trước tượng, nên dâng hương và tụng bài kệ với lòng thành kính.

“Con nay tắm gội chư Như Lai

Công đức trang nghiêm và tịnh trí được nguyện cho chúng sanh thoát khỏi năm trược, nhanh chóng chứng ngộ Như Lai tịnh pháp thân Giới, định, tuệ cùng năm phần hương báu tỏa ngát trong khắp mười phương, mong rằng khói hương này sẽ lan tỏa mãi mãi.

Phật sự làm vô lượng vô biên

Nguyện khổ nạn ba đường bặt dứt Nhiệt não trừ, an trú thanh lương Đồng phát tâm vô thượng Bồ-đề Thoát biển ái lên bờ đại giác.”

Một số Phật tử đã cùng nhau sắp xếp lễ vật theo sự hướng dẫn của nhà chùa Chỉ sau một thời gian ngắn, bàn lễ đã được bày biện xong Những người tham gia lễ đứng thành hai hàng sau sư Thày, mỗi người nhận một quyển kinh để đọc theo lời dẫn Trong quá trình thực hiện nghi lễ, mọi người đều nguyện cầu những điều tốt đẹp, hướng về Phật với tấm lòng thành kính nhất.

“Chúng sinh phóng sinh Nguyện cho các vị giải thoát Thân súc quy y Tam bảo Nhất tâm niệm Phật vãng sinh”

Nhà chùa phóng sinh các loài như chim, cá, và ếch để mang lại tự do cho chúng và xua đuổi vận xui Buổi lễ phóng sinh thu hút đông đảo người tham gia, thể hiện sự gần gũi của Phật giáo với đời sống nhân dân Hành động này gắn kết đạo với đời, giúp con người sống hòa hợp với thiên nhiên.

Cầu an mang ý nghĩa sám hối tội lỗi, loại bỏ nghiệp chướng, và tránh khỏi bệnh hoạn, tai họa, nhằm đạt được thân tâm an lạc và phước huệ Đây là hình thức cầu nguyện khi gặp tai ương, ốm đau do tội lỗi gây ra Trong những lúc này, chúng ta cần thành tâm, tắm gội thân tâm, và tập trung năng lượng qua việc tụng kinh, niệm Phật, trì chú trước Tam Bảo Sức mạnh của cầu nguyện sẽ giúp chúng ta giao cảm với Chư Phật, Bồ Tát, để nhận được gia hộ và sớm đạt được điều mong muốn Phật thương chúng sanh như mẹ thương con, vì vậy, mỗi lần cầu nguyện, chúng ta cần thành khẩn và đầy đủ đức tin để nhận được sự cảm ứng từ Chư Phật và Bồ Tát.

Lễ chẩn tế và bạt độ, hay còn gọi là Mạn đà la trong tiếng Phạn, mang ý nghĩa là một chỗ ngồi, một cuộc đất, và Luân viên cụ túc Đây là việc lập một đàn bằng đất, hình vuông hoặc tròn, để đặt chư tôn lên và cúng tế Trên đàn, chư tôn và chư đức được tập trung, tạo thành một đại Pháp môn, một bánh xe tròn trặn, thể hiện nơi tụ hội của thánh hiền, nơi muôn đức đều quy tụ Cung trần pháp đàn chẩn tế là quá trình bày biện và sắp xếp vị trí hành lễ một cách trang nghiêm và đầy đủ theo khoa nghi, với thứ tự từ trong ra ngoài.

1/Bàn Phật: Cung thỉnh tượng Phật Thích Ca

2/ Bàn kinh: Kinh sách, chuông mõ, pháp khí

3/ Tham lễ Giác Hoàng: Chủ sám vào bạch Phật, đội nón Tỳ Lư

Nón Tỳ Lư, viết tắt của Tỳ Lư Giá Na, là tên gọi chung của Pháp thân Phật, đại diện cho đức Ðại Nhật Như Lai trong Mật giáo Vị Tăng thủ tọa thường đội nón này, thể hiện sự tôn kính và kết nối với triết lý Phật giáo.

Giá trị lịch sử - văn hóa

Chùa Quỳnh Lâm, được xây dựng từ thời Lý, là biểu tượng lịch sử cho truyền thống đấu tranh của dân tộc Việt Nam Nơi đây không chỉ lưu giữ những hiện vật quý giá mà còn phản ánh đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của người Việt Chùa cũng gắn liền với những nhân vật lịch sử quan trọng như vua Trần Nhân Tông và các nhà sư Pháp Loa, Huyền Quang, những người đã đưa Phật giáo Việt Nam vào thời kỳ phát triển rực rỡ Hiện tại, chùa Quỳnh Lâm đã được mở rộng với nhiều công trình mới, bao gồm 7 gian nhà phương trượng, nhà giảng, và nhà bái đường, cùng với việc nâng cấp hạ tầng giao thông, tạo điều kiện thuận lợi cho việc truyền bá Phật giáo và giáo dục truyền thống yêu nước cho thế hệ trẻ.

Tuyến đường nối Đền An Sinh, khu lăng mộ các vua Trần và chùa Quỳnh Lâm đã được mở rộng, tạo điều kiện cho du khách dễ dàng kết nối với những giá trị tâm linh Đập Quỳnh được tôn cao và kè đá chắc chắn, trong khi các sườn đồi được phủ kín cây ăn quả và cây thông nhựa, tạo nên cảnh quan hài hòa giữa thiên nhiên và con người Nơi đây mang đến cho du khách cảm giác thanh thản, giúp họ sống hòa thuận với cuộc đời và giác ngộ tâm Phật: “ở trần vui đạo cứ tùy duyên”.

Gần đây, UBND huyện Đông Triều đã phối hợp với Viện Khảo cổ để khảo sát di tích chùa Quỳnh Lâm, phát hiện nhiều hiện vật và dấu vết kiến trúc quan trọng Trong số đó, tấm bia đá cổ nhất tại chùa, được tiến sĩ Nguyễn soạn thảo năm 1629, cùng với các hiện vật như tượng bà Hậu Phật Bùi Thị Thao, tháp đá Tịch Quang, và nhiều di vật gốm từ thời Đông Hán và các triều đại phong kiến Việt Nam đã cung cấp thông tin quý giá về lịch sử chùa Quỳnh Lâm Các hiện vật như đầu rồng bằng đất nung, tượng Phật, và chuông đồng khánh đá lớn cho thấy quy mô rộng lớn của chùa trong quá khứ.

Năm 1992, một viên gạch cổ được phát hiện trong vườn chùa Quỳnh Lâm với dòng chữ ghi rõ: “Lý gia đệ tam đế Long Thụy Thái Bình tứ niên tạo”, cho thấy chùa được xây dựng vào năm 1057, thời vua Lý Thánh Tông Như vậy, chùa Quỳnh Lâm đã gần 1000 năm tuổi, tương đương với các di tích khác từ thời Lý như chùa Phật Tích, tháp Tường Long và tháp Báo Thiên, nơi cũng tìm thấy những viên gạch cổ tương tự.

Tháng 3 - tháng 4 năm 2007 Viện khảo cổ học (thuộc viện khoa học xã hội Việt Nam) phối hợp với UBND huyện Đông Triều, sở VHTT Quảng Ninh đã tiến hành điều tra, khai quật, thám sát khảo cổ học tại hai di tích Thái Lăng (Trần Anh Tông và chùa Quỳnh Lâm đã phát hiện được nhiều loại hình di tích và di vật quan trọng như dấu vết lò nung ngói để xây dựng chùa, có niên đại vào thế kỷ XVII thời Lê - Trịnh), dấu vết bó nền thềm bằng những khối đá màu trắng xanh, những móng trụ, dấu vết con đường chạy dài Bắc - Nam

Từ tháng 4 đến tháng 7 năm 2008, chùa Quỳnh Lâm đã trải qua đợt thám sát lần thứ hai, hé lộ dấu vết kiến trúc từ nhiều thời kỳ lịch sử khác nhau Các khối đá vôi màu trắng xám và xanh xám được sử dụng để bó nền có hình dạng hộp chữ nhật dài 45 cm.

Chùa Quỳnh Lâm, với kích thước 150 cm chiều dài, 35 - 50 cm chiều rộng và 20 - 25 cm độ dày, cùng hệ thống thoát nước giữa các cấp nền, chứng tỏ quy mô to lớn và bề thế của ngôi chùa trong lịch sử.

Chùa Quỳnh Lâm, với lịch sử thăng trầm, vẫn giữ vị thế nổi bật trong di sản văn hóa dân tộc Việt Nam Ngôi chùa đã trải qua hai giai đoạn phát triển rực rỡ của Phật giáo Việt Nam, đó là thời Lý - Trần (thế kỷ XI - XIV) và thời kỳ cuối Lê (thế kỷ XVII - XVIII) Trong suốt những thời kỳ này, chùa Quỳnh Lâm luôn là một trong những trung tâm Phật giáo lớn nhất của cả nước.

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, chùa Quỳnh Lâm, tọa lạc tại khu vực Đệ tứ chiến khu Đông Triều, đã đóng góp quan trọng vào sự thắng lợi trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam.

Phật Giáo có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội của người Việt cổ, được quần chúng ủng hộ và tin theo Nghiên cứu một số di tích tại tỉnh Quảng Ninh, đặc biệt là chùa Quỳnh Lâm, cho thấy đây là một trong những ngôi chùa Phật giáo du nhập sớm nhất vào khu vực Từ đó, tôn giáo tại chùa Quỳnh Lâm đã giữ vị trí quan trọng trong đời sống tâm linh của người dân Đông Triều.

Phật giáo, một hiện tượng văn hóa ngoại lai, đã được nhân dân Việt Nam tiếp thu và vận dụng vào đời sống, đóng vai trò quan trọng trong lịch sử dựng nước và giữ nước Nghiên cứu lịch sử dân tộc không thể thiếu việc tìm hiểu về lịch sử Phật giáo Khi du nhập vào Việt Nam, Phật giáo đã được giai cấp phong kiến sử dụng để duy trì trật tự xã hội Dưới thời Đinh - Lê, Phật giáo đã có bước phát triển mới, và đến thời Lý - Trần, nó đạt đến đỉnh cao, được chọn làm quốc giáo.

Chùa Quỳnh Lâm đã trở thành ngôi nhà chung cho người dân Đông Triều và các vùng lân cận, đặc biệt là những tín đồ Phật giáo Nơi đây thể hiện sự hòa hợp giữa đạo và đời, tạo dựng mối quan hệ nhân quả trong sáng và sự đoàn kết, tôn trọng lẫn nhau Chùa Quỳnh Lâm góp phần vun đắp cho tiêu chí “đạo pháp, dân tộc, chủ nghĩa xã hội”, tạo nên một cộng đồng gắn bó mà Đức Phật đã kiến tạo.

Chùa Quỳnh Lâm là nơi con người tìm kiếm sự thanh thản và tĩnh tâm Từ chùa trở về, tâm hồn trở nên nhẹ nhàng, chỉ còn lại những điều thiện lành Mọi người đều ý thức chăm sóc và vun đắp cho cái thiện, không ai dám xúc phạm đến Phật, thô bạo với thiên nhiên, hay bất nhân với người khác và chính bản thân mình Nhờ đó, con người có thể hòa nhập giữa đạo và đời, hướng tới chân - thiện - mỹ trong cuộc sống hàng ngày.

Bản thân chùa Quỳnh lâm trở thành nguồn tài liệu quý báu để tham khảo, đánh giá về lịch sử trên địa bàn địa phương và quốc gia.

Giá trị du lịch

Yên Tử, điểm khởi đầu cho hành trình khám phá các di tích lịch sử cách mạng và danh lam thắng cảnh, nổi bật với chùa Bạch Mã và nhiều di tích lịch sử khác.

Hổ Lao, đền Sinh, khu lăng mộ các vua Trền, đền thờ nữ tướng Lê Chân, chùa Ngọa Vân, chùa Hồ Thiên cùng với các hồ đập như Khe Chè, Trại Lốc, Bến Châu là những điểm đến nổi bật Trong số đó, chùa Quỳnh được xem là một trong những điểm du lịch hấp dẫn nhất.

Chùa Quỳnh Lâm, với lịch sử hàng trăm năm, đã trở thành biểu tượng tâm linh sâu sắc trong lòng Phật tử, du khách và người dân địa phương Nơi đây thu hút mọi tầng lớp, từ các quan chức văn võ đến những người trí thức, cùng với Phật tử từ các dòng họ khác nhau, tất cả đều đến tham quan và chiêm bái.

Người dân đến chùa Quỳnh Lâm không chỉ để chiêm ngưỡng vẻ đẹp mà còn cầu an, cầu phúc cho bản thân và gia đình Trong những lúc khó khăn như hiếm muộn hay bệnh tật, họ tìm đến chùa để xin Đức Phật giúp đỡ thực hiện ước nguyện Điều này thể hiện mối quan hệ sâu sắc giữa đời sống tâm linh và tín ngưỡng đối với ngôi chùa thờ ba vị tổ sư của Thiền Phái Trúc Lâm Hiện nay, với chính sách của Đảng và Nhà nước, việc tôn trọng tự do tín ngưỡng và phát huy giá trị văn hóa tâm linh đang được thực hiện thông qua các hoạt động thiết thực.

Từ năm 1992, Huyện ủy và UBND huyện Đông Triều đã tổ chức nhiều hội thảo với sự tham gia của các giáo sư, nhà khoa học xã hội nhằm nghiên cứu giá trị to lớn của chùa Quỳnh Lâm Nhiều đoàn đại biểu từ các tổ chức chính trị xã hội, tăng ni, cùng lãnh đạo Đảng và Nhà nước đã đến dâng hương, thăm viếng và trồng cây lưu niệm tại chùa Sự quan tâm từ các cấp chính quyền, cơ quan chức năng, cùng với sự đóng góp của nhân dân và tín đồ Phật tử đã góp phần tôn tạo, xây dựng chùa Quỳnh Lâm như hiện nay.

UBND huyện Đông Triều đã chỉ đạo xã Tràng An thành lập Ban bảo vệ quản lý di tích chùa Quỳnh Lâm nhằm gìn giữ các giá trị văn hóa và tâm linh của địa phương Chính quyền xã đã thực hiện nhiều biện pháp như mở đường lên chùa, tu bổ khuôn viên và sửa chữa các hạng mục hư hại, đồng thời mời các nhà sư về trụ trì để đảm bảo sự tôn nghiêm cho phật tử Những nỗ lực này không chỉ khuyến khích du khách đến thăm mà còn làm nổi bật giá trị tinh thần của chùa Quỳnh Lâm trong cộng đồng.

Cùng với chủ trương chấn hưng văn hóa và bảo tồn bản sắc dân tộc, chùa Quỳnh Lâm ngày càng thu hút đông đảo du khách và phật tử, đặc biệt trong các dịp lễ lớn như sóc vọng và Phật đản Sự hiện diện của ngôi chùa không chỉ mang lại giá trị văn hóa mà còn thể hiện tinh thần hướng thiện và đức tin cao cả, góp phần làm sáng tỏ ý nghĩa nhân văn trong đời sống tâm linh của cộng đồng.

Ban tôn giáo Tỉnh ủy và Ủy ban nhân dân xã Tràng An tổ chức viếng thăm và gặp gỡ tại bản chùa vào dịp đầu xuân và lễ Phật đản hàng năm Sự kiện này thể hiện sự kết hợp hài hòa giữa đạo và đời, định hướng tư tưởng văn hóa với đức tin thánh thiện Qua đó, quần chúng nhân dân được khuyến khích sống tốt đời đẹp đạo, chấn hưng giá trị thiêng liêng trong đời sống tâm linh Điều này không chỉ làm phong phú thêm đời sống văn hóa thường nhật mà còn gìn giữ và phát huy tính nhân văn cao cả của Phật giáo.

Hiện trạng và một số kiến nghị về bảo tồn, phát triển di tích lịch sử văn hóa quốc gia chùa Quỳnh Lâm

Di sản văn hóa nghệ thuật, đặc biệt là kiến trúc Phật giáo, chứa đựng nhiều công trình quý giá mà tổ tiên để lại, đáng để chúng ta nghiên cứu, tìm hiểu và tự hào bảo tồn.

Chùa Quỳnh Lâm là một công trình kiến trúc Phật giáo quan trọng thuộc thiền phái Trúc Lâm nổi tiếng thời Trần Chùa không chỉ đóng vai trò then chốt trong việc phát triển Thiền phái Trúc Lâm mà còn là nơi đào tạo phật tử cho hệ thống chùa chiền ở vùng Đông Bắc Cùng với trung tâm Phật giáo Trúc Lâm - Yên Tử, chùa Quỳnh Lâm tạo thành một hệ thống kiến trúc Phật giáo liên hoàn độc đáo tại khu vực này.

Chùa Quỳnh Lâm, trải qua hàng trăm năm và nhiều biến cố lịch sử, hiện chỉ còn là phế tích nhưng vẫn bảo tồn nhiều di vật văn hóa quý giá như bảo tháp, sấu đá, chuông, tượng và bia ký Những giá trị văn hóa vật chất này không chỉ thể hiện tài năng sáng tạo của dân tộc mà còn góp phần làm sáng tỏ lịch sử của đất nước trong quá khứ.

Chùa Quỳnh Lâm hiện đang trong quá trình xây dựng và tôn tạo với quy mô lớn hơn, dẫn đến việc quản lý các hoạt động cúng bái, lễ Phật, tiếp đón du khách, dịch vụ bán hàng hành hương và công tác bảo vệ gặp nhiều khó khăn.

Di tích lịch sử đối mặt với nhiều thách thức từ thiên nhiên như gió bão và mưa nắng, khiến cho các đền tháp dù đã được trùng tu vẫn dễ bị hư hại Hệ thống kiến trúc chủ yếu bằng gỗ tại các chùa có nguy cơ cháy nổ cao do việc thắp hương và hóa vàng Bên cạnh đó, giá trị di tích chưa được khai thác triệt để cùng với các lợi thế về thiên nhiên và cảnh quan Hệ thống dịch vụ du lịch còn tự phát và quy mô nhỏ, trong khi giao thông và hạ tầng chưa được đầu tư đầy đủ Do đó, việc quản lý và khai thác di tích chưa đạt hiệu quả tương xứng với tiềm năng của quần thể này.

Trong quá trình phát triển văn hóa du lịch, nhiều vấn đề xã hội như dịch vụ bán hàng thái quá, ăn xin, dịch vụ đổi tiền và vệ sinh môi trường đã xuất hiện Để giải quyết những vấn đề này, các cơ quan như Ban quản lý, phòng văn hóa và thông tin huyện Đông Triều cùng Sở văn hóa du lịch Quảng Ninh đã triển khai các biện pháp cụ thể Tuy nhiên, những bất cập này không làm giảm giá trị lịch sử và văn hóa to lớn của chùa Quỳnh Lâm.

Nghiên cứu tiến trình lịch sử của chùa Quỳnh Lâm và kiến trúc Phật giáo là một công việc phức tạp và nghiêm túc, đòi hỏi tìm hiểu đầy đủ về sự ra đời, hình thành và phát triển của chùa, cũng như nguyên nhân khiến chùa trở thành phế tích hiện nay Đồng thời, việc nghiên cứu không gian của các thiết chế tôn giáo như đình, chùa, đền, miếu là cần thiết, vì đây là nơi diễn ra các hoạt động tâm linh mang đậm sắc thái nhân văn, và không gian này đóng vai trò quan trọng trong quy hoạch xây dựng và bảo tồn.

Chùa và tháp là biểu tượng đặc trưng của kiến trúc Phật giáo, thể hiện sự hòa quyện giữa nhiều yếu tố thẩm mỹ như cảnh quan thiên nhiên, hình khối, đường nét kiến trúc và điêu khắc Sự kết hợp của ánh sáng, màu sắc và cây xanh tạo nên một không gian độc đáo, mang đậm bản sắc văn hóa và tâm linh.

“vườn thiền” chính là hình ảnh thu nhỏ của cõi niết bàn

Chùa Quỳnh Lâm và các hoạt động lễ hội cần được bảo vệ và duy trì trong cuộc sống hiện đại để phát huy giá trị văn hóa Việc kết hợp các yếu tố hiện đại đã giúp tăng cường sức sống cho di tích và lễ hội Quá trình khôi phục và trùng tu chùa Quỳnh Lâm vẫn đang tiếp tục, và tác giả đưa ra một số kiến nghị nhằm khuyến khích những người có trách nhiệm thực hiện các hành động phù hợp trong công tác tôn tạo.

Chùa Quỳnh Lâm là một phần quan trọng trong hệ thống kiến trúc Phật giáo Trúc Lâm - Yên Tử, cần được xem xét trong bối cảnh lịch sử của thiền phái Trúc Lâm Việc phân tích không chỉ dừng lại ở quá trình hình thành mà còn phải xác định mối quan hệ giữa các công trình trong không gian lãnh thổ Đặc biệt, chương trình nghiên cứu quy hoạch vùng du lịch Đông Bắc đã khẳng định vai trò của Yên Tử trong phát triển du lịch văn hóa.

Tử là một trung tâm du lịch lịch sử và danh thắng quan trọng, với chùa Quỳnh Lâm đóng vai trò then chốt trong việc phát triển tuyến du lịch khu vực Hiện nay, chúng ta cần tìm cách duy trì và sử dụng chùa Quỳnh Lâm một cách hợp lý, tôn vinh vai trò của nó như một di tích lịch sử và trung tâm Phật giáo Trong bối cảnh hội nhập văn hóa toàn cầu, việc có cái nhìn đúng đắn về giá trị di sản văn hóa là vô cùng cần thiết.

"Hòa nhập mà không hòa tan" là phương châm giúp tư tưởng Phật giáo trở thành lẽ sống của người Việt Nam, đặc biệt là nhân dân huyện Đông Triều Mỗi người dân trong vùng, dù nhận thức hay không, đều sống trong khuôn khổ những truyền thống nhất định Chúng ta không nên bắt chước mãi mãi quá khứ, mà cần biến đổi, tham khảo để tạo ra cái mới phù hợp với yêu cầu hiện đại Điều này thể hiện sự kế thừa có chọn lọc và phê phán các di sản văn hóa, tích hợp tinh hoa truyền thống với tinh thần sáng tạo nhằm xây dựng nền văn hóa mới và con người mới.

Di tích chùa Quỳnh Lâm hiện đang trong quá trình trùng tu và hoàn thiện, tuy nhiên vẫn còn nhiều vấn đề cần giải quyết Các nhà thiết kế và chính quyền địa phương chưa chú trọng đến việc bảo vệ môi sinh, môi trường và an ninh trật tự trong quá trình tôn tạo nhằm phát huy giá trị văn hóa, du lịch Hiện tại, bãi đỗ xe cho du khách chưa được xây dựng, dẫn đến tình trạng ùn tắc giao thông trong các ngày lễ hội Thậm chí, chính quyền địa phương cho phép các hộ dân tự lập bãi giữ xe, gây mất an toàn và giá cả không hợp lý, làm khó khăn cho du khách.

Khu di tích hiện có một số hòm công đức nhưng thiếu thùng rác, dẫn đến tình trạng khách tham quan xả rác bừa bãi, gây ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng đến mỹ quan Chính quyền cần khắc phục vấn đề này để phát huy tiềm năng và giá trị của khu di tích.

Trong bối cảnh xã hội hiện đại, việc khôi phục các di tích gắn với lễ hội truyền thống, đặc biệt là trong việc xây dựng đất nước theo tinh thần Phật giáo, là vô cùng cần thiết để ôn lại giá trị văn hóa và tư tưởng của cha ông Những tư tưởng này không chỉ thể hiện ý thức cộng đồng sâu sắc mà còn khuyến khích tinh thần dân chủ và bình đẳng, có thể được khai thác để giáo dục nhân dân, góp phần xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc Đảng và nhà nước đã khẳng định rằng hoạt động tín ngưỡng và lễ hội là cách thể hiện lòng tôn kính tổ tiên và những người có công với đất nước, đồng thời phản ánh các giá trị lịch sử, văn hóa và đạo đức xã hội tốt đẹp Lễ hội chùa Quỳnh Lâm cần được phát triển với bản sắc riêng, nhằm tạo thương hiệu cho Trung tâm Phật giáo Quỳnh Lâm, một điểm du lịch văn hóa tâm linh ở Quảng Ninh, qua đó gắn kết cộng đồng, dòng họ và quê hương, đồng thời hướng tới tương lai trong thời đại hội nhập quốc tế.

3.4.3 Một số đề xuất kiến nghị

 Về công tác tổ chức

KẾT LUẬN

Trong sự nghiệp xây dựng và phát triển quê hương, con người là yếu tố then chốt Để thế hệ trẻ hôm nay tiếp tục viết nên trang sử vẻ vang của tổ tiên, việc giáo dục truyền thống là rất cần thiết.

Sau hai mươi năm đổi mới và phát triển, đất nước đã đạt được nhiều tiến bộ đáng kể Nhờ đó, đời sống vật chất của người dân không ngừng được nâng cao, đồng thời đời sống tinh thần cũng ngày càng được chú trọng hơn.

Thực hiện Nghị Quyết Trung Ương V khóa VIII về xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, Đảng bộ và nhân dân huyện Đông Triều đã nỗ lực nâng cao đời sống văn hóa cộng đồng, với nhiều hoạt động phong phú và sâu sắc Công tác nghiên cứu, bảo tồn và phát huy di sản văn hóa truyền thống được chú trọng, mang lại nhiều kết quả khả quan Trong bối cảnh đất nước hội nhập, việc giữ gìn và phát huy truyền thống, bản sắc dân tộc là cần thiết để tạo nên nét đẹp chung cho toàn dân tộc.

Trong bối cảnh đô thị hóa và hiện đại hóa mạnh mẽ, nhiều công trình mới đang được xây dựng, nhưng không thể quên những ngôi chùa cổ kính Những di sản kiến trúc này, nằm ẩn mình sau những tán cây xanh tươi, đã góp phần quan trọng vào vẻ đẹp của quê hương Đông Triều.

Chùa Quỳnh Lâm, một di tích lịch sử quý giá tại Đông Triều, đã tồn tại gần 1000 năm, phản ánh quá trình đấu tranh của con người với điều kiện tự nhiên và xã hội khắc nghiệt Trong hai cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, nhân dân Đông Triều đã nỗ lực bảo vệ và trùng tu chùa sau những lần bị tàn phá Là một trong những ngôi chùa quan trọng nhất ở vùng đất này, chùa Quỳnh Lâm không chỉ là biểu tượng tâm linh mà còn góp phần làm phong phú thêm cảnh quan sinh thái Đông Triều Sự trường tồn của chùa là minh chứng cho sự phát triển của Phật Giáo Việt Nam và ngày nay, chùa Quỳnh Lâm đã trở thành một điểm đến du lịch hấp dẫn trong những dịp lễ hội.

Chùa Quỳnh Lâm không chỉ mang giá trị nhân văn và tâm linh sâu sắc mà còn nổi bật với kiến trúc và nghệ thuật độc đáo Trong bối cảnh hiện đại, việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc đang gặp nhiều thách thức, đặc biệt là sự hiện đại hóa và thương mại hóa ảnh hưởng đến đời sống văn hóa Do đó, cần tìm ra giải pháp để ngôi chùa có bề dày lịch sử này vẫn giữ vững giá trị truyền thống, không bị hòa tan trong dòng chảy hiện đại.

Để bảo vệ và gìn giữ di tích, điều quan trọng nhất là ý thức của mỗi cá nhân Sự thay đổi của ngôi chùa trong thời hiện đại phản ánh chính những nỗ lực và tư duy của con người Nếu mỗi người có ý thức trân trọng di sản văn hóa và tâm linh, không để guồng quay của thời đại chi phối, việc bảo tồn truyền thống sẽ đạt hiệu quả cao hơn Trước thử thách của thời gian, ngôi đền đã khẳng định sự trường tồn của mình Vậy tại sao con người không dừng lại để bảo vệ giá trị truyền thống? Chỉ có hành động của chúng ta mới có thể trả lời cho những câu hỏi này.

Đảng và Nhà nước đang chú trọng bảo vệ và tôn tạo di tích lịch sử, văn hóa, đồng thời phục hồi các lễ hội truyền thống Trong tương lai, các di tích như chùa Quỳnh Lâm sẽ càng trở nên quan trọng và có giá trị lớn trong đời sống tâm linh và xã hội Điều này góp phần lớn vào sự ổn định và phát triển toàn diện của đất nước.

Chùa Quỳnh Lâm, một di tích lịch sử quốc gia, đã được nhiều sách báo và tạp chí đề cập đến Bài viết “Góp phần tìm hiểu quá trình hình thành, phát triển và giá trị di tích lịch sử chùa Quỳnh Lâm” nhằm bổ sung tư liệu cho du khách và người dân địa phương, khuyến khích ý thức bảo vệ và phát huy giá trị của ngôi chùa, giúp chùa Quỳnh Lâm trở thành “An Nam Đệ Nhất Quỳnh Lâm tự” Qua đó, chúng ta nhận thấy mảnh đất Đông Triều không chỉ giàu lịch sử mà còn đậm đà truyền thống văn hóa tâm linh.

[1] Phạm Thuận An, Kinh thành Huế, Nxb Thuận Hóa

[2] Bảo tàng tỉnh Quảng Ninh, Lý lịch di tích chùa Quỳnh Lâm, Sở văn hóa Thông tin Quảng Ninh

[3] Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh, Lịch sử Đảng bộ tỉnh Quảng

Ninh (tập 1, 2), Nxb Quảng Ninh

[4] Ban quản lý di tích trọng điểm Quảng Ninh, Hội thảo khoa học “Đông

Triều với lịch sử Nhà Trần”, Quảng Ninh, tháng 10 năm 2008

[5] Nguyễn Chi, Truyền thuyết về chùa Quỳnh Lâm, Báo cáo điền dã, tư liệu Viện Mỹ thuật

[6] Nguyễn Huệ Chi, Quảng Ninh lịch sử và danh thắng, Nxb Quảng Ninh

[7] Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí (tập 1), Nxb Sử học Hà

[8] Nguyễn Đăng Duy, Văn hóa tâm linh, Nxb Hà Nội, 1996

[9] Vũ Khánh Duyên, “Chùa, Đền, Lăng miếu thời Trần ở Đông Triều qua các nguồn tư liệu”

[10] Đại việt sử ký toàn thư, tập 1, Nxb KHXH, 1983

[11] Đông Triều huyện chí, Sở văn hóa thông tin Quảng Ninh

[12] Lương Thị Hoa, Lịch sử tôn giáo thế giới, Nxb GD, 2000

[13] Bùi Văn Hiếu “Di tích chùa Quỳnh Lâm qua kết quả điều tra, thám sát khảo cổ học”

[14] Lê Văn Hưu, Đại Việt sử ký (tập 2), Nxb Thuận Hóa

[15] Hà Văn Tấn, Nguyễn Huệ Chi, Nguyễn Duy Hinh… Trung tâm Phật giáo Quỳnh Lâm, UBND Huyện Đông Triều, Xb năm 1992

[16] Phan Khanh “Bảo tồn, phát huy các di tích phật giáo nhà Trần ở Đông

[17] Thượng tọa Thích Đạo Quang, Nguyễn Quang Luân, chùa Quỳnh Lâm trong tiến trình lịch sử, Nxb Tôn Giáo

[18] Lê Hữu Nhiệm, thơ văn Lý - Trần, tập 2

[19] Luật di sản văn hóa, Nxb Tôn Giáo, 1999

[20] Lịch sử huyện Đông Triều, Sở văn hóa thông tin Quảng Ninh

[21] Nhiều tác giả, Lịch sử Việt Nam (tập 1, 2), Nxb Khoa học xã hội, 1971

[22] Nhiều tác giả, Hợp tuyển văn học Việt Nam (từ thế kỷ X - thế kỷ XV),

[23] Quốc sử quán triều Nguyễn, Việt sử thông giám cương mục, Nxb Văn -

[24] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống trí (tập 2), Nxb

[25] Trương Hữu Quýnh, Đại cương lịch sử Việt Nam, Tập 1, Nxb GD, Hà

[26] Đồ Nam Tử, Luận về di tích chùa Quỳnh Lâm, Đuốc Tuệ, số 77

[27] Tổng cục Chính trị cục dân vận và tuyên truyền đặc biệt, Tìm hiểu về tôn giáo, Nxb CAND, Hà Nội, 1996

[28] Hà Hùng Tiến, Lễ Hội và danh nhân lịch sử Việt Nam, Nxb Văn hóa

[29] Lê Mạnh Thát, Lịch sử Phật giáo Việt Nam (tập 1), Nxb Thuận Hóa, 1999

[30] Trần Ngọc Thêm, Cơ sở văn hóa Việt Nam, Trường Đại Học tổng hợp

Thành phố Hồ Chí Minh, 1995

[31] Trương Thìn, 101 điều cần biết về tín ngưỡng và phong tục Việt Nam,

[32] Nguyễn Tài Thư, Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Nxb KHX, 1998

[33] Nguyễn Thực, Trùng tu tạo tác Tiên Du Quỳnh Lâm đệ nhất từ bi,

Nguyễn Đình Thái dịch Tư liệu Viện Mỹ thuật

[34] Phúc Điền Hòa Thượng, Thiền Uyển Truyền Đăng Lục (quyển 2)

[35] Trần Quốc Vượng, Văn hóa Việt Nam tìm tòi và suy ngẫm, Nxb Văn hóa Hà Nội, 2001

Viện Khoa học Xã hội Nhân văn và Viện Khảo cổ học đã công bố báo cáo sơ bộ về kết quả điều tra và khai quật di tích chùa Quỳnh Lâm và Ngọa Vân vào năm 2009 Báo cáo này cung cấp cái nhìn tổng quan về các hoạt động nghiên cứu khảo cổ học tại hai di tích quan trọng này.

[37] HoàngTâm Xuyên, Mười tôn giáo lớn trên thế giới, Nxb Chính trị

HÌNH ẢNH CHÙA QUỲNH LÂM

Phía trước chùa Quỳnh Lâm

Tháp đá ở chùa Quỳnh Lâm

Cá sấu đá dài 3,3 m ở chùa Quỳnh Lâm Đường vào chùa

Nơi thờ Trúc lâm Tam tổ tại chùa Quỳnh

Mặt tiền chùa Quỳnh Lâm

Gác chuông chùa Quỳnh Lâm

HÌNH ẢNH CHÙA QUỲNH LÂM VÀO NGÀY LỄ HỘI

Nhân dân tưng bừng rước lễ vào khai hội

Múa lân khai hội cùa Quỳnh Lâm

Bí thư Huyện uỷ Đông Triều Nguyễn Thị Huân gióng trống khai hội

Các đại biểu gióng chuông khai hội Quỳnh Lâm

Lễ vật của nhân dân địa phương dâng lên chùa

Cùng khách thập phương rước lễ về chùa.

Ngày đăng: 16/09/2021, 17:49

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
[1]. Phạm Thuận An, Kinh thành Huế, Nxb Thuận Hóa Sách, tạp chí
Tiêu đề: Kinh thành Huế
Nhà XB: Nxb Thuận Hóa
[2]. Bảo tàng tỉnh Quảng Ninh, Lý lịch di tích chùa Quỳnh Lâm, Sở văn hóa Thông tin Quảng Ninh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lý lịch di tích chùa Quỳnh Lâm
[3]. Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh, Lịch sử Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh (tập 1, 2), Nxb Quảng Ninh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh (tập 1, 2)
Nhà XB: Nxb Quảng Ninh
[4]. Ban quản lý di tích trọng điểm Quảng Ninh, Hội thảo khoa học “Đông Triều với lịch sử Nhà Trần”, Quảng Ninh, tháng 10 năm 2008 Sách, tạp chí
Tiêu đề: “Đông Triều với lịch sử Nhà Trần”
[5]. Nguyễn Chi, Truyền thuyết về chùa Quỳnh Lâm, Báo cáo điền dã, tư liệu Viện Mỹ thuật Sách, tạp chí
Tiêu đề: Truyền thuyết về chùa Quỳnh Lâm
[6]. Nguyễn Huệ Chi, Quảng Ninh lịch sử và danh thắng, Nxb Quảng Ninh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quảng Ninh lịch sử và danh thắng
Nhà XB: Nxb Quảng Ninh
[7]. Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí (tập 1), Nxb Sử học Hà Nội, 1960 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lịch triều hiến chương loại chí (tập 1)
Nhà XB: Nxb Sử học Hà Nội
[8]. Nguyễn Đăng Duy, Văn hóa tâm linh, Nxb Hà Nội, 1996 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn hóa tâm linh
Nhà XB: Nxb Hà Nội
[9]. Vũ Khánh Duyên, “Chùa, Đền, Lăng miếu thời Trần ở Đông Triều qua các nguồn tư liệu” Sách, tạp chí
Tiêu đề: “Chùa, Đền, Lăng miếu thời Trần ở Đông Triều qua các nguồn tư liệu
[10]. Đại việt sử ký toàn thư, tập 1, Nxb KHXH, 1983 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đại việt sử ký toàn thư, tập 1
Nhà XB: Nxb KHXH
[11]. Đông Triều huyện chí, Sở văn hóa thông tin Quảng Ninh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đông Triều huyện chí
[12]. Lương Thị Hoa, Lịch sử tôn giáo thế giới, Nxb GD, 2000 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lịch sử tôn giáo thế giới
Nhà XB: Nxb GD
[13]. Bùi Văn Hiếu “Di tích chùa Quỳnh Lâm qua kết quả điều tra, thám sát khảo cổ học” Sách, tạp chí
Tiêu đề: Di tích chùa Quỳnh Lâm qua kết quả điều tra, thám sát khảo cổ học
[14]. Lê Văn Hưu, Đại Việt sử ký (tập 2), Nxb Thuận Hóa Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đại Việt sử ký (tập 2)
Nhà XB: Nxb Thuận Hóa
[15]. Hà Văn Tấn, Nguyễn Huệ Chi, Nguyễn Duy Hinh… Trung tâm Phật giáo Quỳnh Lâm, UBND Huyện Đông Triều, Xb năm 1992 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Trung tâm Phật giáo Quỳnh Lâm
[16]. Phan Khanh “Bảo tồn, phát huy các di tích phật giáo nhà Trần ở Đông Triều (Quảng Ninh)” Sách, tạp chí
Tiêu đề: “Bảo tồn, phát huy các di tích phật giáo nhà Trần ở Đông Triều (Quảng Ninh)
[17]. Thượng tọa Thích Đạo Quang, Nguyễn Quang Luân, chùa Quỳnh Lâm trong tiến trình lịch sử, Nxb Tôn Giáo Sách, tạp chí
Tiêu đề: chùa Quỳnh Lâm trong tiến trình lịch sử
Nhà XB: Nxb Tôn Giáo
[18]. Lê Hữu Nhiệm, thơ văn Lý - Trần, tập 2 [19]. Luật di sản văn hóa, Nxb Tôn Giáo, 1999 Sách, tạp chí
Tiêu đề: thơ văn Lý - Trần, tập 2" [19]. "Luật di sản văn hóa
Nhà XB: Nxb Tôn Giáo
[20]. Lịch sử huyện Đông Triều, Sở văn hóa thông tin Quảng Ninh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lịch sử huyện Đông Triều
[21]. Nhiều tác giả, Lịch sử Việt Nam (tập 1, 2), Nxb Khoa học xã hội, 1971 [22]. Nhiều tác giả, Hợp tuyển văn học Việt Nam (từ thế kỷ X - thế kỷ XV),Nxb Văn học Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lịch sử Việt Nam (tập 1, 2)," Nxb Khoa học xã hội, 1971 [22]. Nhiều tác giả, "Hợp tuyển văn học Việt Nam (từ thế kỷ X - thế kỷ XV)
Nhà XB: Nxb Khoa học xã hội

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Góp phần tìm hiểu quá trình hình thành, - Góp phần tìm hiểu quá trình hình thành, phát triển và giá trị di tích lịch sử chùa quỳnh lâm, huyện đông triều, tỉnh quảng ninh
p phần tìm hiểu quá trình hình thành, (Trang 1)
Góp phần tìm hiểu quá trình hình thành, - Góp phần tìm hiểu quá trình hình thành, phát triển và giá trị di tích lịch sử chùa quỳnh lâm, huyện đông triều, tỉnh quảng ninh
p phần tìm hiểu quá trình hình thành, (Trang 2)

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w