VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ “HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI” 5 1 “Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội” là một nội dung cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử
Đặc trưng của sản xuất vật chất
- “ Sản xuất vật chất là ” hoạt động mang tính mục đích của con người nhằm tạo ra những tư liệu sinh hoạt cho mình
1 C Mác và Ph Ăngghen: Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, t.32, tr.749
2 C Mác và Ph Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.19, tr.500
3 C Mác và Ph Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.20, tr.641.”
- “Sản xuất vật chất gắn với việc chế “ tạo và sử dụng công cụ lao động ” ”
- “Sản xuất vật chất gắn với việc biến đổi, cải tạo tự nhiên và xã hội.”
Biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
3.1 Phương thức sản xuất, lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất
Để tồn tại và phát triển, con người cần ưu tiên sản xuất Mỗi giai đoạn lịch sử của nhân loại sử dụng những phương thức sản xuất khác nhau Phương thức sản xuất chính là yếu tố quyết định trình độ sản xuất vật chất của xã hội.
Phương thức sản xuất là sự kết hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, phản ánh mối quan hệ giữa con người với tự nhiên và giữa con người với nhau Để tiến hành sản xuất, con người cần hợp tác và trao đổi hoạt động, thiết lập những mối liên hệ và quan hệ nhất định Nói cách khác, phương thức sản xuất chính là cách thức mà con người thực hiện quá trình sản xuất vật chất trong các giai đoạn cụ thể.
Lực lượng sản xuất được định nghĩa là sự kết hợp giữa người lao động và tư liệu sản xuất, tạo ra sức sản xuất và khả năng thực tiễn để biến đổi các đối tượng vật chất trong tự nhiên, đáp ứng nhu cầu của con người và xã hội.
Người lao động là những cá nhân sở hữu tri thức, kinh nghiệm và kỹ năng, đặc biệt là khả năng sáng tạo trong quá trình sản xuất Họ không chỉ là những người sáng tạo mà còn là những người tiêu dùng, đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế.
4 C Mác và Ph Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.552
Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang làm nổi bật vai trò của 9 loại hình lao động, trong bối cảnh nền kinh tế thế giới chuyển dịch sang nền kinh tế tri thức Điều này cho thấy tỉ trọng lao động cơ bắp đang giảm, trong khi tỉ trọng lao động trí tuệ ngày càng tăng lên.
Tư liệu sản xuất là điều kiện vật chất cần thiết để tổ chức sản xuất, bao gồm tư liệu lao động và đối tượng lao động Đối tượng lao động là những yếu tố vật chất mà con người tác động lên bằng tư liệu lao động để biến đổi chúng cho mục đích sản xuất Đối tượng lao động được chia thành hai thành phần: có sẵn trong tự nhiên và đã qua chế biến Tư liệu lao động là những yếu tố vật chất mà con người sử dụng để tác động lên đối tượng lao động, nhằm biến đổi chúng thành sản phẩm đáp ứng yêu cầu sản xuất.
Tư liệu lao động bao gồm phương tiện và công cụ lao động, trong đó phương tiện lao động là các yếu tố vật chất của sản xuất tác động lên đối tượng lao động Công cụ lao động là phương tiện mà con người sử dụng trực tiếp để tác động lên đối tượng lao động, đóng vai trò trung gian giữa người lao động và đối tượng lao động Trước đây, con người sử dụng công cụ lao động như rìu đá để biến đổi thân cây thành gỗ, phục vụ nhu cầu làm nhà Ngày nay, công cụ lao động đã phát triển thành cưa máy, cho phép tác động vào thân cây với năng suất và chất lượng gỗ vượt trội hơn C Mác từng khẳng định rằng sự khác biệt giữa các thời đại kinh tế không chỉ nằm ở sản phẩm mà còn ở cách thức sản xuất và tư liệu lao động được sử dụng.
Đặc trưng chủ yếu của lực lượng sản xuất là mối quan hệ giữa người lao động và công cụ lao động Trong đó, người lao động đóng vai trò quyết định và là nhân tố hàng đầu Họ là chủ thể sáng tạo, đồng thời sử dụng công cụ lao động để phát triển sản xuất.
5 C Mác và Ph Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.23, tr.269
Công cụ lao động là một trong những yếu tố quan trọng trong sản xuất, bên cạnh trình độ của người lao động Sự hiệu quả của tư liệu sản xuất phụ thuộc vào kỹ năng và năng lực của người lao động Do đó, cả công cụ lao động và người lao động đều đóng vai trò thiết yếu trong quá trình sản xuất.
Sự phát triển lực lượng sản xuất bao gồm cả tính chất và trình độ Tính chất của lực lượng sản xuất phản ánh cách thức cá nhân hoặc xã hội sử dụng tư liệu sản xuất, trong khi trình độ thể hiện sự tiến bộ của người lao động và công cụ lao động Điều này được minh chứng qua các yếu tố như công cụ lao động, tổ chức lao động xã hội, ứng dụng khoa học vào sản xuất, cũng như kinh nghiệm và kỹ năng của người lao động và phân công lao động trong xã hội.
Ngày nay, khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, đóng vai trò quan trọng trong mọi biến đổi của lực lượng sản xuất và góp phần gia tăng năng suất liên tục Khoa học không chỉ giải quyết các mâu thuẫn trong lực lượng sản xuất mà còn thâm nhập vào tất cả các yếu tố và giai đoạn quan trọng của quá trình sản xuất Hiện tại, không có quá trình sản xuất nào có thể thiếu sự hỗ trợ của khoa học.
Quan hệ sản xuất là tổng hợp các mối quan hệ kinh tế và vật chất giữa con người trong quá trình sản xuất Nó được thể hiện qua ba khía cạnh chính.
Quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất được thể hiện qua hai hình thức chính: sở hữu tư nhân và sở hữu xã hội Lịch sử cho thấy, hai hình thức này đóng vai trò quan trọng trong việc xác định cách thức tổ chức và quản lý tư liệu sản xuất trong xã hội.
Quan hệ tổ chức quản lý sản xuất phụ thuộc vào quyền sở hữu tư liệu sản xuất Những chủ thể xã hội sở hữu tư liệu sản xuất chủ yếu sẽ đảm nhận vai trò tổ chức và quản lý quá trình sản xuất vật chất trong xã hội.
Quan hệ phân phối sản phẩm lao động phụ thuộc vào quyền sở hữu tư liệu sản xuất Những chủ thể xã hội sở hữu tư liệu sản xuất sẽ có mức hưởng thụ cao hơn và quyền quyết định trong việc phân phối sản phẩm vật chất của xã hội.
Sự phát triển các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên
5.1 “ Phạm“trù hình thái kinh tế - xã hội” ”
Hình thái kinh tế - xã hội là khái niệm quan trọng trong chủ nghĩa duy vật lịch sử, phản ánh sự phát triển của xã hội qua các giai đoạn lịch sử khác nhau Nó thể hiện mối quan hệ sản xuất đặc trưng cho từng xã hội, tương ứng với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng được xây dựng dựa trên những quan hệ này.
Khái niệm "hình thái kinh tế - xã hội" mô tả cấu trúc xã hội trong từng giai đoạn lịch sử, bao gồm ba yếu tố chính: lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất (cơ sở hạ tầng) và kiến trúc thượng tầng Lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất kỹ thuật của mọi hình thái kinh tế - xã hội, trong khi quan hệ sản xuất đóng vai trò là cơ sở kinh tế, giúp phân biệt các xã hội khác nhau Kiến trúc thượng tầng có chức năng duy trì, bảo vệ và phát triển cơ sở hạ tầng cũng như các khía cạnh của đời sống xã hội.
Phạm trù hình thái kinh tế xã hội phản ánh toàn diện nhiều khía cạnh của xã hội, cho phép phân tích từng quốc gia, dân tộc và giai đoạn lịch sử thông qua lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng Điều này giúp con người có cái nhìn sâu sắc hơn về tư duy lịch sử xã hội.
5.2 “ Tiến“trình lịch sử - tự nhiên của xã hội loài”người ”
Lịch sử xã hội loài người đã trải qua năm hình thái kinh tế - xã hội chính, bao gồm: cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa Những hình thái này thay đổi liên tục, phản ánh sự phát triển từ thấp đến cao trong tiến trình lịch sử.
Quy luật cơ bản trong sự vận động của các quy luật khách quan là mối quan hệ giữa sản xuất và lực lượng sản xuất, trong đó kiến trúc thượng tầng cần phải phù hợp với cơ sở hạ tầng.
Nguyên nhân sâu xa của sự phát triển xã hội bắt nguồn từ sự phát triển của lực lượng sản xuất, đặc biệt là công cụ lao động Sự thay đổi của lực lượng sản xuất dẫn đến sự thay đổi trong quan hệ sản xuất, từ đó kéo theo sự biến đổi của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng Do đó, sự thay đổi của lực lượng sản xuất được coi là nguyên nhân chính, và sự phát triển này cũng tạo ra mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất tiên tiến và quan hệ sản xuất lỗi thời.
Lịch sử xã hội loài người đã trải qua các hình thái kinh tế - xã hội từ thấp đến cao, và theo Mác, sự phát triển này là một quá trình lịch sử - tự nhiên Điều này nhấn mạnh rằng sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội tuân theo quy luật khách quan.
Sự thay thế và phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội phụ thuộc vào nhiều nguyên nhân chủ quan Mặc dù xu hướng chung là phát triển từ thấp đến cao, nhưng các điều kiện cụ thể của mỗi dân tộc, bao gồm văn hóa, truyền thống và tương quan giữa các giai cấp xã hội, có thể dẫn đến việc một số quốc gia không đi theo lộ trình tuần tự mà bỏ qua một hoặc vài hình thái để tiến lên hình thái cao hơn Tất cả những phát triển nhảy vọt này đều phải trải qua một thời kỳ quá độ, và bản chất của sự phát triển rút ngắn chính là việc rút ngắn quá trình này.
13 C Mác và Ph Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.23, tr.21
Nền văn minh loài người trải qua nhiều giai đoạn, trong đó sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất là cốt lõi Tuy nhiên, những bước tiến này không thể thiếu sự tuân thủ những quy luật khách quan và chủ quan nhất định.
5.3.“ “ Giá trị khoa học bền vững và ý nghĩa cách mạng” ”
Lý luận hình thái kinh tế xã hội đã mang lại một cuộc cách mạng trong cách hiểu về lịch sử xã hội, đồng thời bác bỏ những quan điểm duy tâm và duy vật tầm thường, giúp lý giải rõ ràng hơn về sự vận động và phát triển của xã hội loài người.
Đảng và Nhà nước ta đã xác định con đường phát triển chủ nghĩa xã hội tại Việt Nam, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa Điều này đồng nghĩa với việc phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội, không xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản, nhưng vẫn tiếp thu những thành tựu kinh tế và xã hội của nhân loại dưới chủ nghĩa tư bản Mục tiêu là phát triển nhanh lực lượng sản xuất và xây dựng nền kinh tế hiện đại.
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội không chỉ là cơ sở khoa học cho tranh luận tư tưởng và lý luận, mà còn là phương pháp luận quan trọng trong nhận thức và cải tạo xã hội Nó giúp phê phán các quan điểm, học thuyết sai trái và tư tưởng phản động, nhằm bảo vệ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
14 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, NXB Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2006, t.60, tr.23
SỰ VẬN DỤNG HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA ĐẢNG TA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY”
Các nội dung đã áp dụng
1.1 “ Xây“dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, bỏ qua tư bản chủ nghĩa”
Chủ nghĩa xã hội được nhận thức là con đường duy nhất giải phóng nhân dân khỏi áp bức và bất công, mang lại cuộc sống ấm no và hạnh phúc, đặc biệt sau thắng lợi của Cuộc Cách mạng tháng Mười Nga Trong bối cảnh khó khăn, Đảng ta đã quyết định tiến lên con đường xã hội chủ nghĩa, bỏ qua tư bản chủ nghĩa Với sự kiên định của toàn Đảng và sự hỗ trợ của nhân dân, nhà nước ta đã xây dựng nền độc lập gắn liền với chế độ xã hội chủ nghĩa vững chắc.
Đảng ta đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin và học thuyết hình thái kinh tế - xã hội để đề ra “đường lối phát triển nền kinh tế thị trường hướng tới xã hội chủ nghĩa.” Tại Đại hội IX (2001), Đảng và Nhà nước khẳng định thực hiện chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, với sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa Đây là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhằm phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội.
15 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), NXB Chính trị quốc gia
Sự thật, Hà Nội, 2005, tr.477
16 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Sđd, tr.470
Phát huy nội lực và tranh thủ nguồn lực bên ngoài là chìa khóa để phát triển kinh tế nhanh, hiệu quả và bền vững Tăng trưởng kinh tế cần gắn liền với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, cũng như bảo vệ môi trường Đồng thời, cần kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh Việc sử dụng cơ chế thị trường và áp dụng các phương pháp quản lý kinh tế thị trường sẽ giúp kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, đồng thời phát huy mặt tích cực và khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế này.
1.2 “ Xây dựng xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân”
Sản xuất vật chất đóng vai trò quan trọng trong sự tồn tại và phát triển của xã hội, là nền tảng tạo ra tư liệu sinh hoạt cần thiết cho con người Để xây dựng một xã hội chủ nghĩa vì dân, cần tạo điều kiện cho nhân dân phát huy khả năng, trí tuệ và sự sáng tạo, từ đó nâng cao năng suất lao động Mục tiêu chính là cải thiện đời sống người dân và phát triển nền kinh tế đất nước.
1.3 Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Trong Đại hội XII (2016), Đảng xác định nhiệm vụ phát triển kinh tế nhanh và bền vững, với mục tiêu tăng trưởng cao hơn 5 năm trước, đồng thời giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô Các biện pháp bao gồm đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, và đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn Đảng cũng nhấn mạnh phát triển kinh tế tri thức, nâng cao trình độ khoa học - công nghệ, cải thiện năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh của nền kinh tế, hướng tới xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế.
17 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Sđd, tr.481
18 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Sđd, tr.638
19 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Sđd, tr.636-637
Đảng ta đã nhận thức rõ mối quan hệ biện chứng giữa quan hệ sản xuất và sự phát triển của lực lượng sản xuất, cũng như giữa kiến trúc thượng tầng và cơ sở hạ tầng Điều này giúp đề ra mục tiêu đúng đắn trong công cuộc phát triển đất nước, bao gồm cả công nghiệp hóa và hiện đại hóa Đồng thời, Đảng và nhà nước cũng chú trọng áp dụng các thành tựu khoa học – kỹ thuật vào sản xuất để nâng cao năng suất lao động và tăng trưởng hiệu quả kinh tế.
Các thành tựu đạt được
Giai đoạn 1986 - 1990: Đây là giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới“và
Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế, với GDP tăng 4,4% mỗi năm Tổng giá trị sản xuất nông nghiệp tăng bình quân từ 3,8 đến 4% hàng năm, trong khi ngành công nghiệp ghi nhận mức tăng bình quân 7,4% mỗi năm, đặc biệt sản xuất hàng tiêu dùng tăng từ 13 đến 14% mỗi năm Đặc biệt, giá trị kim ngạch xuất khẩu đã tăng 28% mỗi năm.
Giai đoạn 1991 - 1995 đánh dấu sự phục hồi của đất nước sau thời kỳ trì trệ, với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và liên tục GDP bình quân tăng 8,2% mỗi năm, giá trị sản xuất công nghiệp tăng 13,3%, nông nghiệp tăng 4,5%, và lĩnh vực dịch vụ tăng 12% mỗi năm Tổng sản lượng lương thực trong 5 năm đạt 125,4 triệu tấn, tăng 27% so với giai đoạn 1986 - 1990.
Giai đoạn 1996 - 2000 đánh dấu sự phát triển quan trọng của nền kinh tế Việt Nam trong thời kỳ mới, với tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đạt 7% Cụ thể, nông, lâm, ngư nghiệp tăng 4,1%, công nghiệp và xây dựng tăng 10,5%, trong khi các ngành dịch vụ tăng 5,2%.
Trong cuốn sách "Những thành tựu về kinh tế - xã hội qua 20 năm đổi mới (1986 - 2005)", tác giả Võ Hồng Phúc đã phân tích những bước tiến vượt bậc của Việt Nam trong giai đoạn đổi mới Từ năm 1986 đến 2005, đất nước đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong lĩnh vực kinh tế và xã hội, góp phần nâng cao đời sống nhân dân và phát triển bền vững Cuốn sách, được xuất bản bởi NXB Chính trị quốc gia Sự thật tại Hà Nội năm 2006, cung cấp cái nhìn sâu sắc về quá trình đổi mới và những tác động tích cực của nó đối với sự phát triển của Việt Nam.
21 Võ Hồng Phúc: Những thành tựu về kinh tế - xã hội qua 20 năm đổi mới (1986 - 2005), Sđd, tr.143
22 Võ Hồng Phúc: Những thành tựu về kinh tế - xã hội qua 20 năm đổi mới (1986 - 2005), Sđd, tr.144
Giai đoạn 2001 - 2005 đánh dấu sự sâu sắc trong sự nghiệp đổi mới, với nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng cao GDP bình quân tăng 7,5% mỗi năm, trong đó năm 2005 đạt 8,4% Cụ thể, nông nghiệp tăng 3,8%, công nghiệp và xây dựng tăng 10,2%, và các ngành dịch vụ tăng 7%.
Giai đoạn 2006 - 2010, Việt Nam đã thoát khỏi tình trạng kém phát triển, chuyển từ nhóm nước thu nhập thấp sang nước có thu nhập trung bình (thấp), với GDP bình quân 5 năm đạt 7% Tổng vốn FDI thực hiện gần 45 tỷ USD, vượt 77% so với kế hoạch, trong khi tổng vốn đăng ký mới và tăng thêm ước đạt 150 tỷ USD, gấp hơn 2,7 lần kế hoạch và hơn 7 lần so với giai đoạn 2001 - 2005 Tổng vốn ODA cam kết đạt trên 31 tỷ USD, gấp hơn 1,5 lần mục tiêu, với giải ngân ước đạt khoảng 13,8 tỷ USD, vượt 16% GDP năm 2010 theo giá thực tế đạt 101,6 tỷ USD, gấp 3,26 lần so với năm 2000.
Vào năm 2011, mặc dù quá trình phục hồi kinh tế sau khủng hoảng tài chính toàn cầu diễn ra chậm chạp, nhưng mức tăng trưởng kinh tế bình quân đạt 7%/năm Mặc dù con số này thấp hơn kế hoạch đề ra (7,5% - 8%), nhưng vẫn được đánh giá cao hơn mức trung bình của các quốc gia trong khu vực.
Trong khoảng thời gian 20 năm từ 1991 đến 2011, Việt Nam đạt mức tăng trưởng GDP ấn tượng với tỷ lệ 7,34% mỗi năm, đứng trong nhóm cao ở khu vực Đông Nam Á, châu Á và toàn cầu Quy mô kinh tế của Việt Nam vào năm 2011 đã tăng lên hơn 4,4 lần so với năm 1990 và gấp hơn 2,1 lần so với năm 2000, với mức tăng trưởng bình quân trong giai đoạn 2001 - 2011 đạt 7,14% mỗi năm.
Giai đoạn 2011-2020, kinh tế vĩ mô Việt Nam ổn định và lạm phát được kiểm soát ở mức thấp, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế-xã hội Trong giai đoạn 2011-2015, tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm đạt được những kết quả tích cực.
23 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội,
24 Báo cáo Tình hình kinh tế - xã hội năm 2011, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2012 và 5 năm 2011 - 2015, chinhphu.vn
25 Dương Ngọc: Kinh tế Việt Nam: 67 năm qua các con số, VnEconomy
Trong giai đoạn 2016-2019, GDP của Việt Nam đạt bình quân 6,8% mỗi năm, đưa đất nước trở thành một trong những nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao nhất khu vực Theo đánh giá của IMF, Việt Nam nằm trong Top 20 nền kinh tế có đóng góp lớn nhất vào tăng trưởng toàn cầu vào năm 2019.
Năm 2020, mặc dù nhiều quốc gia trên thế giới rơi vào suy thoái do tác động của COVID-19, Việt Nam vẫn duy trì tăng trưởng dương 2,9% và bảo đảm an sinh xã hội Các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước đều đánh giá cao thành tựu này của Việt Nam vào cuối năm 2020.
Việt Nam đã đạt được "mục tiêu kép" trong việc phòng chống COVID-19 và duy trì tăng trưởng kinh tế Theo tạp chí The Economist, vào tháng 8/2020, Việt Nam được xếp hạng trong top 16 nền kinh tế mới nổi thành công nhất trên toàn cầu.
Nền kinh tế đang phát triển đồng đều trên các ngành, với sự ổn định nổi bật trong ngành nông nghiệp, đặc biệt là sản xuất lương thực, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia Sản phẩm công nghiệp ngày càng đa dạng, chất lượng được cải thiện, nâng cao khả năng cạnh tranh và đáp ứng nhu cầu của thị trường trong nước cũng như mở rộng xuất khẩu Đồng thời, đầu tư vào các ngành công nghiệp mới và công nghệ cao cũng được chú trọng, trong khi khu vực dịch vụ ghi nhận tốc độ tăng trưởng ổn định.
Hệ thống tổ chức bộ máy của chính trị Việt Nam đang được tinh gọn và hoạt động hiệu lực, hiệu quả hơn Đảng tiếp tục đổi mới và hoàn thiện phương thức lãnh đạo, trong khi các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội được sắp xếp lại để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới Chức năng, nhiệm vụ và mối quan hệ công tác của các tổ chức trong hệ thống chính trị cũng được phân định và điều chỉnh cho phù hợp hơn.
Đảng tiếp tục đổi mới hệ thống chính trị thông qua việc ban hành nhiều quy chế và quy định, nhằm giữ vững vai trò lãnh đạo và phát huy tính chủ động của các tổ chức Quốc hội cũng có nhiều đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động, góp phần tạo ra những thay đổi lớn trong đời sống xã hội và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa Quyền làm chủ của nhân dân được cải thiện, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế và chính trị, nhờ vào hệ thống luật pháp và cơ chế chính sách ngày càng phù hợp với thông lệ quốc tế Những thành tựu này đã được thế giới ghi nhận và nhận được sự đồng tình ủng hộ từ nhân dân.
2.3 Về văn hóa – xã hội
Các hạn chế còn tồn tại
3.1 Trình độ lực lượng sản xuất không đồng đều
Trình độ lực lượng sản xuất của Việt Nam hiện nay rất không đồng đều, đây là một hạn chế lớn trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường Sự không đồng đều này thể hiện rõ ở hai yếu tố chính: người lao động và công cụ lao động Về người lao động, Việt Nam có cả những cá nhân tay nghề cao, được đào tạo bài bản và cũng có nhiều lao động chân tay, không qua đào tạo chính quy Tương tự, trong lĩnh vực công cụ lao động, chúng ta sử dụng kết hợp giữa máy móc hiện đại với năng suất cao và những công cụ thô sơ, dẫn đến hiệu quả kinh tế chưa cao.
“ Phạm Xuân Nam: Kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội trong mô hình phát triển của Việt
Nam ở thời kỳ đổi mới, Tạp chí Khoa học xã hội Việt nam, số 12-2010, tr.10.”
3.2 Quan hệ trao đổi không thuần nhất
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, quan hệ trao đổi thường bị bỏ qua, mặc dù đây là vấn đề mà các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác-Lênin đã nhấn mạnh Tương tự như quan hệ sản xuất, quan hệ trao đổi tại Việt Nam cũng không đồng nhất, không hoàn toàn tuân theo quy luật thị trường hay các nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội.
3.3 Tư tưởng lệch lạc, chống phá “ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của một số cá nhân”
Trong thời đại công nghệ thông tin phát triển, không khó để nhận diện những cá nhân có tư tưởng lệch lạc, chống phá Đảng và Nhà nước Họ không chỉ bôi nhọ và xuyên tạc các chính sách, pháp luật của Việt Nam, mà còn tích cực tuyên truyền, lôi kéo người khác tham gia vào các hoạt động vi phạm pháp luật Những hành vi này ngày càng tinh vi và không chỉ diễn ra trong nước mà còn lan rộng ra nhiều quốc gia khác, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến Đảng và dân tộc Việt Nam, bao gồm cả cộng đồng kiều bào ở nước ngoài.
Các biện pháp khắc phục
4.1 Nâng cao trình độ của lực lượng sản xuất, kết hợp công cụ lao động tiên tiến
Nâng cao tay nghề và trình độ của lực lượng lao động là yếu tố quan trọng để phát triển nền kinh tế Do đó, việc chú trọng nâng cao trình độ cho người lao động từ sớm là cần thiết Chúng ta cần hỗ trợ người lao động trong việc định hướng ngành nghề và công việc phù hợp với khả năng và sở thích của bản thân, từ đó tạo ra một lực lượng sản xuất chất lượng và hiệu quả hơn.
30 người lao động nên tập trung vào việc phát triển chuyên môn để nâng cao khả năng tư duy, sáng tạo và thích ứng với công việc Doanh nghiệp cũng cần đào tạo nguồn lao động phù hợp với chuyên môn, nhằm tối ưu hóa hiệu quả làm việc Hơn nữa, việc kết hợp giữa người lao động và công cụ sản xuất hiện đại là cần thiết để nâng cao năng suất lao động và giá trị sản phẩm.
4.2 Giải quyết mối quan hệ trao đổi
Để cải thiện quan hệ trao đổi, cần hoàn thiện cơ sở pháp lý nhằm đảm bảo các bên tham gia có thể giải quyết vấn đề một cách hài hòa.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mối quan hệ trao đổi được thiết lập dựa trên quy luật giá trị, cung cầu và thị trường chung Để cải thiện quan hệ trao đổi, Việt Nam cần xử lý đúng mối quan hệ giữa nhà nước, thị trường và xã hội, đồng thời tuân thủ các quy luật của kinh tế thị trường Thị trường sẽ được đảm bảo theo định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng Cộng sản, và các thị trường khác nhau cần được phát triển đồng thời.
4.3.“Giáo dục, “ tuyên truyền nâng cao nhận thức của người dân, xây dựng khối đoàn kết xây dựng ” mục tiêu chung của toàn dân tộc”
Mỗi cá nhân cần trang bị kiến thức nền tảng về tư tưởng và chính sách của Đảng, Nhà nước, từ đó hình thành tính tích cực và tự giác trong hành động thực tiễn nhằm hiện thực hóa mục tiêu lý tưởng của Đảng Đồng thời, công dân cũng có trách nhiệm tuyên truyền và nâng cao nhận thức cho gia đình và những người xung quanh, góp phần phòng ngừa các vấn đề xã hội.
Cần ngăn chặn những nhận thức lệch lạc và hành động sai trái, đồng thời chú trọng xây dựng và giữ gìn khối đại đoàn kết toàn dân tộc Điều này nhằm tránh để các thế lực thù địch lợi dụng các vấn đề phát sinh để chống phá và kích động quần chúng nhân dân.
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là nội dung cốt lõi của chủ nghĩa duy vật lịch sử, giúp các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác chỉ ra quy luật vận động của xã hội loài người Dù đã trải qua thời gian dài, học thuyết này vẫn giữ nguyên giá trị, đặc biệt đối với các quốc gia theo đuổi chủ nghĩa xã hội như Việt Nam Đảng và nhà nước ta đã và đang áp dụng tri thức của học thuyết trong xây dựng và phát triển chế độ xã hội chủ nghĩa và nền kinh tế thị trường, với mục tiêu nâng cao đời sống nhân dân Nhờ vào việc áp dụng học thuyết, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng tự hào trong 35 năm đổi mới, tuy nhiên vẫn còn tồn tại những hạn chế cần được khắc phục triệt để.
Công cuộc xây dựng và phát triển đất nước theo chế độ xã hội chủ nghĩa là trách nhiệm chung của toàn dân tộc, đòi hỏi mỗi cá nhân, đặc biệt là thế hệ trẻ, phải có trách nhiệm trong việc hoàn thành mục tiêu này Thế hệ trẻ, với vai trò là chủ nhân tương lai của đất nước, cần trau dồi và nuôi dưỡng hệ tư tưởng chính trị vững chắc, đồng thời tránh bị ảnh hưởng bởi các thế lực thù địch và quan điểm sai lệch Do đó, việc học tập và nắm vững tri thức từ triết học Mác – Lênin là rất quan trọng, giúp vận dụng vào đời sống xã hội và góp phần vào công cuộc phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa.