Mục tiêu: 1. Khảo sát nồng độ magne máu ở bệnh nhân nặng tại Khoa Nhi Cấp cứu Hồi sức tích cực và chống độc, Bệnh viện Phụ sản Nhi Đà Nẵng. 2. Khảo sát mối liên quan giữa nồng độ magne máu với một số đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng ở bệnh nhân nặng tại Khoa Nhi Cấp cứu Hồi sức tích cực Chống độc, Bệnh viện Phụ sản Nhi Đà Nẵng.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Trong khoảng thời gian từ tháng 12 năm 2020 đến tháng 09 năm 2021, Khoa Nhi Cấp cứu - Hồi sức tích cực - Chống độc, Bệnh viện Phụ sản – Nhi Đà Nẵng đã tiếp nhận 173 bệnh nhi nặng, với độ tuổi từ 01 tháng đến 16 tuổi, để điều trị.
Trong khoảng thời gian từ tháng 12 năm 2020 đến tháng 9 năm 2021, bệnh nhân nặng đã được nhập vào khoa Nhi Cấp cứu - Hồi sức tích cực và chống độc theo tiêu chuẩn của hướng dẫn ETAT của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) Những bệnh nhân này cần có ít nhất một trong các vấn đề sức khỏe nghiêm trọng.
+ Ngưng thở: ngừng thở kéo dài hơn 20 giây, hoặc nếu thời gian ngắn hơn thì kết hợp với nhịp tim chậm hoặc tím tái
+ Tắc nghẽn đường hô hấp trên: xảy ra khi một dị vật hoặc tình trạng bệnh lý làm tắc nghẽn khí quản, thanh quản hoặc hầu họng
+ Hạ oxy máu: nồng độ oxy trong máu thấp bất thường (độ bão hòa oxy SpO2 < 90%)
+ Tím trung tâm: da, niêm mạc và lưỡi chuyển màu xanh tím
+ Suy hô hấp nặng: thở rất nhanh, rút lõm lồng ngực nặng, sử dụng cơ hô hấp phụ, đầu gật gù
Không bú hoặc ăn được là tình trạng không thể tiếp nhận thức ăn qua đường tiêu hóa Sốc được biểu hiện qua các dấu hiệu như chi lạnh, thời gian đổ đầy mao mạch kéo dài hơn 3 giây, cùng với mạch nhanh và yếu Tất cả các dấu hiệu này cần phải có để xác định tình trạng sức khỏe.
Mất nước nặng có thể được nhận diện qua hai hoặc nhiều dấu hiệu như: tình trạng ngủ li bì hoặc mất ý thức, mắt trũng, khả năng uống nước kém hoặc không thể uống, và nếp véo da trở lại rất chậm (≥ 2 giây).
+ Chảy máu tiếp diễn cần truyền máu: hematocrit (Hct) < 15% hoặc hemoglobin (Hb) < 5 g/dL
Hôn mê là trạng thái mất ý thức, được đánh giá ban đầu qua thang điểm AVPU, bao gồm các mức độ: tỉnh (A), đáp ứng với lời nói (V), đáp ứng với kích thích đau (P) và hôn mê (U) Khi điểm AVPU thấp hơn A, cần sử dụng thang điểm Glasgow (GCS) để xác định mức độ hôn mê ở trẻ em Nếu GCS ≤ 12 điểm, thì đối tượng đó sẽ được chọn để nghiên cứu.
Co giật là những triệu chứng tạm thời do hoạt động thần kinh quá mức hoặc đồng bộ bất thường của các tế bào thần kinh trong não, với khởi đầu và kết thúc rõ ràng Triệu chứng co giật có thể bao gồm nhiều thay đổi về thể chất hoặc ý thức, với mức độ nghiêm trọng khác nhau.
- Bệnh nhân hoặc gia đình từ chối tham gia nghiên cứu
Khoa Nhi Cấp cứu - Hồi sức tích cực - Chống độc, Bệnh Viện Phụ sản - Nhi Đà Nẵng
Từ tháng 12 năm 2020 đến tháng 09 năm 2021
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu mô tả, cắt ngang
2.2.2 Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu
2.2.3 Các biến số nghiên cứu
Tên biến số Loại biến số Giá trị
THÔNG TIN CHUNG CỦA ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Tuổi Định lượng Tuổi của bệnh nhân Đơn vị: tháng
Chia thành 4 nhóm: 1 tháng tuổi - 1 tuổi, > 1 tuổi - 5 tuổi, > 5 tuổi - 10 tuổi và > 10 tuổi
Giới tính Nhị phân Chia 2 nhóm nam và nữ Địa dư Định danh Chia 3 nhóm thành thị, nông thôn và miền núi ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG
Khi nhập khoa Hồi sức, bệnh nhân được chẩn đoán theo 8 nhóm bệnh lý chính, bao gồm nhiễm trùng huyết, bệnh hô hấp, bệnh tim mạch, bệnh tiêu hóa, bệnh thần kinh, hậu phẫu tim bẩm sinh, chấn thương và các bệnh lý khác.
Scale (GCS) Định lượng Chấm điểm hôn mê của bệnh nhân theo thang điểm Glasgow cải tiến Đơn vị: điểm
Phản ứng của đồng tử
Nhị phân Đánh giá có hoặc không
Nhiệt độ cơ thể Định lượng Đơn vị 0 C
Huyết áp động mạch trung bình Định lượng Huyết áp trung bình của động mạch Đơn vị: mmHg
Tần số tim Định lượng Đơn vị: lần/phút
Tần số thở Định lượng Đơn vị: nhịp/phút
Ngưng thở Nhị phân Đánh giá có hoặc không
Tắc nghẽn đường hô hấp trên
Nhị phân Đánh giá có hoặc không
Hạ oxy máu Nhị phân Đánh giá có hoặc không
Tím trung tâm Nhị phân Đánh giá có hoặc không
Suy hô hấp nặng Nhị phân Đánh giá có hoặc không
Không bú/ăn được Nhị phân Đánh giá có hoặc không
Sốc Nhị phân Đánh giá có hoặc không
Mất nước nặng Nhị phân Đánh giá có hoặc không
Chảy máu tiếp diễn cần truyền máu
Nhị phân Đánh giá có hoặc không
Hôn mê Nhị phân Đánh giá có hoặc không
Co giật Nhị phân Đánh giá có hoặc không
Nhị phân Đánh giá có hoặc không
Thời gian thở máy xâm nhập Định lượng Đơn vị: ngày
Thời gian nằm tại khoa Hồi sức Định lượng Đơn vị: ngày
Kết cục Nhị phân trong chăm sóc sức khỏe trẻ em có thể được phân loại thành sống hoặc tử vong Điểm PELOD-2 là thang điểm quan trọng để định lượng mức độ suy chức năng đa cơ quan ở trẻ em, với đơn vị tính là điểm Các đặc điểm cận lâm sàng liên quan đến thang điểm này đóng vai trò quan trọng trong việc đánh giá tình trạng sức khỏe của trẻ.
Nồng độ Magne máu Định lượng Đơn vị: mmol/L Chia 3 nhóm: Mg máu bình thường (0,7 - 1,2 mmol/L), hạ Mg máu (< 0,7mmol/L) và tăng
Nồng độ Natri máu Định lượng Đơn vị: mmol/L
Nồng độ Kali máu Định lượng Đơn vị: mmol/L Hạ kali máu khi kali
Nồng độ Calci ion máu Định lượng Đơn vị: mmol/L Hạ calci máu khi calci ion < 1,0 mmol/L
Nồng độ Creatinine máu Định lượng Đơn vị: μmol/L
Nồng độ Lactate máu Định lượng Đơn vị: mmol/L
Hct Định lượng Đơn vị %
Bạch cầu máu Định lượng Đơn vị x 10 9 /L
Tiểu cầu máu Định lượng Đơn vị x 10 9 /L
INR Định lượng Tỉ lệ chuẩn hóa quốc tế
Albumin máu Định lượng Đơn vị g/L Hạ albumin máu khi albumin < 35 g/L pH máu động mạch Định lượng Được đo trong xét nghiệm khí máu động mạch
PaO2 Định lượng Đơn vị mmHg
PaCO2 Định lượng Đơn vị mmHg
2.2.4 Phương pháp thu thập số liệu
- Bước 1: Khám lâm sàng, chọn bệnh nhân nặng đủ tiêu chuẩn chọn bệnh và đồng ý tham gia nghiên cứu
- Bước 2: Thu thập, ghi nhận đầy đủ các thông tin của bệnh nhân theo mẫu bệnh án nghiên cứu
Bước 3 bao gồm việc thực hiện các xét nghiệm cận lâm sàng cần thiết như công thức máu, chức năng đông máu, định lượng lactate máu, điện giải đồ, calci máu, magne máu, albumin máu, và chức năng gan thận, cũng như xét nghiệm khí máu.
- Bước 4: Thu thập số liệu và ghi nhận vào phiếu nghiên cứu
- Bước 5: Xử lý số liệu và viết đề tài
2.2.5 Bộ công cụ thu thập số liệu
Công cụ thu thập số liệu y tế bao gồm phiếu nghiên cứu, thông tin bệnh nhân từ hồ sơ bệnh án, mẫu bệnh phẩm (như máu) được xử lý bằng máy phân tích và hóa chất tại khoa Xét nghiệm, với kết quả cuối cùng được lưu trữ trong hồ sơ bệnh án.
Bộ công cụ thu thập số liệu được phát triển dựa trên các công cụ hiện có từ các nghiên cứu trước, nhằm phục vụ cho mục đích nghiên cứu hiện tại Bộ công cụ này dễ dàng áp dụng và phù hợp với các yêu cầu nghiên cứu cụ thể.
PHƯƠNG PHÁP XỬ LÝ SỐ LIỆU
Các số liệu thu thập được được nhập vào phần mềm Microsoft Excel
2016 và xử lý theo phương pháp thống kê y học, sử dụng phần mềm thống kê
Bệnh nhân nặng đủ tiêu chuẩn chọn bệnh
Để đánh giá sức khỏe, cần thực hiện các xét nghiệm cận lâm sàng như công thức máu, chức năng đông máu, định lượng lactate máu, điện giải đồ, calci máu, magne máu, albumin máu, và chức năng gan thận Ngoài ra, xét nghiệm khí máu cũng rất quan trọng trong việc chẩn đoán tình trạng sức khỏe của bệnh nhân.
Thu thập số liệu, xử lí và viết kết quả đề tài nghiên cứu
Ghi nhận thông tin hành chính tuổi, giới, địa dư và các dấu hiệu lâm sàng: mạch, nhiệt độ, nhịp thở, huyết áp trung bình, GCS …
Kết quả các biến số định tính được phân nhóm và trình bày theo tỉ lệ phần trăm
Kết quả các biến định lượng được phân nhóm và trình bày theo giá trị trung bình, trung vị, độ lệch chuẩn (𝑋𝑋�± SD)
Trung bình và độ lệch chuẩn: biểu thị các đặc tính định lượng bằng giá trị trung bình cộng (𝑋𝑋�) và độ lệch chuẩn (SD) với các biến định lượng
Kiểm định χ2 được sử dụng để xác định mối liên quan giữa các biến số định tính Đối với biến định lượng có phân phối chuẩn, các kiểm định tham số như T test và One way ANOVA được áp dụng, trong khi kiểm định phi tham số như Mann Whitney và Kruskal Wallis được sử dụng cho biến định lượng có phân phối không chuẩn để kiểm tra các giá trị trung bình.
Phân tích tương quan Pearson, hồi quy tuyến tính phân tích sự tương quan của các giá trị định lượng
Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê khi p < 0,05.
ĐẠO ĐỨC TRONG NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu này tuân thủ các quy định đạo đức trong nghiên cứu khoa học và đã được Hội đồng khoa học của Bệnh viện Phụ Sản - Nhi Đà Nẵng phê duyệt Ngoài ra, nghiên cứu cũng được thực hiện với sự đồng ý của Ban lãnh đạo Khoa Nhi Cấp cứu.
Tại Bệnh viện Phụ Sản - Nhi Đà Nẵng, bộ phận hồi sức tích cực và chống độc cam kết thông báo rõ ràng về mục tiêu và phương pháp nghiên cứu cho các gia đình bệnh nhân trước khi tham gia Người nhà hoặc bệnh nhân có quyền tự nguyện tham gia nghiên cứu, cũng như quyền từ chối hoặc rút lui bất kỳ lúc nào mà không cần lý do Tất cả dữ liệu thu thập sẽ chỉ được sử dụng cho mục đích khoa học và thông tin cá nhân sẽ được bảo mật tuyệt đối.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
NỒNG ĐỘ MAGNE MÁU Ở BỆNH NHÂN NẶNG
3.1.1.1 Đặc điểm về tuổi và giới
Biểu đồ 3.1 cho thấy đặc điểm về tuổi của bệnh nhân nặng nhập khoa hồi sức, với độ tuổi dao động từ 1 tháng đến 189 tháng Độ tuổi trung vị của nhóm bệnh nhân này là 15 tháng.
Bảng 3.1 Phân bố nhóm tuổi và giới tính (n3)
- Tỉ lệ bệnh nhân nam (59,5%) cao hơn tỉ lệ bệnh nhân nữ (40,5%)
- Nhóm tuổi ≤ 1 tuổi chiếm tỉ lệ cao nhất (46,8%), tiếp theo là nhóm từ
> 1 tuổi - 5 tuổi (29,5%) và nhóm tuổi > 5 tuổi chiếm (23,7%)
3.1.1.2 Đặc điểm về địa dư
Biểu đồ 3.2 Phân bố bệnh nhân theo địa dư
Nhận xét: Tỉ lệ bệnh nhân nặng sống ở vùng nông thôn và miền núi (54,3%) chiếm hơn một nửa số bệnh nhân nặng nhập khoa hồi sức
Thành thị Nông thôn Miền núi
3.1.2 Đặc điểm lâm sàng bệnh nhân nặng
Bảng 3.2 Nhóm bệnh lý được chẩn đoán khi nhập khoa Hồi sức (n3) Nhóm bệnh lý Số lượng (n) Tỉ lệ (%)
Hậu phẫu tim bẩm sinh 35 20,2
Nhận xét: Bệnh nhân được chẩn đoán bệnh thần kinh nhập khoa Hồi sức cao nhất 22,5% Nhóm bệnh chấn thương hiếm gặp hơn (1,2%)
Bảng 3.3 Các dấu hiệu bệnh nặng theo tiêu chuẩn ETAT (n3)
Các dấu hiệu bệnh nặng Số lượng (n) Tỉ lệ %
Tắc nghẽn hô hấp trên 2 1,2
Chảy máu tiếp diễn cần truyền máu 10 5,8
Bệnh nhân có tỉ lệ cao các dấu hiệu nặng liên quan đến hô hấp, với 54,9% bị hạ oxy máu, 50,9% gặp suy hô hấp nặng Ngoài ra, 30,6% bệnh nhân không thể bú hoặc ăn, và 26,6% rơi vào trạng thái hôn mê.
Bảng 3.4 Điểm Glasgow ở bệnh nhân nặng (n3)
Glasgow Coma Scale Thấp nhất Cao nhất 𝑿𝑿�± SD
Nhận xét: Điểm Glasgow ở bệnh nhân nặng thấp nhất là 3 điểm, giá trị trung bình là 13,0 ± 3,0 điểm
Biểu đồ 3.3 Điểm PELOD-2 ở bệnh nhân nặng (n3)
Nhận xét: Điểm PELOD-2 cao nhất ở bệnh nhân nặng là 20 điểm, giá trị trung bình là 3,95 ± 3,69 điểm, trung vị là 3 điểm
Bảng 3.5 Nhu cầu thông khí cơ học xâm nhập ở bệnh nhân nặng (n3)
Thông khí cơ học xâm nhập Số lượng (n) Tỉ lệ (%)
Nhận xét: Số bệnh nhân nặng cần phải thở máy chiếm tỉ lệ khá cao 42,8%
Bảng 3.6 trình bày thời gian thở máy và thời gian nằm tại khoa Hồi sức của bệnh nhân nặng Thời gian nằm tại khoa Hồi sức dao động từ 0,5 đến 88 ngày, với giá trị trung bình là 10,32 ± 13,72 ngày Trong khi đó, thời gian thở máy xâm nhập có khoảng từ 0,5 đến 49,8 ngày, với giá trị trung bình là 6,06 ± 7,40 ngày.
- Thời gian nằm khoa Hồi sức nhi của bệnh nhân nặng thấp nhất là 0,5 ngày, giá trị trung bình là 10,32 ± 13,72 ngày
- Thời gian thở máy xâm nhập của bệnh nhân nặng dao động từ 0,5 ngày (vài giờ) đến 49,8 ngày, giá trị trung bình là 6,06 ± 7,40 ngày
Bảng 3.7 Kết cục của bệnh nhân nặng ở khoa Hồi sức (n3)
Kết cục Số lượng (n) Tỉ lệ (%)
Nhận xét: Có 13,3% tổng số bệnh nhân nặng có kết cục tử vong
Bảng 3.8 Điểm PELOD-2 ở 2 nhóm kết cục bệnh nhân nặng (n3)
Nhận xét: Điểm PELOD-2 trung bình ở nhóm bệnh nhân tử vong cao hơn nhóm bệnh nhân sống Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05)
3.1.3 Nồng độ Magne máu ở bệnh nhân nặng
Bảng 3.9 Nồng độ Magne máu ở bệnh nhân nặng (n3)
Mg máu (mmol/L) Thấp nhất Cao nhất 𝑿𝑿�± SD
Nhận xét: Nồng độ Magne máu trung bình ở bệnh nhân nặng là 0,88 ±
Tỉ lệ magne máu bất thường ở bệnh nhân nặng đạt 16,2%, trong đó rối loạn chủ yếu là hạ magne máu với tỷ lệ 12,7%.
Mg máu bình thường Hạ Mg máu Tăng Mg máu
MỘT SỐ MỐI LIÊN QUAN GIỮA NỒNG ĐỘ MAGNE MÁU VÀ ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG Ở BỆNH NHÂN NẶNG
3.2.1.1 Mối liên quan giữa tuổi và giới với nồng độ magne máu ở bệnh nhân nặng
Bảng 3.10 Mối liên quan giữa nhóm tuổi và nồng độ magne máu (n3)
Tăng Mg (n=6) máu P lượng Số Tỉ lệ
Nhóm trẻ dưới 12 tháng tuổi có tỷ lệ bất thường nồng độ magne cao nhất, trong khi tình trạng rối loạn magne máu giảm dần theo độ tuổi Tuy nhiên, sự khác biệt này không đạt ý nghĩa thống kê (p > 0,05).
Bảng 3.11 Mối liên quan giữa giới và nồng độ magne máu (n3)
Tăng Mg (n=6) máu P lượng Số Tỉ lệ
Nhận xét: Tỉ lệ hạ magne máu gần tương đương giữa 2 giới, tỉ lệ tăng magne máu gặp nhiều hơn ở nữ (83,8%) Sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05)
3.2.1.2 Mối liên quan giữa địa dư và nồng độ magne máu ở bệnh nhân nặng
Bảng 3.12 Mối liên quan giữa địa dư và nồng độ magne máu (n3) Địa dư
Tăng Mg (n=6) máu P lượng Số Tỉ lệ
Nghiên cứu cho thấy mức độ magne máu ở khu vực thành thị và nông thôn không có sự khác biệt đáng kể Đặc biệt, bệnh nhân nặng tại miền núi không gặp phải tình trạng rối loạn magne máu Kết quả này không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05.
3.2.1.3 Mối liên quan giữa nhóm bệnh lý được chẩn đoán khi vào khoa hồi sức và nồng độ magne máu ở bệnh nhân nặng
Bảng 3.13 Mối liên quan giữa nhóm bệnh lý được chẩn đoán khi vào khoa hồi sức và nồng độ magne máu (n3)
Tăng Mg (n=6) máu P lượng Số Tỉ lệ
Bệnh phổi 22 91,7 0 0,0 2 8,3 P > 0,05 Bệnh tim mạch 7 70,0 2 20,0 1 10,0 P > 0,05 Bệnh tiêu hoá 12 85,7 2 14,3 0 0,0 P > 0,05 Bệnh thần kinh 33 84,6 5 12,8 1 2,6 P > 0,05 Hậu phẫu tim bẩm sinh 33 94,3 2 5,7 0 0,0 P > 0,05
Nhóm bệnh nhân nhiễm trùng huyết có tỉ lệ hạ magne máu cao nhất, đạt 37,5% (p < 0,05) Trong khi đó, nhóm bệnh lý tim mạch cũng ghi nhận tỉ lệ rối loạn magne máu đáng kể, lên đến 30,0%, nhưng sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05).
3.2.1.4 Mối liên quan giữa điểm hôn mê Glasgow và nồng độ magne máu ở bệnh nhân nặng
Bảng 3.14 Mối liên quan giữa điểm Glasgow và nồng độ magne máu
Hạ Mg máu (𝑿𝑿�± SD) Tăng Mg máu
Nhận xét: Bệnh nhân nặng tăng magne máu có điểm Glasgow trung bình
(6,5 ± 4,2) thấp hơn đáng kể so với bệnh nhân có magne máu bình thường và hạ magne máu Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05)
3.2.1.5 Mối liên quan giữa điểm PELOD-2 và nồng độ magne máu ở bệnh nhân nặng
Bảng 3.15 Mối liên quan giữa điểm PELOD-2 và nồng độ magne máu
Điểm PELOD-2 trung bình ở nhóm bệnh nhân có nồng độ magne máu bình thường (3,5 ± 3,1) thấp hơn so với nhóm bệnh nhân có nồng độ magne máu rối loạn Đặc biệt, điểm PELOD-2 cao hơn đáng kể ở những bệnh nhân nặng có tình trạng tăng magne máu (12,8 ± 6,9), cho thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê.
3.2.1.6 Mối liên quan giữa nhu cầu thông khí cơ học xâm nhập và nồng độ magne máu ở bệnh nhân nặng
Bảng 3.16 Mối liên quan giữa nhu cầu thông khí cơ học xâm nhập và nồng độ magne máu (n3)
Tăng Mg (n=6) máu P lượng Tỉ lệ % Số Số lượng Tỉ lệ
Tỉ lệ bệnh nhân nặng với nồng độ magne máu rối loạn cần thở máy xâm nhập cao hơn so với bệnh nhân có nồng độ magne máu bình thường, mặc dù sự khác biệt này không đạt ý nghĩa thống kê (p > 0,05).
3.2.1.7 Mối liên quan giữa thời gian nằm khoa hồi sức và thời gian thở máy xâm nhập với nồng độ magne máu ở bệnh nhân nặng
Bảng 3.17 Mối liên quan giữa thời gian nằm khoa hồi sức và thời gian thở máy xâm nhập với nồng độ magne máu
Mg máu bình thường (𝑿𝑿�± SD)
Tăng Mg máu (𝑿𝑿�± SD) P Ngày nằm hồi sức 10,7 ± 14,7 8,9 ± 5,7 6,7 ± 6,3 P > 0,05
Ngày thở máy xâm nhập 5,9 ± 7,8 8,0 ± 6,7 4,5 ± 3,5 P > 0,05
Sự khác biệt về số ngày trung bình trong hồi sức và số ngày trung bình thở máy xâm nhập giữa ba nhóm bệnh nhân không có ý nghĩa thống kê, với giá trị p lớn hơn 0,05.
3.2.1.8 Mối liên quan giữa kết cục bệnh nhân nặng và nồng độ magne máu
Bảng 3.18 Mối liên quan giữa kết cục bệnh nhân nặng và nồng độ magne máu (n3)
Tăng Mg (n=6) máu P lượng Tỉ lệ % Số Số lượng Tỉ lệ
Nghiên cứu cho thấy bệnh nhân nặng tử vong có nồng độ magne trong máu cao bất thường hơn so với những bệnh nhân nặng được điều trị thành công, với sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05).
3.2.2 Một số mối liên quan giữa nồng độ Magne máu với đặc điểm cận lâm sàng ở bệnh nhân nặng
Biểu đồ 3.5 thể hiện mối tương quan giữa nồng độ natri máu và nồng độ magne máu ở bệnh nhân nặng Kết quả cho thấy nồng độ natri máu có mối tương quan thuận yếu với nồng độ magne máu, với P < 0,05 và hệ số tương quan R = 0,171.
Biểu đồ 3.6 cho thấy mối tương quan thuận trung bình giữa nồng độ kali máu (mmol/L) và nồng độ magne máu (mmol/L) ở bệnh nhân nặng, với giá trị P < 0,05 và hệ số tương quan R = 0,369.
Biểu đồ 3.7 cho thấy mối tương quan giữa nồng độ calci ion hoá trong máu (mmol/L) và nồng độ magne trong máu (mmol/L) ở bệnh nhân nặng Kết quả cho thấy nồng độ calci ion hoá có mối tương quan thuận trung bình với nồng độ magne, với giá trị P < 0,05 và hệ số tương quan R = 0,312.
Biểu đồ 3.8 Mối tương quan giữa albumin máu (g/L) và nồng độ magne máu (mmol/L) ở bệnh nhân nặng
Nhận xét: Albumin máu không có mối tương quan với nồng độ magne máu ở bệnh nhân nặng (P > 0,05; R = 0,133)
Biểu đồ 3.9 cho thấy mối tương quan giữa nồng độ lactat máu và nồng độ magne máu ở bệnh nhân nặng Kết quả cho thấy nồng độ lactat máu có mối tương quan thuận yếu với nồng độ magne máu, với giá trị P < 0,05 và hệ số tương quan R = 0,276.
Biểu đồ 3.10 Sự tương quan giữa pH máu và nồng độ magne máu
Nhận xét: pH máu có mối tương quan nghịch yếu với nồng độ magne máu ở bệnh nhân nặng (P < 0,05; R = -0,244)
Bảng 3.19 Mối liên quan giữa một số bất thường cận lâm sàng và nồng độ magne máu ở bệnh nhân nặng
Bất thường cận lâm sàng
Tăng Mg (n=6) máu P lượng Số Tỉ lệ
Hạ albumin máu 45 71,4 15 23,8 3 4,8 P < 0,05 Toan chuyển hoá 46 69,7 15 22,7 5 7,6 P < 0,05
Tỉ lệ hạ magne máu ở bệnh nhân nặng có tình trạng hạ calci máu, hạ albumin máu và toan chuyển hoá là khá cao, với sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05).
BÀN LUẬN
NỒNG ĐỘ MAGNE MÁU Ở BỆNH NHÂN NẶNG
Trong nghiên cứu của chúng tôi, bệnh nhi nặng nhập khoa hồi sức có độ tuổi từ 1 tháng đến 189 tháng, với tuổi trung bình là 38,8 ± 48,6 tháng và trung vị là 15 tháng Nhóm tuổi từ 1 tháng đến 1 tuổi chiếm đa số với 46,8%, tiếp theo là nhóm từ 1 đến 5 tuổi với 29,5%, trong khi nhóm trên 10 tuổi chỉ chiếm 10,4%.
Nghiên cứu của Dandinavar và cộng sự (2019) cho thấy trong số 343 trẻ nhi bệnh nặng tại PICU, nhóm tuổi dưới 1 tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất với 39,2%, tiếp theo là nhóm từ 1 đến 5 tuổi với 32,1%, trong khi nhóm dưới 10 tuổi có tỷ lệ thấp nhất là 7,5%.
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy kết quả tương đồng với các nghiên cứu trước đây về mô hình bệnh tật ở trẻ em nặng tại khoa hồi sức Cụ thể, nghiên cứu của Joshi và cộng sự (2020) ghi nhận 54% trẻ dưới 12 tháng, 20,2% trẻ từ 1-4 tuổi và 9,5% trẻ trên 10 tuổi Tương tự, nghiên cứu của Dhrubajyoti Mridha và cộng sự (2017) cho thấy 55,2% trẻ từ 1-12 tháng và 20,1% trẻ từ 12-36 tháng.
Tuổi từ 1 đến 12 tháng là nhóm tuổi chiếm đa số trong các nghiên cứu về bệnh nhi nặng tại trung tâm hồi sức nhi, điều này có thể do trẻ trong giai đoạn này bắt đầu tiếp xúc với môi trường bên ngoài, sức đề kháng còn yếu, dễ mắc các bệnh lý cấp tính, và các bệnh lý bẩm sinh nặng cũng diễn tiến xấu trong thời gian này.
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỉ lệ trẻ nam cao hơn trẻ nữ, với 59,5% trẻ nam và 40,5% trẻ nữ (bảng 3.1) Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Abhulimhen-Iyoha và cộng sự (2014), khi tỉ lệ giới tính ở trẻ bệnh nặng tại PICU là 59,8% nam và 40,2% nữ Tương tự, Joshi (2020) cũng báo cáo rằng 61,0% trẻ bệnh nặng là nam và 39,0% là nữ Những dữ liệu này cho thấy sự tương đồng trong phân bố giới tính của trẻ bệnh nặng giữa các nghiên cứu.
4.1.1.3 Đặc điểm về địa dư
Tỉ lệ bệnh nhân nặng sống ở vùng nông thôn và miền núi chiếm 54,3% tổng số bệnh nhân nhập khoa hồi sức, trong đó nông thôn chiếm 47,4% và miền núi là 6,9% Nghiên cứu của Yousef (2019) chỉ ra rằng trẻ em ở nông thôn có tỉ lệ mắc bệnh nặng cao (72,0%) so với trẻ em ở thành phố (28,0%) Kết quả này tương đồng với nghiên cứu của chúng tôi.
4.1.2 Đặc điểm lâm sàng ở bệnh nhân nặng
4.1.2.1 Bệnh lý được chẩn đoán khi nhập khoa hồi sức
Theo nghiên cứu, trong số 173 trẻ nhập viện, 39 trẻ mắc bệnh lý thần kinh (22,5%), 35 trẻ sau phẫu thuật tim bẩm sinh (20,2%), 24 trẻ mắc bệnh hô hấp (13,9%), 16 trẻ bị nhiễm trùng huyết (9,2%), 14 trẻ mắc bệnh tiêu hóa (8,1%), và 33 trẻ thuộc nhóm bệnh khác (19,1%) Nhóm bệnh tim mạch (5,8%) và chấn thương (1,2%) ít gặp hơn Các nghiên cứu trước đây cũng cho thấy bệnh thần kinh và hô hấp là hai nhóm bệnh phổ biến ở trẻ nặng, với tỉ lệ tương tự: bệnh hô hấp 20,9%, bệnh thần kinh 20,3%, bệnh tim mạch 18,9%, và nhiễm trùng huyết 10,8% Nghiên cứu của Singhi ghi nhận bệnh thần kinh chiếm 32% trong số các bệnh nặng, trong khi nghiên cứu của Dhrubajyoti Mridha chỉ ra rằng bệnh hô hấp (32,3%) và thần kinh (17%) là hai nhóm bệnh phổ biến nhất tại các trung tâm hồi sức nhi khoa.
Theo Joshi (2020), hô hấp là nhóm nguyên nhân phổ biến nhất trong các ca nhập viện với tỷ lệ 33,1%, tiếp theo là nhiễm khuẩn huyết với 18,9% Sự khác biệt giữa các kết quả này và nghiên cứu của chúng tôi có thể xuất phát từ thời điểm, khu vực, mô hình bệnh tật và đặc điểm dân số nghiên cứu khác nhau Do đó, việc nhận thức đúng đắn về các nhóm nguyên nhân bệnh lý khi nhập viện hồi sức là rất quan trọng trong thực hành lâm sàng, giúp xây dựng kế hoạch và phương pháp điều trị hiệu quả cho trẻ.
4.1.2.2 Các dấu hiệu bệnh nặng
Theo bảng 3.3 của WHO (2016), triệu chứng hô hấp nặng chiếm ưu thế trong các dấu hiệu bệnh nặng, với tỷ lệ hạ oxy máu là 54,9% và suy hô hấp nặng 50,9% Các triệu chứng khác như không bú/ăn được (30,6%) và hôn mê (26,6%) cũng xuất hiện đáng kể Co giật (22,5%), tím trung tâm (22,0%) và sốc (21,4%) có tỷ lệ cao, trong khi mất nước nặng và tắc nghẽn hô hấp trên hiếm gặp hơn (3,5% và 1,2%) Nghiên cứu của Ngwalangwa F (2019) trên 1365 bệnh nhi nặng cũng ghi nhận suy hô hấp nặng chiếm 41,4%, theo sau là co giật (12,1%) và hôn mê (7,4%) Hô hấp là triệu chứng phổ biến, đặc biệt ở trẻ em và nhũ nhi, do chúng nhạy cảm với nhiễm trùng và dễ bị tắc nghẽn đường hô hấp.
4.1.2.3 Điểm hôn mê Glasgow ở bệnh nhân nặng
Theo bảng 3.4, điểm Glasgow của bệnh nhi nặng dao động từ 3 đến 15 điểm, trung bình 13,0 ± 3,0 điểm Theo nghiên cứu của Ramazani (2019) trên
Trong một nghiên cứu về 90 trẻ nhập khoa hồi sức tích cực nội khoa và hồi sức hậu phẫu, điểm GCS trung bình ở trẻ bệnh nặng là 8,4 ± 2,5 điểm Kết quả này cho thấy sự khác biệt so với nghiên cứu của chúng tôi, có thể do sự khác nhau trong mô hình bệnh tật của dân số nghiên cứu.
4.1.2.4 Điểm PELOD-2 ở bệnh nhân nặng
Theo nghiên cứu của chúng tôi, điểm PELOD-2 của bệnh nhi nặng dao động từ 0 đến 20, với giá trị trung bình là 3,95 ± 3,69 và trung vị là 3 Nghiên cứu của Tạ Anh Tuấn (2021) tại bệnh viện Nhi Trung ương ghi nhận điểm PELOD-2 trung bình là 8,8 ± 3,85, có thể do mô hình bệnh tật và thời điểm lấy mẫu khác nhau Nghiên cứu của Leteurtre (2013) tại 9 trung tâm PICU ở Pháp và Bỉ cho thấy điểm PELOD-2 trung bình ở bệnh nhi nặng là 4,8 ± 4,3, tương tự với kết quả của chúng tôi Đặc biệt, điểm PELOD-2 trung bình ở nhóm bệnh nhân tử vong (8,9 ± 5,5) cao hơn so với nhóm bệnh nhân sống (3,2 ± 2,6), với sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05).
Tạ Anh Tuấn (2021) và Leteurtre (2015) ghi nhận điểm PELOD-2 cao hơn có ý nghĩa thống kê ở bệnh nhi nặng tử vong so sánh với nhóm không tử vong [3],
4.1.2.5 Nhu cầu thông khí cơ học xâm nhập ở bệnh nhân nặng
Theo bảng 3.5, gần một nửa số bệnh nhi nặng nhập hồi sức cần thông khí xâm nhập, với tỷ lệ 42,8% Kết quả này tương đồng với nghiên cứu của Chandrasekhar, trong đó có 44,2% trẻ cần thông khí cơ học tại PICU Tương tự, Erdoğan (2018) ghi nhận 43,9% bệnh nhi nặng cần thông khí xâm nhập Nhìn chung, nhu cầu thông khí xâm nhập ở bệnh nhi nặng tại PICU cao do suy hô hấp là nguyên nhân phổ biến ở trẻ bệnh nặng.
4.1.2.6 Thời gian thở máy và thời gian nằm khoa hồi sức
Thời gian nằm khoa hồi sức nhi của bệnh nhân nặng dao động từ 0,5 đến
88 ngày, giá trị trung bình là 10,32 ± 13,72 ngày Thời gian thở máy xâm nhập của bệnh nhân từ 0,5 ngày đến 49,8 ngày, giá trị trung bình là 6,06 ± 7,40 ngày (bảng 3.6)
Trong nghiên cứu về mô hình bệnh tật tại PICU, Joshi (2020) ghi nhận thời gian nằm PICU trung bình là 5,72 ± 5,7 ngày ở 652 trẻ, trong khi Dhrubajyoti Mridha và cộng sự báo cáo thời gian trung bình là 7,42 ± 7,72 ngày ở 1.231 bệnh nhi Mặc dù kết quả này thấp hơn nghiên cứu của chúng tôi, nhưng chúng tôi có kết quả gần giống với nghiên cứu của Erdoğan (2018) với thời gian nằm PICU trung bình 11,7 ± 14,0 ngày Tuy nhiên, nghiên cứu của Erdoğan cũng chỉ ra thời gian thở máy dài hơn trong nghiên cứu của chúng tôi, với trung bình 12,03 ± 14,45 ngày Sự khác biệt giữa các nghiên cứu có thể xuất phát từ sự khác nhau về mô hình bệnh tật, kiến thức, thực hành, nhân lực và trang thiết bị y tế tại các PICU ở từng khu vực và quốc gia.
Theo kết quả nghiên cứu của chúng tôi, tỉ lệ tử vong ở bệnh nhi nặng là 13,3% Các nghiên cứu trước đây cho thấy tỉ lệ tử vong ở PICU dao động từ 6,1% đến 20,9%, với Joshi và cộng sự ghi nhận 18,46% và Dhrubajyoti Mridha là 20,9% Trong khi đó, Leteurtre (2015) và Faustino (2010) báo cáo tỉ lệ tử vong lần lượt là 6,1% và 7,3%.
Tỉ lệ tử vong trong nghiên cứu của chúng tôi là 16,9% và 24,2%, tương đồng với nghiên cứu của Erdoğan nhưng thấp hơn so với Dhrubajyoti Mridha và Dandinavar, trong khi cao hơn so với nghiên cứu của Leteurtre và Faustino Sự khác biệt này có thể xuất phát từ cỡ mẫu nghiên cứu khác nhau cũng như sự khác biệt trong mô hình bệnh tật, thực hành y tế, nhân lực và trang thiết bị tại các PICU.
4.1.3 Nồng độ magne máu ở bệnh nhân nặng
MỐI LIÊN QUAN GIỮA NỒNG ĐỒ MAGNE MÁU VÀ MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG Ở BỆNH NHÂN NẶNG 45 1 Mối liên quan giữa nồng độ magne máu và một số đặc điểm lâm sàng
4.2.1.1 Mối liên quan giữa tuổi, giới và nồng độ magne máu
Tình trạng hạ và tăng magne máu phổ biến nhất ở trẻ từ 1 đến 12 tháng tuổi, không có sự tương quan giữa tuổi và giới với nồng độ magne máu ở bệnh nhân nặng Nghiên cứu của Saleem (2009) cho thấy không có sự khác biệt về tuổi và giới giữa các nhóm bệnh nhân nặng có nồng độ magne máu bình thường và hạ magne máu, nhưng lứa tuổi lớn hơn là yếu tố nguy cơ của hạ magne máu Theo Erdoğan (2018), có sự khác biệt thống kê về tuổi giữa nhóm bệnh nhân nặng có magne máu giảm và bình thường, với tuổi trung bình của nhóm rối loạn magne máu lớn hơn Nghiên cứu của Dandinavar (2019) cho thấy 44,8% trẻ dưới 1 tuổi bị hạ magne máu, 29,2% từ 1 - 5 tuổi, và 26,0% trên 5 tuổi Đối với nhóm bệnh nhân nặng có tình trạng tăng magne máu, tỷ lệ cao nhất (52,0%) thuộc về trẻ từ 1 - 5 tuổi, mặc dù sự tương quan này không có ý nghĩa thống kê Nghiên cứu của chúng tôi cũng chỉ ra rằng nhóm tuổi từ 1 - 12 tháng chiếm tỷ lệ cao nhất trong số các bệnh nhân nặng nhập khoa hồi sức, dẫn đến tăng tần suất phát hiện bất thường về magne máu ở nhóm tuổi này.
Theo nghiên cứu, trong số 22 bệnh nhân nặng hạ magne máu, 54,5% là nam và 45,5% là nữ Tuy nhiên, tỷ lệ bệnh nhân nữ có tình trạng tăng magne máu cao gấp 5 lần so với nam, lần lượt là 83,3% và 16,7% Sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê Nghiên cứu cũng ghi nhận không có mối tương quan giữa giới và nồng độ magne máu ở bệnh nhân nặng, điều này được xác nhận qua các nghiên cứu của Singhi (2003), Haider (2015), Erdoğan (2018) và Dandinavar (2019).
4.2.1.2 Mối liên quan giữa địa dư và nồng độ magne máu
Trong nghiên cứu của chúng tôi, không có sự khác biệt có ý nghĩa về tỉ lệ nồng độ magne máu theo phân bố địa dư Tình trạng hạ hoặc tăng magne máu gần như tương đương ở nhóm trẻ thành thị và nông thôn, trong khi trẻ em miền núi không gặp tình trạng tăng magne máu Hơn một nửa số bệnh nhân nặng nhập khoa hồi sức là trẻ sống ngoài vùng thành thị, điều này có thể ảnh hưởng đến kết quả do cỡ mẫu nhỏ và cách phân loại rối loạn magne khác biệt Theo nghiên cứu của Joyja 2020, trẻ em ở vùng thành thị có liên quan đáng kể đến tỉ lệ hạ magne máu khi nhập khoa nhi hồi sức.
4.2.1.3 Mối liên quan giữa nhóm bệnh lý được chẩn đoán khi vào khoa hồi sức và nồng độ magne máu ở bệnh nhân nặng
Bệnh nhân nhiễm trùng huyết có tỷ lệ hạ magne máu cao nhất, đạt 37,5%, so với các nhóm bệnh khác, với sự khác biệt có ý nghĩa thống kê Nhóm trẻ mắc bệnh lý tim mạch cũng cho thấy tỷ lệ rối loạn magne máu cao, lên tới 30,0% Trong khi đó, nhóm bệnh nhân mắc các bệnh lý khác như ung thư, rối loạn chuyển hóa và suy giảm miễn dịch có tỷ lệ hạ magne máu là 15,1% Đáng chú ý, nhóm bệnh nhân hô hấp chỉ có 8,3% bệnh nhân tăng magne máu, nhưng sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê.
Theo nghiên cứu của Saleem và Haque (2009), tỷ lệ hạ magne máu ở bệnh nhân nhiễm trùng huyết đạt 37,0% Tương tự, tỷ lệ này ở nhóm bệnh nhân tim mạch là 31,8%, nhóm bệnh nhân suy thận là 27,9%, nhóm bệnh nhân thần kinh là 25,9%, và nhóm chấn thương là 25%.
Nghiên cứu của Erdoğan (2018) chỉ ra rằng tỉ lệ hạ magne máu ở các nhóm bệnh khác nhau như nhiễm trùng huyết (56,3%), chấn thương (42,9%), bệnh thần kinh (26,7%), bệnh tim mạch (25%) và bệnh hô hấp (12,9%) không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê Tác giả Dandinavar và cộng sự (2019) ghi nhận tỉ lệ hạ magne máu cao nhất ở nhóm bệnh thần kinh (44,8%) và nhóm bệnh hô hấp (26%) Trong số bệnh nhân có nồng độ magne máu tăng, nhóm bệnh hô hấp và nhóm bệnh lý khác đều chiếm tỉ lệ cao nhất (28%) Singhi (2003) báo cáo tỉ lệ hạ magne máu ở trẻ em tăng áp lực nội sọ là 80%, nhiễm trùng huyết 66% và sốc 59% Sự tương quan giữa các nhóm bệnh lý và nồng độ magne máu có thể khác nhau tùy thuộc vào từng nghiên cứu và mô hình bệnh tật của từng trung tâm hồi sức Nghiên cứu của chúng tôi cũng cho thấy có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về nồng độ magne máu ở bệnh nhân nhiễm trùng huyết.
4.2.1.4 Mối liên quan giữa điểm hôn mê Glasgow và nồng độ magne máu ở bệnh nhân nặng
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy sự khác biệt rõ rệt trong điểm Glasgow trung bình giữa nhóm bệnh nhân có nồng độ magne máu tăng và nhóm có nồng độ magne máu bình thường hoặc hạ Cụ thể, điểm Glasgow ở những bệnh nhân nặng với tình trạng tăng magne máu là 6,5 ± 4,2, cho thấy mức độ nghiêm trọng của tình trạng này Mặc dù tình trạng tăng magne máu ít phổ biến hơn so với hạ magne máu ở bệnh nhân nặng, nhưng nó vẫn gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến chức năng thần kinh và tim mạch Đến nay, chưa có nghiên cứu nào trong lĩnh vực nhi khoa đánh giá mối liên hệ giữa nồng độ magne máu và điểm GCS ở bệnh nhân nặng trong hồi sức Theo nghiên cứu của Deshmukh (2000), hạ magne máu được ghi nhận ở 66,7% bệnh nhi có GCS 3 điểm, 54,5% bệnh nhi có điểm GCS 4-7 và 58,3% trẻ có điểm GCS trên 7.
4.2.1.5 Mối liên quan giữa điểm PELOD-2 và nồng độ magne máu ở bệnh nhân nặng Điểm PELOD-2 tỉ lệ thuận với tiên lượng tử vong ở bệnh nhân nặng Nghiên cứu của chúng tôi nhận thấy điểm PELOD-2 trung bình ở nhóm bệnh nhân có nồng độ magne máu bất thường cao hơn nhóm bệnh nhân có nồng độ magne máu bình thường (bảng 3.15) Nhóm bệnh nhân hạ magne máu có điểm PELOD-2 trung bình là 4,7 ± 2,8 điểm, đặc biệt điểm PELOD-2 khá cao ở những bệnh nhân nặng có tình trạng tăng magne máu (12,8 ± 6,9) Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) Theo nghiên cứu của Beleidy (2017) về sự thiếu hụt magne ở bệnh nhi nặng, điểm PELOD trung bình ở nhóm bệnh nhi có hạ magne máu là 12,0, ở nhóm nồng độ magne máu bình thường là 11,0, với sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê [7] Ngoài ra, chúng tôi chưa tìm được nghiên cứu nào trong và ngoài nước đánh giá sự tương quan giữa điểm PELOD-
2 và nồng độ magne máu ở bệnh nhi nặng
4.2.1.6 Mối liên quan giữa nhu cầu thông khí cơ học xâm nhập và nồng độ magne máu ở bệnh nhân nặng
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy 50,0% bệnh nhân hạ magne máu và 83,3% bệnh nhân tăng magne máu cần thở máy xâm nhập, nhưng sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05) Các tác giả Dandinavar (2019), Chandrashekhar (2020) và Beleidy (2017) cũng không phát hiện mối tương quan giữa thông khí xâm nhập và nồng độ magne máu ở bệnh nhân nặng Ngược lại, nghiên cứu của Erdoğan (2018) cho thấy 37,1% bệnh nhân hạ magne máu cần thở máy xâm nhập có ý nghĩa thống kê Tương tự, Kumar (2015) ghi nhận 56,86% bệnh nhân nặng hạ magne máu cần thở máy (p = 0,0001) Nghiên cứu của Thongprayoon (2015) cho thấy cả hai tình trạng tăng và giảm magne máu đều có mối tương quan có ý nghĩa với nguy cơ suy hô hấp cấp cần thở máy xâm nhập, với tỉ suất chênh lần lượt là 1,40 và 1,69 Sự khác biệt trong kết quả giữa các nghiên cứu có thể do chỉ định hồi sức hỗ trợ hô hấp khác nhau giữa các trung tâm.
4.2.1.7 Mối liên quan giữa thời gian nằm khoa hồi sức và thời gian thở máy xâm nhập với nồng độ magne máu ở bệnh nhân nặng
Nghiên cứu cho thấy không có sự khác biệt về số ngày nằm ICU và thời gian thở máy xâm nhập ở bệnh nhân nặng có tình trạng magne máu bất thường (p > 0,05) Tác giả Dandinavar (2019) cũng không ghi nhận sự khác biệt trong thời gian thở máy giữa ba nhóm bệnh nhân, nhưng thời gian nằm hồi sức tích cực ở nhóm hạ và tăng magne máu kéo dài hơn nhóm bình thường (p = 0,031) Tương tự, nghiên cứu của Singhi (2003) cho thấy thời gian nằm ICU ở nhóm hạ và tăng magne máu lâu hơn đáng kể so với nhóm bình thường (p < 0,05) Limaye và cộng sự (2011) báo cáo rằng bệnh nhân hạ magne máu có nhu cầu thở máy cao hơn và thời gian thở máy dài hơn, nhưng không có sự khác biệt thống kê về thời gian nằm ICU Hạ magne máu được biết đến là nguyên nhân gây yếu cơ và suy hô hấp, làm khó khăn trong việc cai máy thở Erdoğan (2018) cũng phát hiện bệnh nhân hạ magne máu có thời gian thở máy và nằm hồi sức dài hơn (p < 0,05) Kumar (2015) chỉ ra rằng thời gian thở máy giữa hai nhóm không có sự khác biệt, nhưng thời gian nằm ICU ở nhóm hạ magne máu thì khác biệt rõ rệt (p = 0,0002) Kết quả nghiên cứu không cho thấy mối tương quan có ý nghĩa, có thể do bệnh nhân nặng có thời gian thở máy và nằm hồi sức kéo dài do bệnh lý nền phức tạp.
4.2.1.8 Mối liên quan giữa kết cục của bệnh nhân nặng và nồng độ magne máu
Theo nghiên cứu hiện tại, hơn một phần ba bệnh nhân tử vong có nồng độ magne máu bất thường (34,8%), cao hơn 2,6 lần so với tỉ lệ rối loạn magne máu ở bệnh nhân nặng được điều trị thành công (13,3%), với sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) Nghiên cứu của Singhi (2003) cho thấy tỉ lệ tử vong ở nhóm bệnh nhi hạ và tăng magne máu lần lượt là 30% và 42,8%, cao hơn so với nhóm có nồng độ magne máu bình thường (3,3%) Nghiên cứu của Erdoğan (2018) báo cáo tỉ lệ tử vong 27,9% ở nhóm hạ magne máu, so với 12,4% ở nhóm không hạ magne máu, cũng với sự khác biệt có ý nghĩa thống kê Một số nghiên cứu khác cũng cho thấy kết quả khác biệt trong nhóm bệnh nhân nặng nhi khoa.
Nghiên cứu năm 2020 không tìm thấy mối liên quan có ý nghĩa giữa tỉ lệ tử vong và nồng độ magne máu ở trẻ em nặng Tuy nhiên, ở bệnh nhân nặng người lớn, mối quan hệ này lại không đồng nhất giữa các nghiên cứu Soliman và cộng sự chỉ ra rằng bệnh nhân hạ magne máu trong ICU có tỉ lệ tử vong cao gấp 2-3 lần so với bệnh nhân có nồng độ magne bình thường (35% so với 12%, p < 0,05) Tương tự, Safavi và Honarmand cũng phát hiện tỉ lệ tử vong cao hơn ở bệnh nhân hạ magne máu (55% so với 35%) Mousavi và cộng sự báo cáo tỉ lệ tử vong có sự khác biệt rõ rệt giữa các nhóm bệnh nhân: hạ magne máu, tăng magne máu và bình thường, với tỉ lệ lần lượt là 83%, 61% và 34% (p < 0,05).
4.2.2 Mối liên quan giữa nồng độ magne máu và một số đặc điểm cận lâm sàng ở bệnh nhân nặng
Theo các biểu đồ 3.5, 3.6, 3.7, 3.9, có sự tương quan thuận giữa nồng độ natri máu (P < 0,05; R = 0,171), kali máu (P < 0,05; R = 0,369), calci ion hoá máu (P < 0,05; R = 0,312), và lactat máu (P < 0,05; R = 0,276) với nồng độ magne máu ở bệnh nhân nặng, trong khi pH máu có tương quan nghịch (P < 0,05; R = -0,0244) Không có mối liên hệ giữa albumin máu và nồng độ magne máu (biểu đồ 3.8) Nghiên cứu của Sudha (2015) chỉ ra rằng rối loạn điện giải như giảm kali, natri, calci và albumin máu có liên quan đến giảm nồng độ magne máu (p < 0,05) Tuy nhiên, chỉ kali máu có mối tương quan thuận mạnh với nồng độ magne máu ở bệnh nhân nặng (p < 0,0001, r 0,48), trong khi natri, calci và albumin không có mối tương quan rõ rệt.
Nghiên cứu năm 2019 trên 50 bệnh nhân người lớn nhiễm trùng huyết cho thấy bệnh nhân hạ magne máu có nồng độ lactate máu cao hơn đáng kể so với bệnh nhân có mức magne máu bình thường, với kết quả lần lượt là 2,32 (1,96-3,29) mg/dl so với 1,94 (1,80-2,15) mg/dl (p