T Ổ NG QUAN
Nguy cơ lây nhiễ m ngh ề nghi ệ p c ủ a nhân viên y t ế
Sơ đồ 1: Chủ trình lây nhiễm
Trong bệnh viện, vi sinh vật (VSV) tồn tại ở nhiều nơi, bao gồm nguồn chứa trực tiếp như máu, dịch, chất tiết và chất thải của bệnh nhân, cũng như nguồn chứa trung gian như môi trường xung quanh, dụng cụ y tế, bàn tay của nhân viên và chất thải y tế.
Vi sinh vật có thể xâm nhập vào cơ thể qua nhiều con đường như đường máu, đường hô hấp (thông qua không khí và giọt bắn), và tiếp xúc trực tiếp Mức độ xâm nhập của vi sinh vật phụ thuộc vào cơ chế sinh bệnh của chúng, điều kiện môi trường, thời gian tiếp xúc, và khả năng miễn dịch của người tiếp xúc.
Nguồn lây bệnh có thể đến từ bất kỳ người bệnh nào, với máu, dịch, chất tiết và chất thải từ họ là những yếu tố nguy hiểm Những chất này không chỉ phát tán trực tiếp mà còn có thể lưu trú trong các ổ chứa trung gian, gây ra các bệnh lý cấp tính hoặc mạn tính cho nhân viên y tế Các vị trí công việc như xét nghiệm vi sinh vật và giải phẫu bệnh đặc biệt có nguy cơ cao trong việc tiếp xúc với nguồn lây này.
Môi trường Vệ sinh môi trường, bề mặt
(Vi khu ẩn, vi rút, ký sinh trùng…) Đối tượ ng b ị ảnh hưở ng
Ngu ồ n ch ứ a Đườ ng ra Đườ ng xâm nh ậ p
Rác thải lây nhiêm, sắc nhọn
Dụng cụ y tế sắc nhọn
Da NVYT bị tổn thương
Bệnh nhân Dụng cụ y tế
Máu, dịch, chất tiết Đã sử dụng NVYT
Rác thải y tế đòi hỏi sự tuân thủ nghiêm ngặt về an toàn và vệ sinh lao động Một nghiên cứu trên 79 cơ sở y tế điều trị và dự phòng tại Việt Nam cho thấy tỷ lệ lây nhiễm cao nhất là do tiếp xúc trực tiếp với bệnh nhân (53,4%), tiếp xúc với bệnh phẩm (34,3%) và do tổn thương vật sắc nhọn (12,4%) Trong đó, lây nhiễm do tiếp xúc thường gặp nhất ở các cơ sở y tế tuyến huyện, trong khi lây nhiễm từ bệnh phẩm lại phổ biến hơn tại các tuyến Trung Ương với tỷ lệ 37,5%, so với 34,3% và 28,1% ở tuyến tỉnh và tuyến huyện.
Nguồn chứa gián tiếp chủ yếu: có thể tồn tại và lưu trú dưới nhiều hình thức khác nhau, trong đó có một số nguồn chứa chủ yếu như:
Chất thải y tế bao gồm nhiều loại khác nhau, trong đó chất thải y tế nguy hại chứa các yếu tố có thể gây hại cho sức khỏe con người và môi trường, như dễ lây nhiễm, gây ngộ độc hoặc phóng xạ Sự gia tăng nhanh chóng của các bệnh viện và phòng khám tại Việt Nam dẫn đến việc phát sinh lượng chất thải y tế ngày càng lớn Nhiều nghiên cứu đã được thực hiện để đánh giá khối lượng và chủng loại chất thải y tế, đặc biệt là chất thải y tế lây nhiễm.
Nghiên cứu năm 2009 tại Bệnh viện Đa khoa Thái Nguyên cho thấy khối lượng chất thải y tế nguy hại là 0,11 kg/giường bệnh, chiếm 8,77% tổng lượng chất thải y tế tại bệnh viện.
Năm 2013, một nghiên cứu tại 23 cơ sở y tế từ tuyến huyện trở lên ở tỉnh Quảng Nam cho thấy lượng chất thải rắn y tế nguy hại đạt 0,48 tấn/ngày, chiếm 12,3% tổng lượng chất thải, tương đương 0,12kg/giường bệnh/ngày, với bệnh viện tuyến Trung ương thải ra nhiều hơn so với bệnh viện tỉnh và huyện Tại Bệnh viện Đa khoa khu vực Hóc Môn, TP Hồ Chí Minh, chất thải y tế chiếm 10,83% tổng lượng chất thải, tương đương 1200kg/ngày, trong đó số lượng bơm kim tiêm lên tới 480-500 chiếc/ngày Một nghiên cứu khác tại Bệnh viện Việt Tiệp - Hải Phòng với quy mô 950 giường vào năm 2012 cho thấy chất thải y tế nguy hại chiếm 4,27% tổng số chất thải y tế, tương đương 77,19kg/ngày.
Bàn tay của nhân viên y tế (NVYT) được xác định là nguồn lây truyền vi sinh vật nguy hiểm, có khả năng truyền bệnh từ người bệnh này sang người bệnh khác Việc chạm vào bề mặt ô nhiễm hoặc tiếp xúc trực tiếp với bệnh nhân trong quá trình chăm sóc là những yếu tố chính góp phần vào sự lây lan bệnh tật.
Nghiên cứu của Nguyễn Thị Tâm năm 2012 cho thấy 96% nhân viên y tế tại khoa cán bộ cao cấp, BV Quân đội 108 có bàn tay nhiễm khuẩn, chủ yếu ở móng tay và khe ngón Việc mang móng tay giả hoặc để móng tay dài có thể tạo điều kiện cho Pseudomonas aeruginosa phát triển, gây ra dịch nhiễm khuẩn Nghiên cứu của Nguyễn Việt Hùng chỉ ra rằng mức độ ô nhiễm tay xảy ra khi tiếp xúc với máu, dịch, và bệnh nhân, với ô nhiễm cao nhất khi không thực hiện vệ sinh tay Tại một bệnh viện hạng 3 ở Việt Nam, mức độ nhiễm vi khuẩn trung bình trên tay trước khi vệ sinh là 1,65 log (10), với Acinetobacter baumannii, Klebsiella pneumoniae, và Staphylococcus aureus là những vi khuẩn gây bệnh phổ biến.
Môi trường bệnh viện là khái niệm bao gồm cả môi trường xung quanh như nước, bề mặt làm việc và không khí, nơi mà nhân viên y tế tiếp xúc hàng ngày Tỷ lệ nhiễm khuẩn bệnh viện (NKBV) được xem là chỉ số quan trọng để đánh giá chất lượng môi trường này.
BV là một yếu tố quan trọng trong việc đánh giá chất lượng môi trường Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng có những nguồn ô nhiễm khác, chẳng hạn như từ áo choàng, cũng góp phần vào vấn đề này.
NVYT, ống nghe, máy tính, điện thoại di động…
Không khí trong cơ sở y tế (CSYT) được coi là không gian xung quanh nơi làm việc, và ở những khu vực hẹp, không khí ít luân chuyển tạo điều kiện cho vi khuẩn và virus tồn tại và xâm nhập qua đường hô hấp Cầu khuẩn Gram dương, đặc biệt là Staphylococcus (51%) và Micrococcus (37%), là những loại vi khuẩn phổ biến nhất trong không khí Việc giám sát thường xuyên là cần thiết để đánh giá hiệu quả kiểm soát không khí và phát hiện sự xâm nhập bất thường của các phần tử qua quần áo của du khách và nhân viên y tế Từ đó, có thể xác định các hướng dẫn cụ thể về chất lượng không khí cho các môi trường được kiểm soát trong các CSYT.
Hệ thống cơ sở hạ tầng nước phức tạp với các khu vực có dòng chảy thấp có thể dẫn đến tình trạng ứ đọng và hình thành màng sinh học Nhiệt độ nước tối ưu cho chăm sóc sức khỏe cũng tạo điều kiện thuận lợi cho sự xâm nhập và phát triển của vi khuẩn và nấm mốc.
Bề mặt môi trường, bao gồm các bề mặt tiếp xúc trực tiếp hoặc gần gũi với bệnh nhân, như thanh giường, bàn cạnh giường và vòi nước, được coi là dễ bị ô nhiễm và có nguy cơ truyền mầm bệnh Một nghiên cứu năm 2012 cho thấy 20,5% găng tay và áo choàng của nhân viên y tế bị nhiễm bẩn khi tiếp xúc với bệnh nhân, trong đó có 25,8% nhiễm Acinetobacter baumannii đa kháng Ô nhiễm môi trường là yếu tố quyết định chính trong việc lây truyền mầm bệnh sang nhân viên y tế Việc tuân thủ biện pháp phòng ngừa và làm sạch môi trường có thể giảm khả năng lây truyền Nghiên cứu tại BV Đại học Hassan II ở Maroc đã xác định được 200 chủng vi khuẩn từ 112 mẫu bề mặt, trong đó 47% vi khuẩn lớn được xác định từ tay vịn và tay nắm cửa Nghiên cứu tại Đại học Illinois, Mỹ năm 2019 cũng khẳng định sự phổ biến của ô nhiễm găng tay và áo choàng, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc sử dụng phương tiện phòng hộ để bảo vệ nhân viên y tế khỏi mầm bệnh.
Nhiễm khuẩn liên quan tới chăm sóc y tế (nhiễm khuẩn BV) là các nhiễm khuẩn phát sinh trong quá trình điều trị tại cơ sở y tế, thường xuất hiện sau 48 giờ nhập viện Theo khảo sát năm 2010 tại 183 bệnh viện Hoa Kỳ, trong số 11.282 bệnh nhân, có 452 người mắc một hoặc nhiều bệnh nhiễm trùng liên quan đến chăm sóc sức khỏe Các loại nhiễm trùng phổ biến nhất bao gồm viêm phổi (21,8%), nhiễm trùng vết mổ (21,8%) và nhiễm trùng đường tiêu hóa (17,1%), với Clostridium difficile là mầm bệnh phổ biến nhất (12,1%) Mức độ mắc NKBV được đo bằng các chỉ số như tỷ lệ người bệnh hiện mắc, tỷ lệ hiện mắc và mật độ hiện mắc NKBV trong 1.000 ngày phơi nhiễm với yếu tố nguy cơ Nghiên cứu này được thực hiện trong 10 năm tại khoa hồi sức tích cực ở miền Nam.
Ba Lan từ năm 2007 đến năm 2016 có tổng số 1849 BN thì có với tỷ lệ
Th ự c tr ạng phơi nhiễ m và lây nhi ễ m ngh ề nghi ệ p c ủ a NVYT
Sơ đồ 2:Yếu tố nguy cơ và yếu tố phòng ngừa lây nhiễm
+ Tr ự c ti ế p: máu d ị ch, ch ấ t thải, chất tiết…
+ Gi ả n ti ế p: Bàn tay nhân viên y t ế , b ề m ặt môi trườ ng, không khí
- Điề u ki ện lao động đặ c thù
Y ế u t ố phòng ng ừ a và ki ể m soát lây nhi ễ m
- Cung c ấp điề u ki ệ n ho ạ t độ ng phòng ng ừ a chu ẩ n :
+H ệ th ố ng ki ể m soát nhi ễ m khu ẩ n
- Ho ạt độ ng c ủ a h ệ th ố ng ki ể m soát nhi ễ m khu ẩ n
(giám sát, đào tạ o, qu ả n lý sức khỏe…)
- Ho ạt độ ng c ủ a nhân viên y t ế (KAP)
1.2.1 Các yếu tố bất lợi trong môi trường làm việc của NVYT
Ngành Y tế đang phải đối mặt với nhiều áp lực, bao gồm công việc quá tải, cường độ làm việc cao, bệnh nặng và dịch bệnh, cùng với sức ép từ gia đình bệnh nhân, dẫn đến việc thực hiện các biện pháp phòng ngừa nhiễm khuẩn (PNC) không đầy đủ Một nghiên cứu tại Trung Quốc cho thấy, trong số các y tá tại 25 bệnh viện công với khoảng 500 giường bệnh, các yếu tố ảnh hưởng đến việc áp dụng các biện pháp PNC được sắp xếp theo thứ tự giảm dần về mức độ tác động là: thiết bị bảo hộ, kiến thức, thái độ, môi trường an toàn và khối lượng công việc Ngoài ra, nghiên cứu năm 2012 tại Bệnh viện Da liễu Trung ương chỉ ra rằng, trung bình mỗi điều dưỡng phải thực hiện 23,82 mũi tiêm/ngày, với một số điều dưỡng thực hiện tới 41 mũi/ngày, và 92% trong số 50 điều dưỡng tham gia nghiên cứu gặp phải thương tích từ vật sắc nhọn, mặc dù 94% đã được đào tạo về tiêm an toàn.
Tỷ lệ phơi nhiễm nghề nghiệp giảm liên quan đến số giường phục vụ trên mỗi nhân viên y tế (NVYT), trong đó hộ lý có tỷ lệ phơi nhiễm cao nhất (14,8%), tiếp theo là bác sĩ (8,5%) và y tá (6,2%) Nghiên cứu tại BV Quân đội 108 cho thấy, ở độ tuổi 31 - 50, tỷ lệ NVYT bị stress, trầm cảm và lo âu lần lượt là 19,6%, 24,5% và 43,2%, với mức độ nặng và rất nặng tương ứng là 4,4%, 2,9% và 11% Một nghiên cứu khác trên 79 cơ sở y tế tại Việt Nam chỉ ra rằng nhóm có khối lượng công việc lớn (cấp cứu, gây mê hồi sức, tâm thần) có tỷ lệ stress cao gấp 4,9 lần, trong đó tỷ lệ tại cơ sở y tế tuyến trung ương là 15,9%, cao hơn so với tuyến tỉnh (12,8%) và tuyến huyện (9,3%).
Bạo lực trong ngành Y tế: Bên cạnh quá tải, hiện nay bạo lực trong ngành Y đang trở thành vấn đề nóng của ngành, nghiên cứu tại 79 CSYT của
Tại Việt Nam, tỷ lệ nhân viên y tế (NVYT) bị lăng mạ đang ở mức cao, đạt 18,4% Trong số đó, bác sĩ là nhóm chịu ảnh hưởng nhiều nhất với tỷ lệ lên đến 23,7%, tiếp theo là y tá, hộ lý và kỹ thuật viên, với tỷ lệ lần lượt là 14%.
19,3%); tỷ lệ hành hung chiếm 2,4 % trong đó lần lượt là KTV (2,8%); y tá (2,7%) và bác sỹ là 2,6% [44]
Nghiên cứu cho thấy thời điểm làm việc và thời gian tiếp xúc có ảnh hưởng đáng kể đến tuân thủ PNC Cụ thể, tỷ lệ tuân thủ vào buổi sáng đạt 46,6%, trong khi buổi chiều chỉ là 22,3%.
Theo nghiên cứu của Nguyễn Bích Diệp, tần suất tổn thương cao nhất xảy ra vào buổi sáng với 56,7%, trong đó tổn thương thường gặp nhất là do tiêm, chiếm 42,9% Một nghiên cứu khác cho thấy tổn thương xảy ra vào ban đêm là 11,3% Tổng số mẫu nghiên cứu là 15.134.
NVYT cho thấy nhóm NVYT đã từng tham gia phòng chống dịch tại thực địa có tỷ lệ mắc bệnh cao gấp 3,2 lần so với nhóm không tham gia [44]
1.2.2 Phơi nhiễm, lây nhiễm của nhân viên y tế
Gánh nặng bệnh tật: là tổng sốnăm sống bị mất đi do tử vong sớm và sốnăm sống khỏe mạnh bị mất đi do tàn tật: DALY= YLL+ YLD [45]
DALY: năm sống tàn tật hiệu chỉnh (Disability adjusted life years) YLL: sốnăm mất đi do tử vong sớm (Years of life lost)
YLD: Sốnăm sống bệnh tật (Years lived with Disability)
Theo nghiên cứu của Hà Thế Tấn, trong tổng số 15.134 nhân viên y tế, tỷ lệ mắc bệnh nghề nghiệp đạt 15,7% Tỷ lệ này cao nhất ở nhân viên khoa truyền nhiễm với 24,5%, tiếp theo là khối nội, nhi và phòng khám với 20,5%, và cuối cùng là giải phẫu bệnh và pháp y với 19,4%.
Nguy cơ lây nhiễm qua đường máu, đặc biệt từ vật sắc nhọn như kim tiêm, dao, kéo và mảnh thủy tinh, là rất cao do gây tổn thương “kép” Cụ thể, nguy cơ lây truyền viêm gan B qua kim tiêm ước tính từ 3%-10% (có thể lên tới 30%), viêm gan C từ 0,8%-3%, và HIV khoảng 0,3% (rủi ro phơi nhiễm qua niêm mạc là 0,1%) Đặc biệt, nếu kim tiêm có virus HBV dương tính, nguy cơ nhiễm HBV có thể lên tới 23%-62% Nghiên cứu của tác giả Dương Khánh Vân năm 2012 tại 6 địa điểm đã chỉ ra rõ ràng mối nguy hiểm này.
Theo ước tính của CSYT lớn Hà Nội, tỷ lệ mới mắc viêm gan B trong năm là 50 ca/100.000 người, trong đó tỷ lệ ở y/bác sĩ là 40 ca, ở điều dưỡng là 65 ca và ở các nhân viên y tế khác là 30 ca Tỷ lệ mới mắc HIV nói chung là 0,2 ca/100.000 người, với tỷ lệ ở y/bác sĩ là 0,2 ca, ở điều dưỡng là 0,3 ca và ở các nhân viên y tế khác là 0,1 ca Nghiên cứu cũng cho thấy tỷ lệ quy thuộc nhiễm vi sinh vật do tác nhân nghề nghiệp đối với viêm gan B là 32,16%, trong đó y/bác sĩ là 27,8%, điều dưỡng là 39,5% và nhân viên y tế khác là 21,7% Tỷ lệ quy thuộc đối với HIV là 0,52%, với y/bác sĩ là 0,49%.
0,53% và ở các NVYT khác là 0,23% [54] Đặc điểm lây qua đường máu:
Năm 2012, nghiên cứu tại Bệnh viện Da liễu Trung ương cho thấy 73,9% trường hợp tổn thương liên quan đến việc thu dọn dụng cụ, trong khi tổn thương do kim đâm chỉ chiếm 7,9% Một khảo sát quy mô lớn tại Việt Nam chỉ ra rằng tổn thương do vi sinh vật (VSN) chiếm tới 48%, trong đó tỷ lệ cao nhất thuộc về khối Ngoại với 66% và khối xét nghiệm với 53,8%.
Theo một nghiên cứu tại Hà Nội năm 2012, vị trí bị tổn thương nhiều nhất do vết thương sinh nhiễm (VSN) là bàn tay và ngón tay, chiếm tới 94,5%, trong đó 97,6% các chấn thương xảy ra ở ngón tay Hầu hết các tổn thương là xuyên thấu da (77,8%) và xước da (19,6%) Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng thời điểm xảy ra các tổn thương do VSN chủ yếu là vào buổi sáng, với tỷ lệ 68,3%.
Theo nghiên cứu của Dương Khánh Vân năm 2012, nhân viên y tế (NVYT) có thể bị tổn thương do vật sắc nhọn (VSN) nhiều lần trong quá trình làm việc Cụ thể, 83,9% NVYT bị tổn thương dưới 5 lần, 9,9% bị tổn thương từ 6-10 lần, trong khi tỷ lệ bị tổn thương trên 10 lần rất thấp.
Tỷ lệ phơi nhiễm và lây nhiễm trong nhóm nhân viên y tế (NVYT) cho thấy họ có tỷ lệ mắc bệnh cao gấp 2,2 lần so với nhóm chưa bị tổn thương, với 7% có HBsAg dương tính và 1,14% mang Anti-HCV Tỷ lệ nhiễm HBsAg cao nhất được ghi nhận ở các khoa xét nghiệm, khoa ngoại, khoa GMHS và khoa truyền nhiễm, lần lượt là 14,1%, 12,4% và 10,3% Nhóm y tá và kỹ thuật viên có tỷ lệ nhiễm vi rút viêm gan B cao nhất là 10,6%, trong khi tuyến huyện có tỷ lệ nhiễm HBV cao hơn tuyến y tế tỉnh và trung ương (14,2% so với 9,1% và 9,6%) Một nghiên cứu tại 6 cơ sở y tế ở Hà Nội cho thấy 37,6% nhân viên y tế bị tổn thương do vi phạm an toàn, trong đó 75,6% là do sơ xuất Tại bệnh viện đa khoa Mizan-Aman, Tây Nam Ethiopia, 29,6% nhân viên y tế từng bị chấn thương do kim đâm, 57,9% do bệnh nhân di chuyển đột ngột, và 45,2% đã bị máu hoặc dịch cơ thể bắn vào mắt hoặc miệng.
Từ năm 2005 đến 2009, có 384 trường hợp nhiễm HCV được công nhận là bệnh lây nhiễm nghề nghiệp, tương đương với tỷ lệ 1,5/100.000 nhân viên y tế Tổn thương do kim tiêm được ghi nhận tại bệnh viện là 29,9/1000 nhân viên y tế, cao hơn đáng kể so với tỷ lệ 7,4/1000 nhân viên y tế nói chung.
Lây nhiễm qua đường hô hấp, bao gồm lây truyền qua không khí và giọt bắn, có thể xảy ra ở dạng cấp tính hoặc mạn tính Trong đó, lây nhiễm cấp tính đang trở thành mối quan tâm hàng đầu do sự diễn biến nhanh chóng và phức tạp của các dịch bệnh hiện nay, như SARS, H5N1, H1N1, Ebola, và đặc biệt là đại dịch Covid-19.
Theo báo cáo của WHO số lượng NVYT bị nhiễm Ebola tại 3 nước Guinea, Liberia và Sierra Leone từ tháng 1 năm 2014 đến ngày 31 tháng 3 năm
Vào năm 2015, tỷ lệ nhân viên y tế bị lây nhiễm do nghề nghiệp đạt 3,9%, với hơn 50% trường hợp được báo cáo [136] Theo tổ chức Ân xá Quốc tế, Dịch vụ Công Quốc tế và UNI Global Union, ít nhất 17.000 nhân viên y tế đã tử vong do COVID-19 trong năm vừa qua [71] Gần đây, Tổng Giám đốc Tổ chức Y tế Thế giới, Tedros Adhanom Ghebreyesus, ước tính có ít nhất 115.000 nhân viên y tế và chăm sóc đã mất mạng trong đại dịch COVID-19 [89].
Lây nhiễm mạn tính (điển hình là bệnh lao), hiện nay lao nghề nghiệp được công nhận là bệnh nghề nghiệp theo thông tư hướng dẫn của Bộ Y tế
Các bi ệ n pháp phòng ng ừ a và ki ể m soát lây nhi ễ m
1.3.1 Khái niệm và quá trình phát triển hoạt động phòng ngừa
Năm 2012, BYT đã ban hành tài liệu “Hướng dẫn phòng ngừa chuẩn trong các cơ sở khám, chữa bệnh” tại Việt Nam [8]
Phòng ngừa chuẩn là tập hợp các biện pháp cơ bản được áp dụng cho tất cả bệnh nhân trong các cơ sở khám chữa bệnh, không phụ thuộc vào chẩn đoán hay tình trạng nhiễm trùng Nguyên tắc chính là xem tất cả máu, chất tiết và chất bài tiết (ngoại trừ mồ hôi) đều có khả năng lây truyền bệnh.
Nhân viên y tế bao gồm tất cả các cá nhân làm việc trong cơ sở khám bệnh và chữa bệnh, có vai trò quan trọng trong việc khám, điều trị và chăm sóc người bệnh Đối tượng này không chỉ bao gồm bác sĩ và điều dưỡng, mà còn bao gồm kỹ thuật viên, nhân viên vật lý trị liệu, nhân viên xã hội, tâm lý, dược sĩ và nhân viên vệ sinh.
Việc tuân thủ các biện pháp phòng ngừa nhiễm khuẩn (PNC) có vai trò quan trọng trong việc giảm lây truyền liên quan đến chăm sóc y tế, từ đó hạn chế sự lây lan trong cộng đồng bệnh viện, bao gồm nhân viên y tế, bệnh nhân và người nhà Điều này không chỉ đảm bảo an toàn mà còn nâng cao chất lượng công tác khám chữa bệnh Các biện pháp PNC thường được thực hiện đồng bộ nhằm tác động vào từng mắt xích trong chu trình lây nhiễm.
Lịch sử phát triển các biện pháp phòng ngừa luôn được cập nhật và mở rộng theo sự tiến triển của các bệnh lây nhiễm toàn cầu.
Năm 1970, Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Bệnh tật Hoa Kỳ (CDC) đã công bố hướng dẫn đầu tiên về cách ly phòng ngừa, bao gồm bảy biện pháp khác nhau Những biện pháp này bao gồm phòng ngừa tuyệt đối, phòng ngừa bảo vệ, và phòng ngừa lây truyền qua đường hô hấp, đường tiêu hóa, cùng với việc phòng ngừa qua vết thương (chất bài tiết, máu).
Năm 1985 do sự bùng phát của dịch HIV/AIDS, CDC ban hành hướng dẫn phòng ngừa mới gọi là Phòng ngừa phổ cập (Universal Precautions)
Theo hướng dẫn này, máu được xem như là nguồn lây truyền quan trọng nhất và dựphòng phơi nhiễm qua đường máu là cần thiết [8]
Năm 1995, hướng dẫn phòng ngừa phổ cập đã được chuyển đổi thành PNC, mở rộng khuyến cáo phòng ngừa phơi nhiễm không chỉ với máu mà còn với các chất tiết và bài tiết từ cơ thể.
Kể từ năm 2007, sau dịch SARS và sự bùng phát của cúm A H5N1, CDC và các tổ chức kiểm soát nhiễm khuẩn đã khuyến cáo cần thận trọng trong vệ sinh hô hấp nhằm bảo vệ tất cả người bệnh có triệu chứng hô hấp Việc thực hiện các biện pháp phòng ngừa nhiễm khuẩn (PNC) là cần thiết để ngăn chặn lây nhiễm qua máu, chất tiết và chất bài tiết, ngay cả khi không nhìn thấy máu Tuân thủ PNC không chỉ giúp giảm thiểu nhiễm khuẩn liên quan đến chăm sóc y tế mà còn hạn chế sự lây truyền cho nhân viên y tế và người bệnh, đồng thời bảo vệ môi trường, từ đó nâng cao chất lượng và đảm bảo an toàn trong bệnh viện.
1.3.2 Một số biện pháp phòng ngừa chuẩn
Sơ đồ 3: Các biện pháp phòng ngừa chuẩn và kiểm soát
Môi trường V ệ sinh môi trường, bề mặt
(Vi khu ẩ n, vi rút, ký sinh trùng…) Đối tượ ng b ị ảnh hưở ng
Ngu ồ n ch ứ a Đườ ng ra Đườ ng xâm nh ậ p
Qu ả n lý các loại chất th ả i y t ế
Sử dụng phương tiện phòng hộ cá nhân, qu ả n lý chất thải y tế s ắ c nh ọ n
Bệnh nhân Dụng cụ y tế
Qu ả n lý ch ấ t thải,đồ vải của BN
Ki ế m soát ho ạt độ ng PNC
Giám sát +Tuân th ủ PNC +NKBV Đào tạ o
Cơ cấ u t ổ ch ứ c + H ội đồ ng + Khoa + M ạng lướ i
Khái niệm: là làm sạch tay bằng nước và xà phòng có hay không có chất sát khuẩn và sát khuẩn tay với dung dịch có chứa cồn [8]
Vệ sinh tay (VST) là một trong những nội dung cơ bản của phòng ngừa nhiễm khuẩn (PNC) và là biện pháp hiệu quả nhất trong việc kiểm soát sự lây truyền tác nhân gây bệnh tại các cơ sở khám chữa bệnh Được xem như một loại vacxin "tự chế", VST đơn giản và mang lại hiệu quả cao, đây là biện pháp can thiệp được ưu tiên áp dụng đầu tiên nhằm ngăn ngừa lây truyền bệnh giữa người bệnh và nhân viên y tế (NVYT), cũng như giữa các NVYT với nhau.
Cơ sở khám chữa bệnh cần đảm bảo có nước sạch, phương tiện vệ sinh tay (VST) và dung dịch sát khuẩn tay chứa cồn tại các khu vực thăm khám và chăm sóc bệnh nhân Việc tập huấn và giám sát tuân thủ VST là cần thiết Tại Việt Nam, Bộ Y tế đã triển khai đánh giá dựa trên 83 tiêu chí, trong đó việc “triển khai chương trình và giám sát tuân thủ rửa tay” là một trong 6 nội dung quan trọng để đánh giá hoạt động phòng ngừa và kiểm soát nhiễm khuẩn (KSNK) tại bệnh viện.
Phương tiện thiết yếu vệ sinh tay:
Tại mỗi vị trí vệ sinh tay, cần có bồn rửa tay sạch sẽ kèm theo vòi nước có cần gạt, nước sạch, xà phòng và giá đựng xà phòng Ngoài ra, cần chuẩn bị khăn lau tay dùng một lần trong thùng hoặc hộp đựng có nắp đậy, cùng với thùng chứa khăn bẩn.
Mặc dù VST là biện pháp thường được áp dụng đầu tiên thực hành KSNK tại
Theo nghiên cứu năm 2009 tại Hưng Yên, các bệnh viện (BV) tuyến tỉnh và huyện đang thiếu các phương tiện thiết yếu cho vệ sinh tay (VST) Tỷ lệ bồn rửa tay đạt chuẩn tại BV tuyến tỉnh chỉ đạt 8,3%, trong khi BV tuyến huyện hoàn toàn không có Tại buồng bệnh, chỉ có 17,7% trang bị phương tiện VST, chủ yếu là bồn rửa tay.
72,6%); vị trí VST bằng cồn thấp 27,4%) [22]
Địa điểm vệ sinh tay cần được bố trí tại các khu vực chăm sóc và phục vụ người bệnh, bao gồm buồng khám, buồng thủ thuật, buồng bệnh và buồng xét nghiệm, với yêu cầu trang bị bồn vệ sinh tay và dung dịch vệ sinh tay có chứa cồn Các vị trí quan trọng như giường bệnh nặng, xe tiêm thay băng, bàn khám bệnh, xét nghiệm và cửa ra vào mỗi buồng bệnh cần có sẵn dung dịch vệ sinh Theo thống kê, thuốc sát trùng tay không cần nước được sử dụng phổ biến nhất (79,3%), trong khi khăn giấy và khăn bông được dùng để làm khô tay với tần suất gần như bằng nhau (38,9% và 40,9%) Thuốc sát trùng giúp giảm vi sinh vật trên tay nhân viên y tế, từ đó hạn chế lây truyền vi khuẩn Các sản phẩm thường được sử dụng ở Hoa Kỳ bao gồm rượu, chlorhexidine, chloroxylenol, iốt và các hợp chất amoni bậc bốn Tuy nhiên, đã có hơn 40 vụ bùng phát và giả bùng phát do thuốc sát trùng bị ô nhiễm.
Kỹ thuật VST được phát triển dựa trên các thời điểm cụ thể cần thực hiện và các phương pháp áp dụng hóa chất VST Một số khái niệm quan trọng liên quan đến kỹ thuật này bao gồm việc xác định thời gian tối ưu và cách thức sử dụng hóa chất một cách hiệu quả.
+ Chỉ định vệ sinh tay: là lý do cần VST tại thời điểm xác định liên quan tới loại thao tác chăm sóc, điều trị đã thực hiện
Vệ sinh tay là một yếu tố quan trọng trong hoạt động chăm sóc và điều trị, giúp ngăn chặn sự lây lan của mầm bệnh qua bàn tay Cần xác định rõ các thời điểm cần thiết để thực hiện vệ sinh tay, từ đó đảm bảo số lần vệ sinh tay đủ để bảo vệ sức khỏe cho bệnh nhân và nhân viên y tế.
Hành động vệ sinh tay là một cơ hội quan trọng để thực hiện vệ sinh tay bằng cồn hoặc rửa tay Nếu không thực hiện vệ sinh tay theo chỉ định, cơ hội này sẽ được ghi nhận là "bỏ qua".
Tỷ lệ tuân thủ vệ sinh tay: được xác định bằng số cơ hội có vệ sinh tay
(hành động VST) x 100/sốcơ hội cần vệ sinh tay Theo báo cáo kết quả, trong
9900 cơ hội VST quan sát được, chỉ có 7,4% tuân thủ VST (BV tuyến tỉnh đạt