1. Trang chủ
  2. » Thể loại khác

Xử lý vật chứng trong vụ án hình sự những hạn chế, vướng mắc và các giải pháp khắc phục

43 36 1

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Xử Lý Vật Chứng Trong Vụ Án Hình Sự - Hạn Chế, Vướng Mắc Và Giải Pháp Khắc Phục
Tác giả Trần Minh Huy
Trường học Đại học
Thể loại tiểu luận
Năm xuất bản 2017
Định dạng
Số trang 43
Dung lượng 278 KB

Cấu trúc

  • LỜI MỞ ĐẦU

  • PHẦN NỘI DUNG

  • Chương I:

    • MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VẬT CHỨNG, XỬ LÝ VẬT CHỨNG

    • I. Khái niệm về vật chứng:

      • 1. Định nghĩa vật chứng:

      • 2. Đặc điểm của vật chứng:

      • 3. Phân loại vật chứng:

    • II. Khái niệm xử lý vật chứng:

      • 1. Định nghĩa xử lý vật chứng:

      • 2. Mục đích của việc xử lý vật chứng:

      • 3. Ý nghĩa của việc xử lý vật chứng:

    • Chương II

    • QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ HÌNH SỰ 2003 VÀ BỘ LUẬTTỐ TỤNG HÌNH SỰ 2015 VỀ XỬ LÝ VẬT CHỨNG TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÌNH SỰ

      • I. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về xử lý vật chứng:

      • 1. Quy định về các loại vật chứng:

      • 1.1. Vật chứng là những vật được dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội.

      • 1.2. Vật chứng là những vật mang dấu vết của tội phạm.

      • 1.3. Vật chứng là những vật được xem là đối tượng của tội phạm.

      • 1.4. Vật chứng là tiền bạc và vật khác có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội.

      • 2. Thẩm quyền và thời điểm xử lý vật chứng:

      • 3. Biện pháp xử lý vật chứng.

      • 3. 1. Đối với vật chứng là công cụ, phương tiện phạm tội, vật cấm lưu hành thì tịch thu, sung quỹ nhà nước hoặc tiêu hủy.

      • 3. 2. Vật chứng là những vật, tiền bạc thuộc sở hữu của nhà nước, tổ chức, cá nhân bị người phạm tội chiếm đoạt hoặc dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội thì trả lại cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp; trong trường hợp không xác định được chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp thì sung quỹ Nhà nước.

      • 3. 3. Vật chứng là tiền bạc, tài sản do phạm tội mà có thì bị tịch thu sung quỹ Nhà nước.

      • 3. 4. Vật chứng là hàng hóa mau hỏng hoặc khó bảo quản.

      • 3. 5. Vật chứng không có giá trị hoặc không sử dụng được thì tịch thu và tiêu hủy.

      • 3. 6. Giải quyết trường hợp có sự tranh chấp về quyền sở hữu đối với vật chứng.

    • II. Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 về xử lý vật chứng trong giải quyết vụ án hình sự:

      • 1. Quy định của BLTTHS 2015 về vật chứng:

      • 2. Thẩm quyền và thời điểm xử lý vật chứng theo quy định của Bộ luật hình sự 2015:

      • 3. Biện pháp xử lý vật chứng:

      • 4. Giải quyết trường hợp có sự tranh chấp về quyền sở hữu đối với vật chứng:

      • Khoản 4 Điều 106 BLTTHS 2015 quy định trường hợp vật chứng có tranh chấp về quyền sở hữu thì sẽ được giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự cũng giống như khoản 4 Điều 76 BLTTHS 2003 và cần văn bản hướng dẫn cụ thể hơn trong thời gian tới.

      • Chương III

      • THỰC TRẠNG XỬ LÝ VẬT CHỨNG THEO QUY ĐỊNH BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ 2003. MỘT SỐ HẠN CHẾ VÀ VƯỚNG MẮC

      • I. Thực tiễn thi hành Bộ luật tố tụng hình sự 2003 về vấn đề xử lý vật chứng:

      • 1. Xử lý vật chứng là công cụ, phương tiện phạm tội, vật cấm lưu hành.

      • 2. Xử lý vật chứng là những vật, tiền bạc thuộc sở hữu của Nhà nước, tổ chức, cá nhân bị người phạm tội chiếm đoạt hoặc dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội:

      • 3. Xử lý vật chứng là tiền bạc hoặc tài sản do phạm tội mà có:

      • 4. Xử lý vật chứng là hàng hóa mau hỏng khó bảo quản:

      • 5. Xử lý vật chứng không có giá trị sử dụng hoặc không sử dụng được:

      • 6. Xử lý vật chứng là động vật hoang dã và thực vật ngoại lai:

      • 7. Xử lý vật chứng đối với những tài sản có giá trị đặc biệt:

      • 8. Vấn đề xử lý vật, tài sản không phải là vật chứng của vụ án:

      • 9. Xử lý tài sản trong trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng xác định không đúng vật chứng:

      • 10. Vấn để xử lý vật chứng trong giai đoạn chuẩn bị xét xử của Tòa án:

  • KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

Nội dung

Khái niệm về vật chứng

1 Định nghĩa vật chứng: Điều 74 BLTTHS 2003 quy định: “ Vật chứng là vật được dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội; vật mang dấu vết của tội phạm; vật là đối tượng của tội phạm cũng như tiền bạc và vật khác có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội”. Điều 89 BLTTHS 2015 quy định: “ Vật chứng là vật được dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội, vật mang dấu vết tội phạm, vật là đối tượng của tội phạm, tiền hoặc vật khác có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội hoặc có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án”.

Vật chứng là những đồ vật được thu thập theo quy trình pháp luật Tố tụng hình sự, chứa đựng thông tin có giá trị chứng minh tội phạm, danh tính người phạm tội và các tình tiết cần thiết để giải quyết vụ án một cách hợp pháp.

2 Đặc điểm của vật chứng:

Vật chứng trong vụ án hình sự là những vật thể cụ thể, hữu hình mà các chủ thể có thể cảm nhận được Đặc điểm quan trọng nhất của vật chứng là tính khách quan, bởi chúng không bị ảnh hưởng bởi yếu tố tâm lý hay tình cảm Vật chứng có thể là những đồ vật lớn dễ nhận thấy hoặc những vật thể nhỏ cần quan sát tỉ mỉ và có thể sử dụng công nghệ hỗ trợ Tuy nhiên, vật chứng cũng dễ bị tác động bởi các yếu tố môi trường, dẫn đến sự thay đổi, biến dạng hoặc hủy hoại.

Vật chứng là những yếu tố chứa đựng thông tin và tình tiết quan trọng, có thể được sử dụng làm chứng cứ trong việc giải quyết các vụ án hình sự.

Dựa vào các thông tin và tình tiết có sẵn, các bên liên quan trong vụ án có thể xác định được những chứng cứ cần thiết để làm rõ các vấn đề cần chứng minh, từ đó góp phần quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án.

- Vật chứng mang tính pháp lý tố tụng hình sự

Vật chứng trong vụ án hình sự chứa đựng thông tin quan trọng và có thể được sử dụng làm chứng cứ trong quá trình giải quyết Để đảm bảo giá trị chứng minh của vật chứng, việc thu thập phải tuân theo quy trình và thủ tục pháp luật tố tụng hình sự Tuy nhiên, vật chứng có thể bị ảnh hưởng bởi các yếu tố tự nhiên, dẫn đến sự thay đổi và giảm sút giá trị, gây khó khăn cho quá trình giải quyết vụ án.

Pháp luật tố tụng hình sự yêu cầu vật chứng phải được bảo quản ngay sau khi thu thập để đảm bảo giá trị chứng minh, cho đến khi vụ án được kết thúc.

Theo quy định tại Điều 74 BLTTHS 2003 thì vật chứng được chia thành các loại sau:

- Vật chứng là những vật được dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội;

- Vật chứng là những vật mang dấu vết tội phạm;

- Vật chứng là những vật được xem là đối tượng của tội phạm;

- Vật chứng là tiền bạc và vật khác có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội

Việc phân loại vật chứng có mục đích giúp các cơ quan và người tiến hành tố tụng hiểu rõ hơn về các loại vật chứng, từ đó áp dụng biện pháp xử lý phù hợp trong quá trình giải quyết vụ án.

Khái niệm xử lý vật chứng

1 Định nghĩa xử lý vật chứng:

Xử lý vật chứng là quy trình mà cơ quan và người có thẩm quyền quyết định số phận pháp lý của vật chứng bị thu giữ hoặc tạm giữ Quyết định này phụ thuộc vào từng giai đoạn của tố tụng và các quy định pháp luật hiện hành trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử.

2 Mục đích của việc xử lý vật chứng:

Việc xử lý vật chứng là cần thiết để giải quyết triệt để vụ án và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của Nhà nước, tổ chức và cá nhân Khi vật chứng được trả lại cho chủ sở hữu, điều này giúp đáp ứng kịp thời nguyện vọng và lợi ích của các bên liên quan, từ đó tạo điều kiện cho họ thực hiện quyền sở hữu và khai thác giá trị tài sản Ngược lại, nếu vật chứng bị tịch thu sung công quỹ Nhà nước, nó sẽ gia tăng giá trị lợi ích vật chất cho Nhà nước, trong khi vật chứng bị tịch thu và tiêu hủy sẽ bảo vệ lợi ích của cộng đồng và xã hội.

3 Ý nghĩa của việc xử lý vật chứng:

Hoạt động xử lý vật chứng kịp thời và hiệu quả là yếu tố quan trọng trong việc giải quyết vụ án, nâng cao chất lượng tố tụng của các cơ quan điều tra, viện kiểm sát và tòa án Điều này không chỉ đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật mà còn duy trì công bằng xã hội, góp phần vào công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, bảo vệ chế độ chính trị và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về xử lý vật chứng

1 Quy định về các loại vật chứng:

Theo Điều 74 Bộ luật Tố tụng hình sự 2003, vật chứng được phân loại thành nhiều loại khác nhau dựa trên các căn cứ cụ thể Việc phân loại này dựa vào đặc điểm của sự xuất hiện và vai trò của vật chứng trong quá trình diễn ra vụ án hình sự.

1.1 Vật chứng là những vật được dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội

Công cụ phạm tội là những vật dụng mà người phạm tội sử dụng để tác động trực tiếp lên nạn nhân, gây thiệt hại cho họ Trong khi đó, phương tiện phạm tội không trực tiếp tác động vào nạn nhân nhưng đóng vai trò hỗ trợ trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội.

1.2 Vật chứng là những vật mang dấu vết của tội phạm

Những vật chứa đựng dấu vết do người phạm tội để lại trong quá trình thực hiện tội phạm là các bằng chứng quan trọng Những dấu vết này xuất hiện khi người phạm tội va chạm và tiếp xúc với các vật thể xung quanh, từ đó được lưu lại Chúng có thể bao gồm dấu vết cơ học như vết tỳ, vết hằn, lồi, lõm, và dấu vết sinh học như vết máu, vết tinh dịch, vết nước bọt.

1.3 Vật chứng là những vật được xem là đối tượng của tội phạm

Vật là đối tượng của tội phạm, đóng vai trò quan trọng trong khách thể của tội phạm, khi bị tác động bởi hành vi phạm tội dẫn đến thiệt hại hoặc đe dọa cho các quan hệ xã hội được bảo vệ bởi luật hình sự Những vật này có thể bị biến đổi về vị trí, hình dáng, kích thước và tính chất do các hành vi tội phạm như chiếm đoạt, hủy hoại, làm hư hỏng hoặc sử dụng trái phép.

1.4 Vật chứng là tiền bạc và vật khác có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội

Trong quá trình thực hiện tội phạm, tiền bạc được sử dụng để phục vụ cho hành vi phạm tội được xem là vật chứng Tuy nhiên, còn nhiều vật khác có liên quan đến vụ án và có giá trị chứng minh tội phạm, nhưng không thuộc loại vật chứng chính thức, nên được gọi là “vật khác” Những vật này bao gồm bất kỳ đồ vật nào có giá trị chứng minh cho tội phạm và người phạm tội, được thu thập theo đúng trình tự pháp luật, như giấy tờ tùy thân, quần áo, giày dép của hung thủ hoặc nạn nhân tại hiện trường.

2 Thẩm quyền và thời điểm xử lý vật chứng:

Theo quy định tại khoản 1 Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự, việc xử lý vật chứng được quyết định bởi các cơ quan khác nhau tùy theo giai đoạn của vụ án: Cơ quan Điều tra quyết định nếu vụ án bị đình chỉ ở giai đoạn điều tra; Viện kiểm sát quyết định nếu vụ án bị đình chỉ ở giai đoạn truy tố; và Tòa án hoặc Hội đồng xét xử quyết định ở giai đoạn xét xử Tất cả các quyết định về xử lý vật chứng phải được ghi vào biên bản.

Theo quy định tại các Điều 34, 36, 38 của Bộ luật Tố tụng hình sự, thẩm quyền xử lý vật chứng được giao cho Thủ trưởng và Phó Thủ trưởng Cơ quan Điều tra, Viện trưởng và Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, cũng như Chánh án và Phó Chánh án Tòa án cùng Hội đồng xét xử.

Theo quy định, Thủ trưởng và Phó Thủ trưởng Cơ quan Điều tra cùng Viện trưởng và Phó Viện trưởng Viện kiểm sát có quyền xử lý vật chứng khi vụ án bị đình chỉ ở giai đoạn điều tra hoặc truy tố Nếu vụ án không bị đình chỉ, quyền xử lý vật chứng vẫn thuộc về các vị trí này trong trường hợp vật chứng là hàng hóa mau hỏng hoặc khó bảo quản, hoặc là tài sản, tiền bạc thuộc sở hữu nhà nước, tổ chức, cá nhân bị chiếm đoạt, miễn là không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, thẩm quyền xử lý vật chứng thuộc về Chánh án và Phó Chánh án, và Hội đồng xét xử sẽ quyết định khi vụ án được đưa ra xét xử.

3 Biện pháp xử lý vật chứng

Theo quy định tại khoản 2, khoản 3, khoản 4 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự vật chứng được xử lý như sau:

3 1 Đối với vật chứng là công cụ, phương tiện phạm tội, vật cấm lưu hành thì tịch thu, sung quỹ nhà nước hoặc tiêu hủy

Vật chứng là công cụ và phương tiện phạm tội thuộc sở hữu của người phạm tội sẽ được xử lý theo quy định pháp luật: nếu có giá trị, chúng sẽ bị tịch thu sung quỹ nhà nước; nếu không có giá trị, chúng sẽ bị tịch thu và tiêu hủy.

Vật chứng là vật cấm lưu hành sẽ bị tịch thu và tiêu hủy, không phân biệt chủ sở hữu Nếu vật chứng không có giá trị hoặc có khả năng gây nguy hại cho xã hội, việc tiêu hủy là cần thiết.

Đối với vật chứng là hàng hóa cấm lưu hành như vũ khí quân dụng hoặc các sản phẩm tự nhiên quý hiếm như động vật và thực vật, việc tịch thu và tiêu hủy không được phép, trừ khi chúng đã hư hỏng hoặc thối rửa Theo quy định hiện hành, các vật chứng này phải được sung quỹ Nhà nước và quản lý theo đúng pháp luật, đặc biệt là vũ khí quân dụng phải tuân thủ Nghị định số 25/2012/NĐ-CP ngày 05 tháng 4 năm 2012 của Chính phủ về quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ.

Khi vật chứng là tài sản thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành bị chiếm đoạt và được mua bán trái phép, nếu tài sản đó được thu hồi, cần thực hiện việc trả lại, bồi thường hoặc tịch thu Số tiền từ việc mua bán trái phép sẽ bị tịch thu sung quỹ Nhà nước theo quy định tại Điều 41 BLHS Để tránh việc trùng thu, chỉ tịch thu một lần đối với người bán (nếu người mua đã trả tiền) hoặc người mua (nếu chưa trả tiền).

Theo khoản 3 Điều 41 Bộ luật hình sự, vật chứng thuộc sở hữu của người khác nhưng do lỗi của chủ sở hữu để cho người phạm tội sử dụng trong việc thực hiện tội phạm có thể bị tịch thu sung quỹ nhà nước.

Vật chứng bao gồm tài sản và tiền bạc thuộc sở hữu của nhà nước, tổ chức hoặc cá nhân bị chiếm đoạt hoặc sử dụng làm công cụ phạm tội Những vật chứng này sẽ được trả lại cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp Nếu không xác định được chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp, vật chứng sẽ được sung quỹ Nhà nước.

Trong trường hợp xác định được chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp, vật chứng sẽ được trả lại cho họ trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử nếu không ảnh hưởng đến vụ án, theo khoản 3 Điều 76 BLTTHS 2003 Tuy nhiên, chủ sở hữu phải là người không có lỗi trong việc để cho người phạm tội sử dụng tài sản của mình; nếu có lỗi, việc xử lý sẽ được thực hiện theo điểm a khoản 2 Điều 76 BLTTHS.

Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 về xử lý vật chứng trong giải quyết vụ án hình sự

BLTTHS 2015 đã kế thừa và phát huy những điểm tích cực từ Điều 76 BLTTHS 2003 về xử lý vật chứng, đồng thời sửa đổi và bổ sung các quy định mới nhằm khắc phục những hạn chế mà BLTTHS 2003 chưa đề cập hoặc chưa phù hợp.

1 Quy định của BLTTHS 2015 về vật chứng: Điều 89 BLTTHS 2015 quy định như sau: “ Vật chứng là vật được dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội, vật mang dấu vết tội phạm, vật là đối tượng của tội phạm, tiền hoặc vật khác có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội hoặc có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án” Như vậy theo Điều 89 BLTTHS 2015 quy định về vật chứng không khác so với Điều 74BLTTHS 2003, nhưng Điều 89 quy định thêm vật chứng có thể là vật có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án Đây là một quy định “ mở” của pháp luật nhằm mục đích giúp Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án hình sự có thể thu thập các vật, thông tin khác khác nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất để giải quyết vụ án một cách chính xác, triệt để, đúng pháp luật.

2 Thẩm quyền và thời điểm xử lý vật chứng theo quy định của Bộ luật hình sự 2015:

Theo quy định tại khoản 1 Điều 106 BLTTHS 2015, thẩm quyền xử lý vật chứng được phân chia rõ ràng theo từng giai đoạn của vụ án: Cơ quan điều tra xử lý vật chứng nếu vụ án bị đình chỉ ở giai đoạn điều tra; Viện kiểm sát quyết định trong giai đoạn truy tố; Chánh án Tòa án can thiệp khi vụ án đình chỉ ở giai đoạn chuẩn bị xét xử; và Hội đồng xét xử quyết định nếu vụ án đã được đưa ra xét xử Các quyết định xử lý vật chứng phải được ghi vào biên bản, cho thấy sự thay đổi và cụ thể hơn so với quy định tại Khoản 1 Điều 76 BLTTHS trước đó.

Theo khoản 1 Điều 76 BLTTHS 2003, thẩm quyền xử lý vật chứng chỉ nêu tên các cơ quan như Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án mà không chỉ rõ cá nhân có thẩm quyền Tuy nhiên, BLTTHS 2015 đã quy định rõ ràng rằng trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, nếu vụ án bị đình chỉ, Chánh án Tòa án sẽ quyết định về việc xử lý vật chứng Ngoài ra, khoản 1 Điều 106 cũng bổ sung thêm các cơ quan được giao nhiệm vụ điều tra như Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, Cảnh sát biển, Kiểm ngư và Công an nhân dân Điều này cho thấy thẩm quyền xử lý vật chứng đã được mở rộng cho nhiều cơ quan có chức năng điều tra, phù hợp với thực tiễn hiện nay Ví dụ, trong một vụ án buôn lậu, Bộ đội Biên phòng đã thu giữ hàng hóa là vật chứng và tiến hành xử lý kịp thời mà không ảnh hưởng đến quá trình giải quyết vụ án, thể hiện tính cấp thiết trong việc xử lý vật chứng.

Theo quy định tại Điều 36, 39, 40, 41, 44 của BLTTHS năm 2015, Thủ trưởng và Phó Thủ trưởng Cơ quan Điều tra, cũng như Viện trưởng và Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, có quyền xử lý vật chứng khi vụ án bị đình chỉ ở giai đoạn điều tra hoặc truy tố Nếu vụ án không bị đình chỉ, quyền xử lý vật chứng vẫn thuộc về các cơ quan này trong những trường hợp cụ thể theo khoản 3 Điều 106 BLTTHS 2015, bao gồm việc trả lại tài sản không phải vật chứng, trả lại vật chứng không ảnh hưởng đến vụ án, xử lý vật chứng mau hỏng hoặc khó bảo quản, và giao vật chứng động vật hoang dã, thực vật ngoại lai cho cơ quan quản lý chuyên ngành Trong giai đoạn xét xử, Chánh án và Phó Chánh án có thẩm quyền xử lý vật chứng nếu vụ án chưa được đưa ra xét xử hoặc bị đình chỉ trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, và Hội đồng xét xử sẽ quyết định khi vụ án đã được mở phiên tòa.

Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử, các cá nhân có thẩm quyền như Thủ trưởng, phó Thủ trưởng Cơ quan Điều tra, Thủ trưởng cơ quan được giao nhiệm vụ điều tra, Viện trưởng, phó Viện trưởng Viện kiểm sát, cùng Chánh án, phó Chánh án Tòa án có quyền ra Quyết định xử lý vật chứng Quyết định này có thể được thực hiện vào bất kỳ thời điểm nào trong quá trình vụ án đang được thụ lý, theo quy định tại các điểm a, b, c, d Khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.

3 Biện pháp xử lý vật chứng:

Theo quy định tại khoản 2, Khoản 3 Điều 106 BLTTHS 2015 thì vật chứng được xử lý như sau:

- Vật chứng là công cụ, phương tiện phạm tội, vật cấm tàng trữ, lưu hành thì tịch thu, nộp ngân sách nhà nước hoặc tiêu hủy;

- Vật chứng là tiền bạc hoặc tài sản do phạm tội mà có thì bị tịch thu, nộp ngân sách nhà nước;

- Vật chứng không có giá trị hoặc không sử dụng được thì bị tịch thu và tiêu hủy;

Nếu vật không được xác định là vật chứng đã bị thu giữ hoặc tạm giữ, thì cần phải trả lại cho chủ sở hữu hoặc người đại diện hợp pháp của tài sản đó.

Trả lại vật chứng cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp khi không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án và thi hành án.

- Vật chứng thuộc loại mau hỏng hoặc khó bảo quản thì được bán theo quy định của pháp luật; trường hợp không bán được thì tiêu hủy.

Vật chứng liên quan đến động vật hoang dã và thực vật ngoại lai sẽ được chuyển giao cho cơ quan chuyên ngành có thẩm quyền để xử lý theo quy định của pháp luật ngay sau khi có kết luận giám định.

Hình thức xử lý vật chứng theo Bộ luật hình sự năm 2015 đã kế thừa và cụ thể hóa các quy định từ Bộ luật tố tụng hình sự 2003, đồng thời bổ sung các biện pháp xử lý mới cho từng trường hợp cụ thể.

Theo quy định hiện hành, việc xử lý vật chứng là công cụ, phương tiện phạm tội hoặc vật cấm tàng trữ, lưu hành có thể thực hiện thông qua hai biện pháp: tịch thu nộp ngân sách nhà nước hoặc tịch thu để tiêu hủy Biện pháp tịch thu nộp ngân sách nhà nước áp dụng đối với những vật chứng có giá trị kinh tế, trong khi biện pháp tiêu hủy được thực hiện khi vật chứng không còn giá trị và có thể gây nguy hại cho xã hội Đối với những vật chứng không có giá trị hoặc không sử dụng được, chúng sẽ bị tịch thu và tiêu hủy Ngoài ra, vật chứng thuộc loại mau hỏng hoặc khó bảo quản có thể được bán theo quy định pháp luật; nếu không bán được, sẽ tiến hành tiêu hủy Luật mới cũng mở rộng thẩm quyền giải quyết trong tất cả các giai đoạn của vụ án, nhằm khắc phục hạn chế của BLTTHS 2003.

Theo Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, vật chứng sẽ được trả lại ngay cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp nếu không ảnh hưởng đến việc xử lý vụ án và thi hành án, nhằm khắc phục tình trạng chậm trễ trong việc trả tài sản Tuy nhiên, nếu chủ sở hữu có lỗi trong việc để tài sản bị sử dụng vào tội phạm, tài sản đó có thể bị tịch thu theo khoản 3 Điều 47 Bộ luật Hình sự 2015 Việc tịch thu hay trả lại phụ thuộc vào giá trị tài sản và đánh giá của cơ quan tố tụng, do đó cần có quy định rõ ràng về các căn cứ tịch thu để tránh sự tùy tiện và tiêu cực trong quá trình xử lý.

Theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 106 BLTTHS 2015, nếu tài sản bị thu giữ hoặc tạm giữ không phải là vật chứng của vụ án, thì sẽ được trả lại cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp Quy định này đã khắc phục những hạn chế của BLTTHS 2003, giúp việc áp dụng pháp luật trở nên thuận lợi hơn trong quá trình giải quyết vụ án.

Theo hướng dẫn, khi trả đồ vật, tài sản không phải là vật chứng cho chủ sở hữu trước phiên tòa, cơ quan có thẩm quyền không cần ra quyết định xử lý hay trả lại tài sản, mà chỉ cần lập biên bản trả lại và lưu vào hồ sơ vụ án Nếu việc này xảy ra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử sẽ ghi nhận trong phần quyết định của bản án.

Quy định tại BLTTHS 2015 về xử lý vật chứng tại các điểm a, b khoản 3 Điều 106 chưa rõ ràng, đặc biệt là khi không xác định được chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp tài sản trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử Luật yêu cầu cơ quan có thẩm quyền phải trả lại tài sản ngay, nhưng nếu không tìm được chủ sở hữu, các biện pháp nghiệp vụ và điều tra như thông báo trong thời hạn nhất định sẽ được áp dụng Thông báo này thường được niêm yết tại cơ quan ra thông báo, và đối với vật chứng có giá trị lớn như ô tô, tàu, thuyền, tiền, vàng, thông báo sẽ được công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng.

Thực tiễn thi hành Bộ luật tố tụng hình sự 2003 về vấn đề xử lý vật chứng: .21 1 Xử lý vật chứng là công cụ, phương tiện phạm tội, vật cấm lưu hành

1 Xử lý vật chứng là công cụ, phương tiện phạm tội, vật cấm lưu hành

Theo khoản 2 Điều 76 BLTTHS 2003, vật chứng là công cụ, phương tiện phạm tội sẽ bị tịch thu sung quỹ nhà nước nếu có giá trị, hoặc tịch thu tiêu hủy nếu không có giá trị Đối với vật chứng là vật cấm lưu hành, việc tịch thu và tiêu hủy diễn ra mà không phân biệt sở hữu, nhất là khi vật đó không có giá trị hoặc có thể gây hại cho xã hội, như ma túy, văn hóa phẩm đồi trụy, hay tài liệu phản động Trong trường hợp vật chứng là vật cấm lưu hành nhưng có giá trị, như vũ khí quân dụng hoặc hàng hóa cấm, sẽ được tịch thu sung công quỹ Nhà nước.

Theo quy định hiện hành, biện pháp xử lý đối với công cụ, phương tiện phạm tội bao gồm tịch thu, sung quỹ nhà nước hoặc tiêu hủy Công cụ phạm tội có thể là vật của người phạm tội hoặc tài sản của tổ chức, cá nhân bị chiếm đoạt, như súng, dao, tiền bạc dùng trong đánh bạc hay hối lộ Phương tiện phạm tội có thể là xe mô tô, ô tô, điện thoại, máy tính, hoặc tài sản như nhà cửa, kho bãi Do đó, cần có quy định cụ thể để xử lý các trường hợp thực tiễn phát sinh.

Trong các vụ án giao thông, xe mô tô và xe ô tô được coi là vật chứng Một số ý kiến cho rằng phương tiện giao thông không bị tịch thu nếu hành vi phạm tội xảy ra do lỗi vô ý, vì người phạm tội chỉ sử dụng phương tiện để di chuyển mà không có ý định phạm tội Tuy nhiên, cũng có quan điểm cho rằng nếu phương tiện giao thông thuộc diện cấm lưu hành, quá niên hạn sử dụng, hoặc được tự chế, tự hoán cải, thì sẽ bị tịch thu và sung quỹ nhà nước Ngoài ra, nếu người điều khiển phương tiện trong tình trạng say rượu hoặc sử dụng chất kích thích, thì cũng cần tịch thu phương tiện do có lỗi cố ý trong hành vi.

Trong quá trình xét xử, các cơ quan tiến hành tố tụng cần phải xem xét nhiều khía cạnh của vụ án để đảm bảo việc xử lý đúng quy định pháp luật Quan điểm này phù hợp với thực tiễn, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đánh giá toàn diện các yếu tố liên quan đến vụ án.

Trong trường hợp nhà ở, kho bãi của người phạm tội được sử dụng để thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật như mua bán, tổ chức mại dâm, đánh bạc hoặc cất giấu hàng cấm, người phạm tội phải nhận thức rõ đây là hành vi vi phạm pháp luật và có lỗi cố ý Thực tế, các Tòa án thường thực hiện việc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản để sung công quỹ Nhà nước, tuy nhiên cũng có những trường hợp không xử lý tài sản đó Đặc biệt, nếu người phạm tội sử dụng tài sản làm phương tiện phạm tội một cách chuyên nghiệp và đã bị xử lý nhiều lần, với mức độ vụ án nghiêm trọng, các cơ quan tố tụng cần tiến hành tịch thu tài sản để răn đe và thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật.

Trong trường hợp người phạm tội sử dụng băng ghi âm hoặc ghi hình bí mật đời tư của người khác để thực hiện hành vi phạm tội như cưỡng đoạt tài sản, các cơ quan tiến hành tố tụng cần xem xét ý chí của nạn nhân Nếu nạn nhân yêu cầu trả lại các vật chứng này, cơ quan có thể trả lại cho họ Ngược lại, nếu nạn nhân không yêu cầu, các vật chứng sẽ được xác định là không có giá trị sử dụng và sẽ bị tịch thu, tiêu hủy.

2 Xử lý vật chứng là những vật, tiền bạc thuộc sở hữu của Nhà nước, tổ chức, cá nhân bị người phạm tội chiếm đoạt hoặc dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội:

Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 76 BLTTHS, vật chứng bao gồm tài sản và tiền bạc thuộc sở hữu của Nhà nước, tổ chức, cá nhân bị chiếm đoạt hoặc sử dụng làm công cụ phạm tội sẽ được trả lại cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp Nếu không xác định được chủ sở hữu, vật chứng sẽ sung công quỹ nhà nước Có hai trường hợp xử lý: Trường hợp đầu tiên, nếu xác định được chủ sở hữu không có lỗi, vật chứng sẽ được trả lại; nếu chủ sở hữu có lỗi, xử lý theo điểm a khoản 2 Điều 76 Trường hợp thứ hai, nếu không xác định được chủ sở hữu, vật chứng sẽ sung quỹ nhà nước Trong thực tiễn, cần làm rõ nhiều vấn đề như: Nếu chủ sở hữu hợp pháp không muốn nhận lại tài sản, cơ quan tố tụng sẽ căn cứ vào đâu để xử lý? Hoặc nếu chủ sở hữu có lỗi trong việc để tài sản bị chiếm đoạt, sẽ xử lý như thế nào? Hay trong trường hợp quản lý tài sản bất hợp pháp, việc xử lý vật chứng sẽ ra sao?

Trong trường hợp chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp từ chối nhận lại tài sản, Điều 76 BLTTHS năm 2003 không quy định rõ ràng về việc xử lý vật chứng, dẫn đến khó khăn cho cơ quan tố tụng trong việc xác định căn cứ pháp lý Việc tịch thu tài sản có thể dựa trên ý chí của chủ sở hữu và đặc điểm của vật chứng, với hai hướng xử lý: tịch thu sung công quỹ Nhà nước nếu vật chứng có giá trị sử dụng, hoặc tiêu hủy nếu không còn giá trị Nếu người quản lý có lỗi và vật đó không còn giá trị, việc xử lý sẽ rõ ràng hơn; tuy nhiên, nếu chủ sở hữu không có lỗi và tài sản vẫn có giá trị mà họ từ chối nhận lại, việc tịch thu vẫn thiếu cơ sở pháp lý Cả BLTTHS năm 2015 và BLHS 2015 đều không đề cập đến vấn đề này, do đó cần có hướng dẫn cụ thể từ cơ quan có thẩm quyền.

Trong trường hợp người phạm tội chiếm đoạt tài sản, tiền bạc của người khác để thực hiện hành vi phạm tội, nếu chủ sở hữu cũng có một phần lỗi trong việc để tài sản bị chiếm đoạt, thì có thể áp dụng hình thức xử lý như tịch thu, sung công quỹ Nhà nước hoặc trả lại tài sản cho chủ sở hữu Điều này được quy định tại Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Năm 2003 không quy định rõ ràng về lỗi của chủ sở hữu hay người quản lý hợp pháp trong việc trả lại tài sản, dẫn đến việc không xác định được trường hợp nào sẽ bị tịch thu sung quỹ Theo Khoản 3 Điều 41 BLHS năm 1999, tài sản của người khác có thể bị tịch thu nếu người sở hữu có lỗi trong việc để cho người phạm tội sử dụng Tuy nhiên, quy định "có thể bị tịch thu" chỉ cho phép Tòa án quyết định mà không có hướng dẫn cụ thể, gây khó khăn trong việc áp dụng pháp luật Điều này dẫn đến việc cơ quan tố tụng phải xác định mức độ lỗi của chủ sở hữu trong từng vụ án, và nếu đánh giá sai, có thể dẫn đến xử lý vật chứng không hợp lý và không thuyết phục.

Trong trường hợp người phạm tội chiếm đoạt tài sản của người khác làm công cụ phạm tội, nếu người quản lý tài sản đó là người quản lý bất hợp pháp, Điều 76 BLTTHS 2003 không quy định việc xử lý tài sản bằng cách trả lại cho người quản lý bất hợp pháp hay cho người thứ ba là chủ sở hữu Thực tế xét xử cho thấy, nếu xác định chủ sở hữu không có lỗi trong việc để tài sản bị chiếm đoạt, Tòa án phải trả lại tài sản cho chủ sở hữu thay vì cho người quản lý bất hợp pháp, bởi vì pháp luật không công nhận việc quản lý bất hợp pháp tài sản của người khác Việc trả lại tài sản cho chủ sở hữu là cần thiết để giải quyết toàn diện mọi vấn đề của vụ án.

3 Xử lý vật chứng là tiền bạc hoặc tài sản do phạm tội mà có: Điểm c khoản 2 Điều 76 BLTTHS 2003 quy định: Vật chứng là tiền bạc hoặc tài sản do phạm tội mà có thì bị tịch thu sung công quỹ Nhà nước Đó là vật, tiền bạc là đối tượng của tội phạm như tội buôn lậu, mua bán dâm, tổ chức mại dâm, có thể là tiền bạc, tài sản được sinh lời từ việc sử dụng tài sản, tiền bạc vào việc phạm tội, hay tài sản, tiền bạc chiếm đoạt được của người khác Việc áp dụng nội dung này trong thực tiễn phát sinh một số vấn đề cần làm rõ sau:Trường hợp người phạm tội chiếm đoạt tài sản của người khác sau đó sử dụng vào mục đích khác để sinh lời, quá trình điều tra cơ quan tố tụng thu giữ tài sản thì tài sản bị hư hỏng cần sửa chữa theo yêu cầu của chủ sở hữu, vấn đề đặt ra là việc tịch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền sinh lời như thế nào cho phù hợp?hoặc trường hợp người phạm tội chiếm đoạt tài sản của người khác rồi bán số tài sản đó, thì số tiền bán được xử lý ra sao? Đối với vấn đề đã nêu trên đây, hiện tại có nhiều quan điểm khác nhau: Quan điểm thứ nhất cho rằng, cần phải tịch thu toàn bộ số tiền sinh lời hoặc số tiền bán tài sản do người phạm tội chiếm đoạt để sung công quỹ nhà nước, còn vấn đề bồi thường hư hỏng tài sản và bồi thường tài sản cho chủ sở hữu hợp pháp là vấn đề khác Quan điểm thứ hai cho rằng: Việc tịch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền sinh lời từ việc phạm tội mà có hoặc số tiền bán tài sản đã chiếm đoạt được tính sau khi khấu trừ số tiền đã phải bồi thường, trường hợp thiếu thì phải bồi thường cho đủ, nếu còn thừa thì tịch thu sung công quỹ số tiền thừa đó Học viên đồng tình với quan điểm thứ hai, bởi lẽ trường hợp nếu tịch thu toàn bộ số tiền sinh lời hoặc toàn bộ số tiền bán tài sản chiếm đoạt và đồng thời buộc người phạm tội phải bồi thường thiệt hại xảy ra là bất lợi đối với người phạm tội

Trong trường hợp hàng hóa bị cấm lưu hành bị chiếm đoạt và giao dịch qua nhiều cầu, có hai quan điểm về việc tịch thu tiền từ các bên liên quan Một quan điểm cho rằng cần tịch thu toàn bộ số tiền từ cả người mua và người bán ở mỗi lần giao dịch, trong khi quan điểm khác cho rằng chỉ nên tịch thu tiền từ người bán nếu người mua đã thanh toán, hoặc từ người mua nếu họ chưa trả tiền Học viên cho rằng quan điểm thứ hai hợp lý hơn, với việc tịch thu chỉ diễn ra một lần tại mỗi cầu giao dịch.

4 Xử lý vật chứng là hàng hóa mau hỏng khó bảo quản:

Theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 76 BLTTHS 2003, vật chứng là hàng hóa mau hỏng hoặc khó bảo quản có thể được bán theo quy định của pháp luật Điều này nhằm đảm bảo việc xử lý tài sản trong quá trình điều tra và truy tố được thực hiện một cách hợp pháp và hiệu quả.

Ngày đăng: 28/12/2021, 13:21

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w