1. Trang chủ
  2. » Văn Hóa - Nghệ Thuật

Giáo trình Tổng quan du lịch và khách sạn (Nghề: Nghiệp vụ nhà hàng khách sạn - Trung cấp) - Trường CĐ Nghề Kỹ thuật Công nghệ

156 47 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Giáo Trình Tổng Quan Du Lịch Và Khách Sạn
Trường học Trường Cao đẳng Nghề Kỹ thuật Công nghệ
Chuyên ngành Nghiệp vụ nhà hàng khách sạn
Thể loại Giáo trình
Năm xuất bản 2020
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 156
Dung lượng 2,87 MB

Cấu trúc

  • Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ DU LỊCH VÀ KHÁCH SẠN

    • 1. Một số khái niệm cơ bản

      • 1.1 Khái niệm du lịch

      • 1.2 Khái niệm khách du lịch

      • 1.3 Khái niệm điểm đến du lịch

      • 1.4. Khái niệm Khách sạn

    • 2. Các loại hình du lịch

      • 2.1. Căn cứ vào môi trường tài nguyên

      • 2.2 Căn cứ vào phạm vi lãnh thổ

      • 2.3. Căn cứ vào mục đích chuyến đi

      • 2.4 Căn cứ vào sự tương tác của du khách đối với nơi đến du lịch

      • 2.5. Căn cứ việc sử dụng phương tiện vận chuyển khách du lịch tới điểm đến du lịch

      • 2.6 Các cách phân loại khác

    • 3.Nhu cầu du lịch và sản phẩm du lịch

      • 3.1. Nhu cầu du lịch

      • 3.2. Sản phẩm du lịch

      • Phân loại

      • Đặc điểm

    • 4. Thời vụ du lịch

      • 4.1. Khái niệm và đặc điểm của thời vụ du lịch

      • 4.2. Các nhân tố tác động đến thời vụ du lịch

      • 4.3. Một số giải pháp khắc phục sự bất lợi của thời vụ du lịch

    • 5. Một số loại hình cơ sở lu lịch tiêu biểu

      • 5.1 Khách sạn

      • 5.2 Nhà nghỉ du lịch

      • 5.3 Motel

      • 5.4 Bungalow

      • 5.5 Làng du lịch

    • Vai trò của du lịch được đánh giá rất khác nhau giữa các nước. Ở một số nơi, nó được coi là cách thức tốt nhất để kiếm được những đồng ngoại tệ quý giá, cải thiện mối quan hệ với các nước khác và được xem như là phương tiện bộc lộ cho thế giới biết đ...

      • Các tác động về kinh tế

    • Số liệu mới nhất của ILO, công bố hồi tháng 4/2013, cho thấy hoạt động lữ hành và du lịch trong năm 2012 ước tính giúp tăng thêm hơn 260 triệu việc làm trên toàn cầu và đóng góp khoảng 9% Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của thế giới.

    • 1.2 Mối quan hệ giữa du lịch và văn hóa – xã hội

      • Các tác động văn hóa

      • Các tác động về xã hội

    • 1.3 Tác động môi trường của du lịch

      • Đã có thời người ta cho rằng du lịch là một ngành “lý tưởng” bởi vì nó không gây hại đến môi trường. Thực vậy, khác với ngành khai khoáng và một số dạng nông nghiệp khi sử dụng môi trường sẽ tác động và có thể phá hủy môi trường. Các nhà quảng bá du l...

      • Tác động của du lịch đến môi trường thành thị

      • Tác động của du lịch đến môi trường nông thôn

      • 2.1 Điều kiện chung

      • 2.1.4. Điều kiện nảy sinh nhu cầu du lịch

      • 2.2. Điều kiện về khả năng cung ứng du lịch

  • Giới thiệu

    • 1 Giới thiệu chung

    • Lịch sử phát triển của khách sạn

    • Vị trí, vai trò của khách sạn trong du lịch

    • 2.Phân loại khách sạn

      • 2.1 Phân loại

      • * Phân loại theo mức độ cung cấp dịch vụ

      • *Phân loại theo mức giá bán sản phẩm lưu trú

      • *Phân loại theo quy mô của khách sạn

      • * Phân loại theo hình thức sử hữu và quản lý

    • 2.2. Xếp hạng khách sạn

      • 2.2.1 Ý nghĩa của việc xếp hạng khách sạn

      • 2.2.2 Các tiêu chuẩn xếp hạng khách sạn

  • Khách sạn được chia theo chức năng thành 5 bộ phận riêng biệt: phòng, các nhà hàng & quầy uống, kế toán, tiếp thị thương mại và nhân sự. Các trưởng bộ phận này báo cáo trực tiếp trên GM. Mỗi bộ phận ñược chia ra thành các tổ chuyên trách nhỏ. Việc ph...

    • Bộ phận đón tiếp

    • Bộ phận buồng phòng

    • Bộ phận nhà hàng

    • Bộ phận kế toán - tài chính

    • Bộ phận nhân sự

    • Bộ phận kĩ thuật

    • Bộ phận bảo vệ

    • Bộ phận kinh doanh tổng hợp

    • Bộ phận quầy hàng, bán hàng lưu niệm

    • Bộ phận vui chơi giải trí: thể thao, spa, massage, casino, vũ trường...

    • 3.3.1.Mối quan hệ giữa lễ tân và buồng phòng

    • 3.3.2.Mối quan hệ giữa bộ phận nhà hàng và bếp

    • 3.3.3.Mối quan hệ giữa bộ phận nhà hàng và kinh doanh

    • 3.3.4.Mối quan hệ giữa bộ phận kế toán và lễ tân

    • 3.3.5.Mối quan hệ giữa bộ phận an ninh và bộ phận lễ tân

Nội dung

(NB) Giáo trình Tổng quan du lịch và khách sạn được biên soạn nhằm trang bị cho người học những vấn đề cơ bản về du lịch, khách sạn và những kỹ năng cần thiết để ứng dựng và phát triển các kiến thức của môn học vào trong kinh doanh du lịch. Nội dung chính của giáo trình gồm có 3 chương cụ thể như sau: Khái quát chung về du lich và khách sạn; Mối quan hệ giữa du lịch và các lĩnh vực khác, các điều kiện phát triển du lịch; Khách sạn.

Một số khái niệm cơ bản

Khái niệm du lịch

Con người luôn có sự tò mò về thế giới xung quanh, mong muốn tìm hiểu về cảnh quan, địa hình, hệ động thực vật và nền văn hóa của các vùng miền khác nhau Do đó, du lịch đã ra đời và trở thành một phần quan trọng trong cuộc sống Ngày nay, du lịch không còn là đặc quyền của cá nhân hay nhóm nhỏ mà đã trở thành nhu cầu xã hội chung, phục vụ cho việc nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của con người Tuy nhiên, khái niệm du lịch lại có nhiều cách hiểu khác nhau, phụ thuộc vào các góc độ tiếp cận khác nhau.

 Tiếp cận du lịch dưới góc độ nhu cầu của con người

Du lịch, trước thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, được xem là đặc quyền của tầng lớp giàu có và quý tộc, chỉ là một hiện tượng cá biệt trong đời sống kinh tế - xã hội Trong thời kỳ này, du lịch được coi là một hiện tượng xã hội, làm phong phú thêm cuộc sống và nhận thức con người, khi mà người ta rời khỏi nơi cư trú để đến những nơi xa lạ với nhiều mục đích khác nhau, không phải để kiếm tiền Các giáo sư Thụy Sĩ Hunziker và Krapf đã định nghĩa du lịch là tổng hợp các hiện tượng và mối quan hệ phát sinh từ việc di chuyển và lưu trú của những người không có ý định định cư và không liên quan đến hoạt động kiếm tiền, quan niệm này được công nhận bởi Hiệp hội quốc tế các chuyên gia khoa học về du lịch (AIEST).

Du lịch không chỉ được hiểu qua hiện tượng di chuyển mà còn là khái niệm quan trọng để xác định người đi du lịch, từ đó hình thành nhu cầu về du lịch trong tương lai.

Du lịch được định nghĩa là hoạt động mà con người vượt qua biên giới quốc gia hoặc khu vực với mục đích giải trí hoặc công việc, lưu trú tại đó ít nhất 24 giờ và không quá một năm Theo Mill và Morrison, du lịch có thể được xem xét qua các hoạt động đặc trưng mà mọi người mong muốn trải nghiệm trong các chuyến đi của mình.

Chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên nhằm thỏa mãn nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí và nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định.

Từ các góc độ nói trên, bản chất của du lịch được chỉ rõ thông qua 5 đặc điểm chính như sau:

1 Du lịch nảy sinh từ sự di chuyển và lưu trú của con người từ các nơi đến khác nhau

2 Có hai yếu tố chính trong hoạt động du lịch: Hành trình tới nơi đến và lưu lại, trong đó bao gồm cả hoạt động ở nơi đến

3 Chuyến đi và lưu trú xảy ra bên ngoài nơi cư trú và làm việc thường xuyên, do đó du lịch làm nảy sinh những hoạt động của người đi du lịch ở nơi đến khác biệt với những hoạt động của cư dân sinh sống và làm việc ở đây

4 Sự di chuyển tới nơi đến mang tính tạm thời, thời gian ngắn và sau đó quay trở về trong khoảng vài ngày, vài tuần hoặc vài tháng

5 Chuyến đi với nhiều mục đích song không vì mục đích định cư hoặc tìm kiếm việc làm tại nơi viếng thăm

Du lịch chủ yếu được hiểu như một hiện tượng và hoạt động phản ánh nhu cầu của khách du lịch, tuy nhiên, các cách tiếp cận hiện tại vẫn chưa giải thích đầy đủ bản chất của nó.

 Tiếp cận du lịch dưới góc độ là một ngành kinh tế

Du lịch không chỉ là một hoạt động giải trí mà còn trở thành một ngành kinh tế quan trọng, đáp ứng nhu cầu đi lại, ăn ở và giải trí của con người Ban đầu, du khách tự thỏa mãn các nhu cầu này, nhưng sau đó, chúng đã mở ra cơ hội kinh doanh mới Theo các học giả như McIntosh, Goeldner và Ritchie, du lịch bao gồm nhiều lĩnh vực như lữ hành, khách sạn, vận chuyển và các yếu tố khác nhằm phục vụ nhu cầu của du khách Hội nghị Liên hợp quốc về du lịch năm 1971 cũng khẳng định rằng ngành du lịch đại diện cho một tập hợp các hoạt động công nghiệp và thương mại, cung cấp hàng hóa và dịch vụ cho khách du lịch cả quốc tế lẫn nội địa.

Du lịch được xem như một hệ thống cung ứng các yếu tố thiết yếu cho hành trình, là ngành kinh tế cung cấp hàng hóa và dịch vụ bằng cách kết hợp giá trị tài nguyên du lịch Mục tiêu chính của du lịch là đáp ứng nhu cầu và mong muốn đặc biệt của du khách.

Để có cái nhìn toàn diện về du lịch, McIntosh, Goelder và Ritchie nhấn mạnh rằng cần xem xét tất cả các thành phần tham gia vào hoạt động du lịch Việc này giúp khái quát và hiểu rõ bản chất của du lịch một cách đầy đủ.

Khách du lịch là những người tìm kiếm trải nghiệm và sự thỏa mãn về vật chất lẫn tinh thần Bản chất của từng du khách sẽ quyết định điểm đến và các hoạt động mà họ lựa chọn tham gia và thưởng thức.

Các doanh nghiệp trong lĩnh vực du lịch nhìn nhận đây là cơ hội để gia tăng lợi nhuận bằng cách cung cấp hàng hóa và dịch vụ phù hợp với nhu cầu của khách du lịch.

Chính quyền địa phương nhận thấy du lịch là yếu tố quan trọng thúc đẩy kinh tế, mang lại lợi ích từ thu nhập kinh doanh cho cộng đồng, ngoại tệ từ khách quốc tế và doanh thu thuế cho ngân sách.

Dân cư địa phương thường xem du lịch như một yếu tố quan trọng trong việc tạo ra việc làm và thúc đẩy giao lưu văn hóa Sự tương tác giữa du khách quốc tế và cộng đồng địa phương mang lại những hiệu quả tích cực nhưng cũng có thể gây ra một số tác động tiêu cực.

Du lịch được hiểu là tổng hợp các hiện tượng và mối quan hệ phát sinh từ sự tương tác giữa khách du lịch, các nhà kinh doanh, chính quyền và cộng đồng địa phương Điều này phản ánh đầy đủ và toàn diện các hoạt động liên quan đến du lịch trong quá trình thu hút và tiếp đón khách.

Khái niệm khách du lịch

Du khách, hay khách du lịch, là yếu tố trung tâm trong hệ thống hoạt động du lịch, đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện các chuyến đi Đơn giản mà nói, du khách là những người đi du lịch, nhưng định nghĩa về họ lại thay đổi theo thời gian và giữa các quốc gia khác nhau.

Theo Nguyễn Văn Đính và Trần Thị Minh Hoà (2004), khái niệm về du khách lần đầu tiên xuất hiện vào cuối thế kỷ XVIII tại Pháp Thời điểm đó, các hành trình của người Đức, Đan Mạch, Bồ Đào Nha, Hà Lan và Anh tại Pháp được chia thành hai loại: cuộc hành trình nhỏ (Le petit tour) từ Paris đến miền Đông Nam nước Pháp và cuộc hành trình lớn (Le grand tour) theo bờ Địa Trung Hải, xuống phía Tây Nam nước Pháp và vùng Bourgone Du khách được định nghĩa là người thực hiện cuộc hành trình lớn, hay còn gọi là "Faire le grand tour".

Theo Đổng Ngọc Minh và Vương Lôi Đình (2000), thuật ngữ "tourist" (khách du lịch) lần đầu xuất hiện trong cuốn Từ điển Oxford vào năm 1811, chỉ những người đến từ nơi khác với mục đích tham quan và du ngoạn.

Vào đầu thế kỷ XX, Lozep Stander (Nhà kinh tế học người Áo) định nghĩa:

Khách du lịch được định nghĩa là những hành khách yêu thích sự xa hoa, lựa chọn lưu trú tại các địa điểm khác ngoài nơi cư trú chính để đáp ứng nhu cầu cao cấp mà không nhằm mục đích kinh tế.

Theo nhà kinh tế học người Anh Theo Odgilvi, để được coi là khách du lịch, cần có hai điều kiện chính: thứ nhất, người đó phải đi xa khỏi nhà trong thời gian không quá một năm; thứ hai, họ phải chi tiêu tại nơi lưu trú bằng tiền kiếm được từ nơi khác (Nguồn: Nguyễn Văn Đính và Trần Thị Minh Hoà, 2004).

Hội nghị của Tổ chức du lịch quốc tế tại Roma vào năm 1968 đã định nghĩa khách du lịch là những người ngủ qua đêm tại nơi không phải là nhà của mình, với mục đích chính của chuyến đi không phải để kiếm tiền (Nguồn: Nguyễn Văn Lưu, 2005).

Theo Luật Du lịch Việt Nam năm 2005, khách du lịch được định nghĩa là những người tham gia vào hoạt động du lịch hoặc kết hợp du lịch, ngoại trừ những trường hợp đi học, làm việc hoặc hành nghề nhằm mục đích kiếm thu nhập tại địa điểm đến.

Vào ngày 4 tháng 3 năm 1993, theo đề xuất của Tổ chức Du lịch Thế giới (UNWTO), Ủy ban Thống kê Liên Hợp Quốc đã chính thức công nhận các thuật ngữ nhằm thống nhất cách thức thống kê trong lĩnh vực du lịch.

Khách du lịch quốc tế (International Tourist) bao gồm khách quốc tế đến du lịch (Inbound Tourist) và khách quốc tế đi du lịch ra nước ngoài (Outbound Tourist)

Khách du lịch trong nước bao gồm công dân của quốc gia và người nước ngoài cư trú tại đây, thực hiện các chuyến du lịch trong lãnh thổ quốc gia.

Khách du lịch nội địa (Domestic Tourist) bao gồm khách du lịch trong nước (Internal Tourist) và khách quốc tế đến du lịch (Inbound Tourist)

Khách du lịch quốc gia (National Tourist) bao gồm khách du lịch trong nước (Internal Tourist) và khách quốc tế đi du lịch ra nước ngoài (Outbound Tourist)

Tại Việt Nam, khái niệm về khách du lịch được phân chia đơn giản thành hai loại: khách du lịch nội địa và khách du lịch quốc tế Theo Điều 34, Chương V của Luật Du lịch Việt Nam (2005), khách du lịch nội địa còn được gọi là khách du lịch trong nước.

Theo Luật Du lịch Việt Nam (2005), khách du lịch quốc tế bao gồm người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài đến Việt Nam để du lịch, cũng như công dân Việt Nam và người nước ngoài thường trú tại Việt Nam đi du lịch ra nước ngoài.

Theo Luật du lịch Việt Nam năm 2005, khách du lịch nội địa được định nghĩa là công dân Việt Nam và người nước ngoài thường trú tại Việt Nam, khi họ thực hiện các chuyến du lịch trong phạm vi lãnh thổ quốc gia.

Khái niệm điểm đến du lịch

Tài nguyên du lịch bao gồm cảnh quan thiên nhiên, yếu tố tự nhiên, di tích lịch sử - văn hóa, công trình sáng tạo của con người, và các giá trị nhân văn cùng sự kiện đặc biệt Những tài nguyên này không chỉ đáp ứng nhu cầu du lịch mà còn là yếu tố cơ bản để hình thành các khu du lịch, điểm du lịch, tuyến du lịch và đô thị du lịch.

16 Điểm du lịch là nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn, phục vụ nhu cầu tham quan của khách du lịch

Khu du lịch là điểm đến có tài nguyên du lịch phong phú, đặc biệt là tài nguyên tự nhiên, được quy hoạch và đầu tư phát triển để phục vụ nhu cầu đa dạng của du khách, đồng thời mang lại hiệu quả kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường.

Tuyến du lịch là lộ trình kết nối các khu vực du lịch, điểm tham quan và dịch vụ du lịch, đồng thời liên kết với các phương tiện giao thông như đường bộ, đường sắt, đường thủy và hàng không.

Kinh doanh du lịch là quá trình thực hiện các công đoạn trong hoạt động du lịch hoặc cung cấp dịch vụ du lịch trên thị trường với mục tiêu tạo ra lợi nhuận.

Lữ hành là việc xây dựng, bán và tổ chức thực hiện một phần hoặc toàn bộ chương trình du lịch cho khách du lịch

Hoạt động du lịch bao gồm sự tham gia của khách du lịch, các tổ chức và cá nhân kinh doanh du lịch, cùng với cộng đồng dân cư và các cơ quan, tổ chức có liên quan đến ngành du lịch.

Xúc tiến du lịch là hoạt động tuyên truyền, quảng bá, vận động nhằm tìm kiếm, thúc đẩy cơ hội phát triển du lịch

Sản phẩm du lịch là sự kết hợp giữa các dịch vụ, hàng hóa và tiện nghi phục vụ khách du lịch, được hình thành từ các yếu tố tự nhiên, cơ sở hạ tầng kỹ thuật và nguồn lao động du lịch tại một vùng hoặc địa phương cụ thể.

Khái niệm Khách sạn

Khách sạn là một hình thức kinh doanh lưu trú phổ biến toàn cầu, cung cấp chất lượng và tiện nghi cần thiết cho khách hàng Các khách sạn đáp ứng nhu cầu nghỉ ngơi, ăn uống, vui chơi giải trí và nhiều dịch vụ khác trong suốt thời gian lưu trú, phù hợp với mục đích và động cơ của chuyến đi.

Các loại hình du lịch

Căn cứ vào môi trường tài nguyên

Du lịch thiên nhiên, hay còn gọi là du lịch sinh thái, thu hút những người yêu thích không khí trong lành, cảnh sắc thiên nhiên tuyệt đẹp và sự phong phú của động thực vật hoang dã.

Những du khách trong nhóm này khao khát khám phá vẻ đẹp tự nhiên và cuộc sống hoang sơ tại Vườn Quốc gia Xuân Thủy, cùng với cảnh sắc hùng vĩ của Bà Nà.

Du lịch sinh thái là loại hình du lịch dựa vào thiên nhiên, kết hợp với bản sắc văn hóa địa phương và sự tham gia của cộng đồng, nhằm mục tiêu phát triển bền vững.

Du lịch sinh thái (EcoTourism) là hình thức du lịch có trách nhiệm, tập trung vào việc bảo tồn môi trường và nâng cao phúc lợi cho cộng đồng địa phương Mặc dù mới xuất hiện, nhưng du lịch sinh thái đã nhanh chóng phát triển, đặc biệt tại các khu bảo tồn và vườn quốc gia Nghiên cứu này nhằm khám phá tiềm năng và đưa ra giải pháp phát triển du lịch sinh thái trong các khu bảo tồn, nhằm kết nối du lịch với bảo tồn thiên nhiên và phát triển kinh tế cho cộng đồng địa phương.

Minh họa 1: Du lịch sinh thái

Du lịch sinh thái, xuất phát từ du lịch thiên nhiên và ngoài trời, đã tồn tại từ lâu nhưng chưa được chú ý đúng mức Sự phát triển mạnh mẽ của ngành du lịch, đặc biệt từ khi du lịch máy bay ra đời, cùng với sự quan tâm đến bảo vệ tài nguyên môi trường, đã thúc đẩy sự phát triển của du lịch sinh thái Sau các hội nghị môi trường quan trọng tại Stockholm năm 1972 và Rio De Janeiro năm 1992, du lịch sinh thái được công nhận là công cụ hiệu quả để kết nối con người với thiên nhiên và thúc đẩy phát triển du lịch bền vững.

Du lịch sinh thái đóng góp lớn về kinh tế và xã hội ở nhiều quốc gia Tại Kenya, năm 1994, ngành du lịch sinh thái đã trở thành ngành xuất khẩu hàng đầu, mang lại 35% thu nhập ngoại tệ và 11% tổng sản phẩm quốc gia Ở Mỹ, các vườn quốc gia và khu bảo tồn thu hút khoảng 270 triệu lượt khách mỗi năm, tạo ra hàng chục tỷ đô la doanh thu Nhiều quốc gia như Mêxicô, Úc, Malaixia, Ecuador, Kenya, Brazil và Ethiopia cũng ghi nhận vai trò quan trọng của du lịch sinh thái trong việc thu ngoại tệ.

Mặc dù chưa có con số thống kê cụ thể nhưng theo nghiên cứu sơ bộ của

Fillion (1992), du lịch sinh thái đă đóng góp 223 tỷ đô la trong thu nhập của nhiều quốc gia

Du lịch sinh thái không chỉ mang lại lợi ích kinh tế mà còn đóng góp quan trọng vào bảo tồn môi trường và phát triển cộng đồng Tại Costa Rica và Venezuela, nhiều chủ trang trại đã bảo vệ rừng nhiệt đới và phát triển điểm du lịch sinh thái, tạo việc làm cho người dân địa phương Ecuador sử dụng doanh thu từ du lịch sinh thái ở đảo Galapagos để duy trì hệ thống vườn quốc gia, đồng thời giúp người dân phát triển nghề thủ công và tham gia vào hoạt động du lịch, giảm thiểu tác động lên rừng Tại Việt Nam, ngành du lịch phát triển mạnh mẽ từ sau năm 1990, với lượng khách quốc tế tăng gấp 10,5 lần và khách nội địa tăng 13 lần từ năm 1990 đến 2002 Thu nhập xã hội cũng tăng đáng kể, từ 2.240 tỷ đồng năm 1991 lên 23.000 tỷ đồng năm 2002, trong đó du lịch sinh thái tại các khu bảo tồn và vườn quốc gia đóng góp lớn Các vườn quốc gia như Cúc Phương, Cát Bà, Côn Đảo, Bạch Long Vĩ đều cho thấy sự phát triển mạnh mẽ của du lịch sinh thái.

Các khu bảo tồn thiên nhiên như Phong Nha - Kẻ Bàng và Hồ Kẻ Gỗ đang thu hút lượng khách tăng trưởng đáng kể, với mức tăng trung bình hàng năm là 50% đối với khách nội địa và 30% đối với khách quốc tế.

1995 – 1998 du lịch sinh thái đạt tăng trưởng 16,5%

Du lịch sinh thái ở Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển cộng đồng và bảo vệ tài nguyên môi trường Nhờ vào sự phát triển này, các dân tộc và cư dân sống trong khu vực đệm của các vườn quốc gia và khu bảo tồn đã có cơ hội việc làm, nâng cao mức sống, đồng thời bảo tồn và phát triển các lễ hội, tập tục cũng như nghề thủ công truyền thống.

(Nguồn: www.vietnamtourism.gov.vn)

Du lịch văn hóa hấp dẫn những ai đam mê tìm hiểu về truyền thống lịch sử, phong tục tập quán và nghệ thuật của địa phương Những du khách này thường tham quan bảo tàng và tham gia các lễ hội truyền thống để trải nghiệm sâu sắc hơn về văn hóa điểm đến.

Du lịch văn hóa là hình thức du lịch dựa vào bản sắc văn hóa dân tộc, nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống Đây là loại hình du lịch đặc thù của các nước đang phát triển, thu hút nhiều khách du lịch quốc tế thông qua các sản phẩm văn hóa và lễ hội truyền thống Du lịch văn hóa cung cấp cơ hội cho những ai yêu thích khám phá văn hóa và phong tục tập quán bản địa Hoạt động này thường gắn liền với địa phương, nơi tổ chức nhiều lễ hội văn hóa, đồng thời cải thiện đời sống người dân Các quốc gia phát triển mạnh du lịch văn hóa như Thái Lan, Indonesia, và Trung Quốc đã chứng minh hiệu quả của loại hình này Tại Việt Nam, nhiều hoạt động du lịch văn hóa được tổ chức dựa trên đặc điểm vùng miền, như Lễ hội Đất Phương Nam và Festival Huế, thu hút đông đảo khách du lịch trong và ngoài nước, góp phần vào việc xóa đói giảm nghèo và phát triển ngành du lịch.

20 tổ chức thường xuyên 2 năm một lần, với sự hỗ trợ của Chính phủ Pháp Festival Huế

Năm 2004, Việt Nam lần thứ ba giới thiệu lễ hội dân gian miền Trung đến du khách, với sự tham gia của các quốc gia như Pháp và Trung Quốc.

Hình 1: Một số hình ảnh minh họa về loại hình du lịch văn hóa

Căn cứ vào phạm vi lãnh thổ

Các tác giả McIntosh, Goeldner và Ritchie đã sử dụng tiêu thức này để phân chia thành các loại hình du lịch sau:

Du lịch quốc tế đề cập đến các chuyến đi ra ngoài biên giới quốc gia, nhưng du khách thường gặp phải ba rào cản chính: ngôn ngữ, tiền tệ và thủ tục đi lại Hình thức du lịch này không chỉ tạo ra dòng chảy ngoại tệ giữa các quốc gia mà còn ảnh hưởng đến cán cân thanh toán của quốc gia Du lịch quốc tế được chia thành hai loại nhỏ.

+ Du lịch quốc tế đến là chuyến viếng thăm của những người từ các quốc gia khác

+ Du lịch ra nước ngoài là chuyến đi của cư dân trong nước đến một nước khác

- Du lịch trong nước là chuyến đi của những cư dân chỉ trong phạm vi quốc gia của họ

+ Du lịch nội địa bao gồm du lịch trong nước và du lịch quốc tế đến

+ Du lịch quốc gia bao gồm du lịch nội địa và du lịch ra nước ngoài

Du lịch nội địa tại Việt Nam đề cập đến những chuyến đi của người Việt Nam trong nước, cũng như những người nước ngoài đang sống hoặc làm việc tạm thời tại Việt Nam khi tham gia các hoạt động du lịch trong lãnh thổ quốc gia.

Người Việt Nam định cư ở nước ngoài khi về Việt Nam du lịch được xem là khách du lịch quốc tế đến, trong khi đó, người nước ngoài cư trú tại Việt Nam khi đi du lịch ra nước ngoài được coi là khách du lịch quốc tế ra.

Căn cứ vào mục đích chuyến đi

Du lịch tham quan là hoạt động quan trọng nhằm nâng cao hiểu biết cá nhân, giúp thỏa mãn sự ham hiểu biết và yêu thích văn hóa thông qua việc khám phá các di sản văn hóa, di tích lịch sử, công trình nghệ thuật, lễ hội độc đáo, và làng nghề thủ công truyền thống Hình thức du lịch này cho phép du khách tìm hiểu phong tục tập quán, thành quả kinh tế, chế độ xã hội và chất lượng cuộc sống của từng địa phương, cùng với những cảnh quan thiên nhiên kỳ thú Mặc dù thời gian lưu lại thường rất ngắn, chỉ từ một giờ đến vài phút, nhưng đối tượng tham gia thường là những người có trình độ văn hóa cao như nhà giáo, nhà khoa học, và nhà báo Một ưu điểm lớn của du lịch tham quan là không bị ảnh hưởng bởi tính mùa vụ, góp phần vào sự cân bằng trong phát triển du lịch.

Du lịch giải trí là một hình thức du lịch nhằm thư giãn và phục hồi sức khỏe cả về thể chất lẫn tinh thần, giúp du khách thoát khỏi áp lực công việc hàng ngày Nhu cầu giải trí trong chuyến đi trở nên cần thiết, bao gồm các hoạt động vui chơi, tham quan và nghỉ ngơi Với sự gia tăng mức sống, số lượng người đi du lịch để giải trí cũng tăng lên đáng kể, đòi hỏi sự mở rộng các loại hình và cơ sở vật chất phục vụ cho nhu cầu này, như khu du lịch, công viên, và sòng bạc Tại Việt Nam, mặc dù các khu vui chơi giải trí chưa hiện đại do điều kiện kinh tế, nhưng vẫn thu hút đông đảo khách trong và ngoài nước, đặc biệt vào dịp lễ tết, như khu du lịch Đầm Sen và Suối Tiên ở TP.HCM Để phát triển du lịch giải trí, cần chú trọng đầu tư, quy hoạch và đào tạo nhân viên chuyên nghiệp.

Du lịch nghỉ dưỡng ngày càng thu hút du khách tìm đến các bãi biển và vùng suối nước khoáng, nước nóng với giá trị y học cao để chữa bệnh Trong bối cảnh đời sống công nghiệp và căng thẳng, nhiều người chọn thiên nhiên làm nơi nghỉ ngơi, giúp giảm stress và thay đổi không gian sống Do đó, không gian du lịch cần thoáng mát, yên tĩnh và có đội ngũ phục vụ chuyên nghiệp Thời gian lưu lại của khách trong loại hình du lịch này thường dài, chủ yếu là công nhân lao động và người già Hiện nay, Việt Nam đang phát triển các nhà nghỉ tại bờ biển đẹp, nhằm phục vụ nhu cầu nghỉ ngơi của cán bộ công nhân vào mùa hè Tuy nhiên, loại hình du lịch này cũng chịu ảnh hưởng bởi điều kiện thời tiết và khí hậu, dẫn đến hiệu suất sử dụng không cao và tính mùa vụ.

Du lịch thể thao đang ngày càng phát triển, phản ánh nhu cầu và sở thích của khách hàng liên quan đến các môn thể thao Loại hình này bao gồm hai nhóm khách chính: vận động viên tham gia thi đấu tại các sự kiện lớn như Thế Vận hội hay World Cup, và cổ động viên đến xem và cổ vũ cho các trận đấu Du lịch thể thao không chỉ mang lại trải nghiệm thú vị cho du khách mà còn tạo ra nguồn thu lớn cho các địa phương nhờ lượng khách du lịch đông đảo.

Ngày càng nhiều quốc gia trên thế giới cạnh tranh để đăng cai các sự kiện thể thao lớn như Thế vận hội và World Cup, không chỉ để thu lợi nhuận mà còn để quảng bá hình ảnh đất nước, nhằm thúc đẩy phát triển du lịch.

Các tổ chức kinh doanh lữ hành tại các quốc gia hoặc địa phương tổ chức thể thao có thể chủ động thu hút khách du lịch thể thao tham gia, nhưng không thể dự đoán chính xác số lượng du khách đến xem sự kiện Điều này dẫn đến việc các công ty lữ hành thường phải hoạt động trong trạng thái bị động Trong bối cảnh hiện tại, số lượng du khách đang gia tăng nhanh chóng, vì vậy các doanh nghiệp du lịch cần xây dựng khả năng dự báo chính xác để đáp ứng nhu cầu, tránh tình trạng cung cấp dịch vụ thừa thãi hoặc thiếu hụt cho khách đến xem các hoạt động thể thao.

Hiệu quả du lịch từ khách du lịch bị động rất rõ ràng, do đó, một trong những mục tiêu chính của quốc gia khi đăng cai tổ chức các sự kiện thể thao lớn là thu hút nguồn tài chính đáng kể từ lượng khách du lịch này.

Du lịch tôn giáo là loại hình du lịch đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng của những người theo các tôn giáo lớn như Hồi giáo, Phật giáo, Thiên Chúa giáo, và Do Thái giáo Đây là một hình thức du lịch lâu đời, phổ biến ở các nước tư bản, với động cơ chính là mong muốn khám phá cội nguồn tôn giáo Ngoài những tín đồ, nhiều người không theo tôn giáo cũng tham gia vào các hoạt động tôn giáo vì tính hiếu kỳ Mỗi năm, du lịch tôn giáo thu hút một lượng lớn du khách và ngày càng phát triển, với các điểm đến nổi tiếng như Vatican, Jerusalem, và Mecca Tại Việt Nam, vào mùa xuân, các tín đồ Phật giáo thường hành hương đến Yêu Tử, Chùa Hương, và nhà thờ Phát Diệm ở Ninh Bình.

Hoạt động hướng dẫn tham quan trong loại hình du lịch này cần trải qua quá trình khảo sát và chọn lọc kỹ lưỡng, đồng thời phải được chuẩn bị theo một chương trình cụ thể để đảm bảo chất lượng và hiệu quả của chuyến đi.

24 cần phải định hướng cho khách về thông tin biểu hiện tính tích cực, tránh thần thánh hoá, tránh đưa con người vào bi quan, bi lụy

Du lịch thăm thân là hình thức du lịch xuất phát từ nhu cầu giao tiếp xã hội, giúp mọi người gặp gỡ, trò chuyện và chia sẻ niềm vui, nỗi buồn với gia đình và bạn bè Hình thức này đặc biệt quan trọng đối với các quốc gia có nhiều người sống ở nước ngoài như Việt Nam, Ý, Anh, Tây Ban Nha và Nam Tư Du khách thường tham gia vào các chuyến đi dài ngày, đặc biệt vào những dịp lễ lớn như Tết, quốc khánh hay lễ hội Họ thường chọn mua các dịch vụ không trọn gói từ các công ty lữ hành Mỗi lần trở về quê hương, du khách mang theo một lượng ngoại tệ lớn, góp phần vào việc tích lũy ngoại tệ cho đất nước.

Việt Nam là một trong những quốc gia có đông đảo người Việt kiều, với hàng trăm ngàn người trở về thăm quê hương mỗi năm Đây là một thị trường khách tiềm năng mà các doanh nghiệp lữ hành quốc tế tại Việt Nam đang nhắm đến Bên cạnh đó, du lịch thăm thân nội địa cũng rất phổ biến, phản ánh đặc điểm lịch sử của đất nước.

Du lịch MICE, viết tắt của Meeting (hội họp), Incentive (khen thưởng), Convention (hội nghị, hội thảo) và Exhibition (triển lãm), là hình thức du lịch kết hợp các sự kiện lớn như hội nghị, hội thảo và triển lãm, thường thu hút hàng trăm khách với mức chi tiêu cao hơn so với khách du lịch thông thường MICE mang lại nguồn thu lớn cho ngành du lịch, và Việt Nam đã khai thác loại hình này từ nhiều năm qua với kết quả khả quan Khai thác thị trường MICE là một trong những mục tiêu chiến lược phát triển du lịch Việt Nam, với tiềm năng lớn được đánh giá cao từ các chuyên gia UNWTO, cho rằng Việt Nam có khả năng trở thành đối thủ đáng gờm của Singapore trong lĩnh vực này.

Việt Nam hiện đang hướng tới việc trở thành trung tâm MICE lớn nhất Đông Nam Á nhờ vào cảnh quan thiên nhiên tuyệt đẹp, di sản văn hóa phong phú và hệ thống khách sạn, resort phát triển Tuy nhiên, để thúc đẩy sự phát triển của MICE, UNWTO khuyến nghị thành lập MICE Bureau nhằm xúc tiến và xây dựng chiến lược marketing hiệu quả Việc cải thiện hạ tầng phục vụ khách MICE, bao gồm visa, sân bay và hệ thống khách sạn, là rất cần thiết, đặc biệt là xác định vị trí xây dựng trung tâm hội chợ triển lãm quốc tế gần sân bay và khách sạn Ngoài ra, cần phân tích dữ liệu thị trường, thiết lập chiến lược quảng bá MICE, phát triển website và thương mại điện tử, cũng như mở các lớp đào tạo nguồn nhân lực để đáp ứng nhu cầu trong và ngoài nước.

Căn cứ vào sự tương tác của du khách đối với nơi đến du lịch

Valene Smith, nhà nhân chủng học từ Đại học Pennsylvania, đã phát triển một phương pháp phân loại du lịch mới, tập trung vào tác động kinh tế và xã hội của khách du lịch đối với nước chủ nhà Phân loại này dựa trên các biến số quan trọng như phạm vi ảnh hưởng của khách du lịch đến môi trường, thời gian lưu lại và đối tượng cư dân mà du khách thường gặp gỡ cùng mục đích của những cuộc gặp này.

Du lịch thám hiểm là hoạt động của các nhà nghiên cứu, học giả, người leo núi và những nhà thám hiểm, thường tham gia theo nhóm nhỏ và chấp nhận các điều kiện địa phương Họ sử dụng đồ dùng cá nhân và thực phẩm chuẩn bị trước, hạn chế việc tiêu thụ sản phẩm và dịch vụ du lịch Do đó, loại hình du lịch này có ảnh hưởng không đáng kể đến kinh tế, văn hóa – xã hội và môi trường của điểm đến.

Du lịch thượng lưu là hành trình của tầng lớp thượng lưu đến những địa điểm độc đáo, nhằm tìm kiếm sự mới lạ và giải trí Họ thường sử dụng các tiện nghi cao cấp và dễ dàng thích nghi với điều kiện địa phương Nhóm khách này thường có số lượng ít, nhưng lại có nhu cầu cao về sản phẩm du lịch chất lượng, không nhạy cảm với giá cả Những chuyến đi này không chỉ mang lại trải nghiệm cho du khách mà còn có thể dẫn đến các hoạt động đầu tư có lợi cho điểm đến.

Du lịch khác thường thu hút những khách du lịch không thuộc tầng lớp thượng lưu, họ có xu hướng khám phá những địa điểm xa xôi và hoang dã Những người này thường quan tâm đến việc tìm hiểu các vùng văn hóa độc đáo, mang đến cho họ những trải nghiệm phong phú và ý nghĩa trong hành trình của mình.

Trong các tour du lịch tiêu chuẩn, có 26 phần sơ khai hoặc tìm kiếm những bổ sung không có sẵn Du khách thường thích nghi tốt với các điều kiện sản phẩm và dịch vụ du lịch do địa phương cung cấp.

Du lịch đại chúng tiền khởi là dòng khách du lịch ổn định, gồm nhóm nhỏ hoặc cá nhân, đến những địa điểm an toàn và phổ biến với khí hậu thuận lợi Họ tìm kiếm các tiện nghi và dịch vụ tiêu chuẩn, nhưng cũng chấp nhận những điều kiện chưa đạt chuẩn địa phương Nhu cầu của nhóm này ít nhạy cảm với giá cả, đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển sản phẩm và dịch vụ du lịch tại điểm đến, đánh dấu sự khởi đầu cho hình thức du lịch đại chúng sau này.

Du lịch đại chúng là hình thức du lịch mà một lượng lớn khách du lịch, chủ yếu từ Châu Âu và Bắc Mỹ, thường xuyên đổ về các khu nghỉ mát nổi tiếng ở châu Âu và Hawaii trong mùa du lịch Những du khách này thường thuộc tầng lớp trung lưu, yêu cầu các tiện nghi đạt tiêu chuẩn châu Âu, dịch vụ chuyên nghiệp từ nhân viên phục vụ và hướng dẫn viên du lịch thông thạo nhiều ngoại ngữ Với số lượng đông đảo và nhu cầu du lịch rộng rãi, loại hình du lịch này đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của ngành du lịch, ảnh hưởng tích cực đến cả các quốc gia gửi khách và các điểm đến du lịch.

Du lịch thuê bao là một hình thức du lịch đang phát triển mạnh mẽ, đặc biệt thu hút các tầng lớp có thu nhập trung bình và thấp, tạo ra một thị trường lớn Loại hình này phụ thuộc vào hoạt động thương mại trong ngành du lịch, với nhu cầu tiêu chuẩn về vận chuyển và lưu trú của khách du lịch, đồng thời nhu cầu này cũng nhạy cảm với giá cả Sự gia tăng số lượng khách du lịch không chỉ mang lại nguồn thu nhập đáng kể cho các cơ sở kinh doanh và khu vực điểm đến, mà còn mở ra cơ hội đầu tư cho các nước nguồn khách Tuy nhiên, du lịch thuê bao cũng gây ra nhiều tác động tiêu cực đến môi trường và xã hội tại các điểm đến.

Căn cứ việc sử dụng phương tiện vận chuyển khách du lịch tới điểm đến

Du lịch bằng hàng không là hình thức du lịch phổ biến nhất hiện nay, được nhiều du khách ưa chuộng Nhờ vào những tiến bộ trong khoa học kỹ thuật và công nghệ, ngành hàng không đã phát triển mạnh mẽ, mang lại trải nghiệm di chuyển nhanh chóng và tiện lợi cho hành khách.

Ngày nay, với 27 phương tiện vận chuyển hàng không khác nhau, con người có khả năng di chuyển đến mọi nơi trên trái đất Từ kinh khí cầu và các chuyến bay vượt đại dương đến Air Taxi (máy bay nhỏ không cần sân bay) và tàu vũ trụ, các hãng hàng không đóng vai trò quan trọng trong việc vận chuyển khách du lịch.

Du lịch bằng đường bộ ngày càng phát triển mạnh mẽ nhờ vào hệ thống đường bộ kết nối không chỉ các địa phương trong nước mà còn liên kết với các quốc gia khác Sự phát triển này không chỉ tạo điều kiện cho các phương tiện vận chuyển khách du lịch lớn mà còn khuyến khích du khách tự lái xe đi khám phá cùng gia đình và bạn bè Điều này đặc biệt rõ nét ở châu Âu và châu Mỹ, nơi lượng khách du lịch di chuyển bằng ôtô rất lớn, góp phần thúc đẩy ngành du lịch phát triển.

- Du lịch bằng đường sắt: Đây là loại hình du lịch phát triển đầu tiên ở Anh do

Thomas Cook, được xem là người sáng lập ngành đại lý du lịch toàn cầu, đã có những đóng góp quan trọng cho ngành này Hiện nay, hệ thống vận tải đường sắt đã được hiện đại hóa với các tiện nghi sang trọng, tốc độ nhanh và độ an toàn cao, đang ngày càng cạnh tranh với các hãng hàng không trong việc thu hút khách du lịch.

Du lịch bằng tàu biển đang ngày càng phát triển, đặc biệt ở châu Âu, châu Mỹ và khu vực châu Á - Thái Bình Dương Loại hình du lịch này thu hút chủ yếu những du khách giàu có về cả tài chính lẫn thời gian, với các chương trình thường kéo dài hàng tháng và ghé thăm nhiều quốc gia có cảng biển Những chiếc tàu biển giống như khách sạn 5 sao nổi trên mặt nước, cung cấp đầy đủ tiện nghi như buồng ngủ, bể bơi, sân thể thao, phòng chiếu phim và vũ trường, đáp ứng nhu cầu đa dạng của du khách trong suốt hành trình.

Du lịch bằng tàu thuỷ là một hình thức du lịch phát triển mạnh mẽ tại các khu vực có nhiều sông, đặc biệt là những con sông chảy qua nhiều quốc gia như sông Đanuyt ở Châu Âu và sông MêKông ở Châu Á Khách du lịch có cơ hội tham quan và khám phá các quốc gia dọc theo dòng sông Hình thức du lịch này thường kết hợp với việc tham quan văn hóa và lịch sử, tạo nên trải nghiệm phong phú cho du khách.

Dựa trên việc khách du lịch lựa chọn phương tiện di chuyển tại các điểm đến, có thể thấy rằng các phương tiện vận chuyển tại các khu du lịch và điểm tham quan rất đa dạng.

Ngành du lịch ngày càng phong phú và đa dạng với nhiều phương tiện vận chuyển như ô tô, xích lô, ngựa kéo, và thuyền Các doanh nghiệp du lịch không ngừng sáng tạo ra những phương tiện độc đáo để thu hút khách hàng Theo các nhà tâm lý học, động cơ du lịch là yếu tố chủ quan thúc đẩy con người hành động, phản ánh qua nguyện vọng và sở thích khám phá cái mới Để kích thích động cơ này, ngành du lịch cần thực hiện quảng bá hiệu quả Về mặt khoa học, động cơ du lịch hình thành từ hai nhân tố chính: tâm lý và cụ thể Nhân tố tâm lý bao gồm việc tìm kiếm trải nghiệm mới, thay đổi lối sống, và mở rộng kiến thức, từ đó du lịch trở thành thước đo chất lượng cuộc sống của mỗi cá nhân.

Các cách phân loại khác

Ngoài các cách phân loại phổ biến và có ý nghĩa nói trên còn có rất nhiều cách phân chia du lịch thành các loại hình khác Đó là:

Dựa trên đặc điểm địa lý, các loại hình du lịch bao gồm du lịch biển, du lịch núi, du lịch thành phố, và du lịch nông thôn Mỗi loại hình mang đến những trải nghiệm độc đáo, từ vẻ đẹp của bãi biển và núi non hùng vĩ đến sự nhộn nhịp của đô thị và sự thanh bình của vùng quê.

- Căn cứ vào phương tiện lưu trú bao gồm du lịch ở khách sạn, motel, nhà trọ, bãi cắm trại và làng du lịch

Du lịch có thể được phân loại dựa trên thời gian và độ tuổi Theo thời gian, có du lịch dài ngày và ngắn ngày Về độ tuổi, chúng ta có du lịch cho thiếu niên, thanh niên, trung niên và cao niên, mỗi nhóm đều có những đặc điểm và nhu cầu riêng biệt.

- Căn cứ vào hình thức tổ chức du lịch bao gồm du lịch theo đoàn, du lịch gia đình và du lịch cá nhân

- Căn cứ vào phương thức hợp đồng bao gồm du lịch trọn gói và du lịch từng phần

Minh họa 2: Sự ra đời và phát triển của du lịch nông thôn trên thế giới

Khái niệm du lịch nông thôn đã manh nha cùng với sự hình thành của ngành

Du lịch nông thôn ở châu Âu chỉ trở nên phổ biến từ những năm 80 của thế kỷ XX, với sự phát triển mạnh mẽ ở các quốc gia như Pháp, Hungary, và Thụy Điển Khái niệm này liên quan đến các hình thức du lịch như du lịch nông trại và du lịch xanh, nhưng có sự khác biệt giữa các quốc gia phát triển và đang phát triển Tại các quốc gia đang phát triển, du lịch nông thôn giúp đa dạng hóa thu nhập và bảo tồn văn hóa, trong khi ở các quốc gia phát triển, nó tập trung vào chiều sâu do sự thu hẹp của vùng nông thôn Tại Pháp, Bộ Du lịch đang phát triển đa dạng hóa hình thức du lịch để thu hút khách quốc tế, với khoảng 300 điểm du lịch nông thôn được lựa chọn cho các dự án phát triển hạ tầng Tại Trung Quốc, chương trình du lịch nông thôn từ năm 1990 đã giúp chống đói nghèo, với doanh thu hàng năm đạt 40 tỷ NDT Năm 2006, 30 điểm du lịch nông thôn quanh Thượng Hải đón 3,91 triệu khách, cho thấy sự gia tăng đáng kể trong lượng du khách Tại Nhật Bản, từ năm 1995, chương trình nhà nghỉ nông thôn do Bộ Nông Lâm Thủy sản thiết lập đã phục vụ du khách với các dịch vụ ăn nghỉ tại các trang trại.

Du lịch nông thôn ở Hàn Quốc bắt đầu từ năm 1984 với mục tiêu tăng thu nhập cho nông dân, giúp cải thiện đời sống và bộ mặt nhiều làng quê trước đây nghèo nàn Chương trình này đã mang lại sự thay đổi đáng kể, nâng cao thu nhập cho người dân Tương tự, Thái Lan cũng đã khuyến khích đầu tư vào du lịch nông thôn qua các mô hình trang trại và làng khép kín, cung cấp đầy đủ dịch vụ cho du khách Kể từ năm 1997, du lịch nông thôn tại Thái Lan phát triển nhanh chóng, thu hút đông đảo du khách cả trong và ngoài nước.

Du lịch nông thôn hiện diện ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, bao gồm Mỹ, Australia, Canada, Latvia, Tây Ban Nha, Indonesia, Nepal, và Ấn Độ Đặc biệt, Anh, Pháp, Đức và Áo là những quốc gia hàng đầu trong thị trường du lịch nông thôn toàn cầu, với hàng ngàn doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này tại mỗi nước.

Du lịch nông thôn có sự đa dạng hình thức tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, xã hội và tự nhiên của từng vùng, quốc gia Ở Ô-xtrây-li-a, du lịch nông thôn tập trung vào các trang trại lớn, trong khi Nhật Bản nổi bật với các nhà nghỉ thân thiện ở nông thôn Hàn Quốc phát triển du lịch nông thôn qua các trang trại nhỏ, còn Đài Loan tổ chức theo nhóm sở thích cộng đồng Trung Quốc và Ấn Độ, với nhiều làng, phát triển du lịch nông thôn theo quy mô làng Phát triển du lịch nông thôn không chỉ bảo tồn di sản và bảo vệ môi trường mà còn giảm nghèo, phát triển kinh tế nông thôn, tạo việc làm cho phụ nữ, và thúc đẩy nông nghiệp sinh thái.

(Nguồn: www.vietnamtourism.gov.vn)

3.Nhu cầu du lịch và sản phẩm du lịch

Nhu cầu du lịch

Khi được hỏi về lý do du lịch, mỗi người có thể đưa ra nhiều đáp án khác nhau như khám phá, nghỉ ngơi, học hỏi hay trải nghiệm văn hóa Tuy nhiên, liệu tất cả những lý do này có được xem là động cơ du lịch hay không? Phần nghiên cứu dưới đây sẽ phân tích sự khác biệt giữa lý do và động cơ du lịch để làm rõ vấn đề này.

3.1.1 Lý do đi du lịch

Con người đi du lịch vì nhiều lý do khác nhau, từ việc tìm kiếm những trải nghiệm bổ ích đến tham gia các hoạt động tại điểm đến Trong khi phần lớn du khách muốn nghỉ ngơi và thư giãn, một số người lại chọn du lịch để xua tan căng thẳng, như các nhà quản lý thường chọn những chuyến đi câu cá hay chơi golf vào cuối tuần Học sinh, sinh viên tìm đến các miền quê để có những kỷ niệm vui vẻ và thoải mái Nhiều khách du lịch còn mong muốn khám phá đời sống, phong tục tập quán và giá trị văn hóa của các quốc gia khác, đồng thời chiêm ngưỡng những danh lam thắng cảnh nổi tiếng như Vịnh Hạ Long, Vạn Lý Trường Thành và Kim Tự Tháp Họ cũng muốn tham gia các sự kiện đặc biệt diễn ra tại nơi họ đến.

Nhiều người quay về quê hương để thăm họ hàng và bạn bè, thỏa mãn nỗi nhớ nhung Tín đồ tôn giáo thường tham gia hành hương đến những nơi linh thiêng Một số du khách chỉ đơn giản là tìm kiếm ánh nắng và thời tiết ấm áp, tránh xa mùa đông khắc nghiệt Ở các quốc gia phát triển, người dân ngày càng chú trọng sức khỏe và bị thu hút bởi các hoạt động thể thao như đua xe đạp, đua thuyền, lướt ván trượt tuyết và leo núi Các chương trình thể thao và kỳ nghỉ kết hợp với hoạt động thể thao đang trở nên phổ biến, thu hút đông đảo khách du lịch.

Sau mỗi chuyến du lịch, nhiều người thích chia sẻ những trải nghiệm với bạn bè và người thân Khi điều kiện kinh tế cải thiện, du lịch ngày càng trở thành một phần quan trọng trong cuộc sống Người dân hiện nay quan tâm đến du lịch không khác gì so với việc chăm sóc nhà cửa, xe cộ hay thời trang Du lịch mang đến cơ hội tận hưởng vẻ đẹp, được phục vụ và thoát khỏi những phiền toái hàng ngày cũng như những hạn chế xã hội.

Lý do du lịch của mỗi người rất đa dạng và phản ánh động cơ cá nhân của họ Nghiên cứu đã phát triển danh mục các lý do đi du lịch, nhưng không phải tất cả đều chính xác trong việc phản ánh động cơ thực sự Theo Mill và Morrison, cách tiếp cận này chưa đầy đủ vì hai lý do chính: trước tiên, du khách có thể không nhận thức được động cơ ẩn sau hành vi của mình; ví dụ, một người đi câu cá có thể chỉ nghĩ rằng lý do là để câu cá, nhưng thực tế có thể là để phục hồi sức khỏe Thứ hai, các lý do được đưa ra thường chỉ tập trung vào việc bán sản phẩm mà không đáp ứng đúng nhu cầu thực sự của thị trường.

Theo TS Harssel (trường Đại học Niagara, NewYork), những lý do con người đi du lịch bộc lộ động cơ chuyến đi gồm 4 nhóm:

Du lịch giúp con người khám phá bản thân thông qua việc hiểu biết thế giới xung quanh Khi du khách trải nghiệm những nền văn hóa và địa điểm mới, họ kết nối với những điều chưa từng biết đến trong cuộc sống hàng ngày Mặc dù thông tin có thể được tiếp nhận qua sách báo, phim ảnh và các phương tiện truyền thông, nhưng du lịch mang lại cơ hội tiếp xúc trực tiếp, cho phép du khách tự do khám phá và trải nghiệm những điều thú vị của thế giới.

33 bất ngờ, thu nhận được ngay lập thức những kinh nghiệm "chưa bị biên tập bởi trí tuệ người khác"

Nhu cầu giao lưu xã hội là yếu tố quan trọng trong việc nâng cao chất lượng trải nghiệm du lịch Du khách thường không đi một mình mà cùng gia đình, bạn bè hoặc theo đoàn, từ đó tạo ra sự gắn kết và hiểu biết lẫn nhau Thể thao không chỉ giúp phát triển thể lực mà còn là cầu nối cho sự giao lưu xã hội Trong thời gian nghỉ ngơi, con người ngày càng muốn tham gia vào các hoạt động như xem biểu diễn nghệ thuật, mua sắm, chơi thể thao và du lịch để tăng cường mối quan hệ.

Du khách thường tìm kiếm những trải nghiệm độc đáo và mới lạ khi du lịch, nhằm thoát khỏi cuộc sống hàng ngày Du lịch không chỉ mang đến cơ hội khám phá những điều khác biệt mà còn giúp con người nạp lại năng lượng và hứng thú trước khi trở về với thực tại.

Tăng cường bản ngã là khái niệm triết học liên quan đến việc "đề cao cái tôi" trong mỗi cá nhân Nhiều du khách lựa chọn những chuyến đi có uy tín cá nhân cao, ưu tiên những địa điểm du lịch nổi tiếng và độc đáo với giá tour cao hơn là những nơi bình thường Họ mong muốn nhận được sự kính trọng, thán phục hoặc thậm chí là ganh tỵ từ người khác khi chia sẻ về những trải nghiệm du lịch của mình Động cơ du lịch được hiểu là sự thúc đẩy con người thực hiện các hoạt động nhằm thỏa mãn nhu cầu và mong muốn cá nhân Việc đánh giá xem chuyến đi có đáp ứng được các nhu cầu này hay không là rất quan trọng, vì du khách không chỉ muốn trải nghiệm mà còn muốn thỏa mãn những mong muốn sâu sắc hơn trong lĩnh vực du lịch.

Sự khác biệt giữa một đại lý du lịch chỉ bán vé máy bay và một đại lý chào bán "những giấc mơ" cho khách hàng rất rõ ràng Hình thức du lịch “ẩm thực” không chỉ đáp ứng nhu cầu ăn uống mà còn thỏa mãn nhu cầu xã hội như giao tiếp, kết bạn và tìm kiếm cơ hội kinh doanh Động cơ du lịch phản ánh nhu cầu và mong muốn của du khách, là lý do chính cho hành động du lịch Nhu cầu này, được xác định là mạnh nhất tại một thời điểm nhất định, ảnh hưởng trực tiếp đến hành động của con người Các yếu tố tác động đến nhu cầu cũng sẽ ảnh hưởng đến động cơ du lịch Nhu cầu du lịch rất phức tạp và đa dạng, nhưng có thể chia thành ba nhóm chính.

- Nhóm nhu cầu đặc trưng: thỏa mãn sự hiếu kỳ, nâng cao hiểu biết, thu nhận kinh nghiệm, thưởng thức, giải trí… là động lực chính cho chuyến đi

- Nhóm nhu cầu cơ bản: ăn uống, nghỉ ngơi, di chuyển… gắn liền với sự tồn tại của con người dù đang ở nơi cư trú hay đi du lịch

- Nhóm nhu cầu bổ sung: thỏa mãn các nhu cầu sinh hoạt cá nhân khác ngoài hai nhóm trên trong chuyến đi

Trong các chuyến du lịch, mỗi người có những sở thích và động cơ khác nhau, dẫn đến sự hấp dẫn hay sợ hãi đối với các loại hình du lịch Việc hiểu rõ động cơ du lịch của khách hàng là rất quan trọng đối với doanh nghiệp và điểm đến, giúp dự đoán lượng khách, loại hình du lịch ưa thích và sản phẩm dịch vụ cần cung cấp Tuy nhiên, động cơ này thường mang tính chủ quan và cá nhân, khó xác định do khách có thể không muốn hoặc không thể chia sẻ lý do thực sự thúc đẩy họ tham gia chuyến đi Do đó, việc nhận thức và bộc lộ động cơ du lịch của khách có thể thuộc một trong ba trường hợp cụ thể.

+ Trường hợp 1: Nhận thức được động cơ và sẵn sàng bộc lộ qua lý do thật sự của chuyến đi

+ Trường hợp 2: Nhận thức được động cơ nhưng không muốn bộc lộ hoặc bộc lộ qua những lý do không đúng

+ Trường hợp 3: Không nhận thức được động cơ, không bộc lộ được lý do thực sự của chuyến đi du lịch

Xuất phát từ nhu cầu, các học giả Mỹ McIntosh, Goeldner và Ritchie đã nhóm các động cơ du lịch thành bốn loại:

Các động cơ về thể chất chủ yếu nhằm giảm căng thẳng và phục hồi sức khỏe thông qua các hoạt động như nghỉ dưỡng, tham gia thể thao, đi biển, tắm suối khoáng, và giải trí thư giãn, tất cả đều liên quan trực tiếp đến việc cải thiện sức khỏe.

Con người, với bản chất khao khát tri thức, luôn tìm kiếm cơ hội để khám phá và học hỏi những điều mới lạ Sự ham hiểu biết này thúc đẩy họ đến những vùng đất, quốc gia và nền văn hóa khác nhau, tham gia vào các hoạt động nhằm nâng cao vốn sống và tri thức của bản thân.

Giao lưu với những người mới mang lại niềm khát khao kết nối và tạo dựng mối quan hệ bạn bè, đồng thời giúp chúng ta thăm lại người thân hoặc bạn bè Điều này còn giúp thoát khỏi sự nhàm chán trong công việc và cuộc sống gia đình hàng ngày.

Động cơ về địa vị và uy tín liên quan đến nhu cầu phát triển cá nhân và khẳng định bản thân Các hoạt động như chuyến đi công tác, tham gia hội nghị, nghiên cứu, theo đuổi sở thích và giáo dục đều phục vụ cho mục tiêu này Du lịch trở thành phương tiện để thỏa mãn khát vọng được chú ý, đánh giá cao, thừa nhận và nhận được sự kính trọng từ người khác.

Sản phẩm du lịch

Sản phẩm du lịch trong tiếng Anh được gọi là Tourism Product

Sản phẩm du lịch là sự kết hợp giữa các dịch vụ, hàng hóa và tiện nghi phục vụ du khách, được hình thành từ các yếu tố tự nhiên, cơ sở vật chất kỹ thuật và nguồn lao động du lịch tại một khu vực hoặc địa phương cụ thể.

Sản phẩm du lịch bao gồm cả yếu tố hữu hình như hàng hoá và yếu tố vô hình như dịch vụ, nhằm cung cấp trải nghiệm tốt nhất cho du khách Điều này có nghĩa là sản phẩm du lịch không chỉ là các hàng hoá mà còn bao gồm các dịch vụ và tiện nghi hỗ trợ khách du lịch.

Sản phẩm du lịch = Tài nguyên du lịch + các dịch vụ và hàng hoá du lịch

Sản phẩm du lịch được thiết kế để đáp ứng nhu cầu của khách hàng, có thể là sản phẩm đơn lẻ hoặc tổng hợp Những sản phẩm này có thể được cung cấp bởi một đơn vị duy nhất hoặc thông qua sự hợp tác của nhiều đơn vị kinh doanh khác nhau.

- Sản phẩm đơn lẻ: Là sản phẩm do các nhà cung ứng đưa ra nhằm thoả mãn một nhu cầu cụ thể của khách

Một khách sạn cung cấp dịch vụ cho thuê xe tự lái cho khách du lịch có thể là một nhà cung cấp quan trọng trong ngành du lịch Các nhà cung ứng dịch vụ này có thể bao gồm không chỉ khách sạn mà còn các nhà hàng và hãng vận chuyển, tạo ra một hệ sinh thái dịch vụ đa dạng phục vụ nhu cầu của du khách.

- Sản phẩm tổng hợp: Là sản phẩm phải thoả mãn đồng thời một nhóm nhu cầu mong muốn của khách du lịch

Chương trình du lịch trọn gói bao gồm nhiều dịch vụ thiết yếu như vận chuyển, lưu trú, ăn uống và giải trí, mang đến trải nghiệm tiện lợi và toàn diện cho du khách.

Sản phẩm du lịch có đầy đủ 4 đặc điểm của dịch vụ, đó là:

Sản phẩm du lịch chủ yếu mang tính chất vô hình, thể hiện qua trải nghiệm mà nó mang lại hơn là hàng hóa cụ thể Mặc dù trong sản phẩm du lịch có sự hiện diện của hàng hóa, nhưng điều quan trọng là cảm nhận và trải nghiệm của du khách mới chính là giá trị cốt lõi.

Sản phẩm du lịch có tính không đồng nhất, chủ yếu là dịch vụ, khiến khách hàng không thể kiểm tra chất lượng trước khi quyết định mua Điều này tạo ra khó khăn trong việc lựa chọn sản phẩm phù hợp.

- Tính đồng thời giữa sản xuất và tiêu dùng: Việc tiêu dùng sản phẩm du lịch xảy ra cùng một thời gian và địa điểm sản xuất ra chúng

Sản phẩm du lịch có tính chất mau hỏng và không thể dự trữ, chủ yếu bao gồm các dịch vụ như vận chuyển, lưu trú và ăn uống.

Thời vụ du lịch

Một số loại hình cơ sở lu lịch tiêu biểu

MỐI QUAN HỆ GIỮA DU LỊCH VÀ MỘT SỐ LĨNH VỰC KHÁC, CÁC ĐIỀU KIỆN ĐỂ PHÁT TRIỂN DU LỊCH

KHÁCH SẠN

Ngày đăng: 28/12/2021, 10:48

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Hình 1.1: Một số hình ảnh minh họa về motel - Giáo trình Tổng quan du lịch và khách sạn (Nghề: Nghiệp vụ nhà hàng khách sạn - Trung cấp) - Trường CĐ Nghề Kỹ thuật Công nghệ
Hình 1.1 Một số hình ảnh minh họa về motel (Trang 51)

TỪ KHÓA LIÊN QUAN