1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Kinh th lang nghiem HT thich duy lc

158 9 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 158
Dung lượng 2,15 MB

Cấu trúc

  • 1. KINH THỦ LĂNG NGHIÊM - QUYỂN MỘT (5)
    • 1.1 Phá Chấp Tâm Ở Trong Thân (7)
    • 1.2 Phá Chấp Tâm Ở Ngoài Thân (7)
    • 1.3 Phá Chấp Tâm Ẩn Núp Sau Con Mắt (8)
    • 1.4 Phá Chấp Nhắm Mắt Thấy Tối Là Thấy Trong Thân (9)
    • 1.5 Phá Chấp Sự Suy Nghĩ Là Tâm (9)
    • 1.6 Phá Chấp Tâm Ở Chặn Giữa (10)
    • 1.7 Phá Chấp “Tất Cả Vô Trước” Là Tâm (11)
  • 2. KINH THỦ LĂNG NGHIÊM - QUYỂN HAI (17)
    • 2.1 Sắc Ấm Vốn Vô Sanh (34)
    • 2.2. Thọ Ấm Vốn Vô Sanh (35)
    • 2.3. Tưởng Ấm Vốn Vô Sanh (35)
    • 2.4. Hành Ấm Vốn Vô Sanh (35)
    • 2.5. Thức Ấm Vốn Vô Sanh (36)
  • 3. KINH THỦ LĂNG NGHIÊM - QUYỂN BA (37)
    • 3.1 LỤC NHẬP (37)
      • 3.1.1. Nhãn Nhập Vốn Vô Sanh (37)
      • 3.1.2. Nhĩ Nhập Vốn Vô Sanh (38)
      • 3.1.3. Tỷ Nhập Vốn Vô Sanh (38)
      • 3.1.4. Thiệt Nhập Vốn Vô Sanh (38)
      • 3.1.5. Thân Nhập Vốn Vô Sanh (39)
      • 3.1.6. Ý Nhập Vốn Vô Sanh (39)
    • 3.2 THẬP NHỊ XỨ (40)
      • 3.2.1. Nhãn Căn Với Sắc Trần Vốn Vô Sanh (40)
      • 3.2.2. Nhĩ Căn Với Thanh Trần Vốn Vô Sanh (40)
      • 3.2.3. Tỷ Căn Với Hương Trần Vốn Vô Sanh (40)
      • 3.2.4. Thiệt Căn Với Vị Trần Vốn Vô Sanh (41)
      • 3.2.5. Thân Căn Với Xúc Trần Vốn Vô Sanh (41)
      • 3.2.6. Ý Căn Với Pháp Trần Vốn Vô Sanh (42)
    • 3.3. THẬP BÁT GIỚI (42)
      • 3.3.1. Nhãn Căn, Sắc Trần, Nhãn Thức Giới Vốn Vô Sanh (42)
      • 3.3.2. Nhĩ Căn, Thanh Trần, Nhĩ Thức Giới Vốn Vô Sanh (43)
      • 3.3.3. Tỷ Căn, Hương Trần, Tỷ Thức Giới Vốn Vô Sanh (44)
      • 3.3.4. Thiệt Căn, Vị Trần, Thiệt Thức Giới Vốn Vô Sanh (45)
      • 3.3.5. Thân Căn, Xúc Trần, Thân Thức Giới Vốn Vô Sanh (45)
      • 3.3.6. Ý Căn, Pháp Trần, Ý Thức Giới Vốn Vô Sanh (46)
    • 3.4 THẤT ĐẠI (47)
      • 3.4.1. Tánh Địa Đại Vốn Vô Sanh (47)
      • 3.4.2. Tánh Hỏa Đại Vốn Vô Sanh (47)
      • 3.4.3. Tánh Thủy Đại Vốn Vô Sanh (48)
      • 3.4.4. Tánh Phong Đại Vốn Vô Sanh (0)
      • 3.4.5. Tánh Không Đại Vốn Vô Sanh (49)
      • 3.4.6. Tánh Kiến Đại Vốn Vô Sanh (50)
      • 3.4.7. Tánh Thức Đại Vốn Vô Sanh (51)
  • 4. KINH THỦ LĂNG NGHIÊM - QUYỂN BỐN (55)
  • 5. KINH THỦ LĂNG NGHIÊM - QUYỂN NĂM (72)
  • 6. KINH THỦ LĂNG NGHIÊM - QUYỂN SÁU (87)
  • 7. KINH THỦ LĂNG NGHIÊM - QUYỂN BẢY (108)
  • 8. KINH THỦ LĂNG NGHIÊM - QUYỂN TÁM (117)
    • 8.1. Thập Tín (118)
    • 8.2. Thập Trụ (119)
    • 8.3. Thập Hạnh (120)
    • 8.4. Thập Hồi Hướng (121)
    • 8.5. Tứ Gia Hạnh (121)
    • 8.6. Thập Địa (122)
    • 8.7. Đẳng Giác (122)
    • 8.8. Diệu Giác (122)
    • 8.9. Dục Giới (131)
  • 9. KINH THỦ LĂNG NGHIÊM - QUYỂN CHÍN (132)
    • 9.1 Sơ Thiền (132)
    • 9.2. Nhị Thiền (133)
    • 9.3 Tam Thiền (133)
    • 9.4. Tứ Thiền (133)
    • 9.5. Ngũ Tịnh Cư Thiên (134)
    • 9.6. Vô Sắc Giới (134)
    • 9.7. A Tu La (135)
  • V. Ma Thức Ấm (150)

Nội dung

KINH THỦ LĂNG NGHIÊM - QUYỂN MỘT

Phá Chấp Tâm Ở Trong Thân

Bạch Thế Tôn! Tất cả mười loại chúng sanh trên thế gian đều có tâm thức tồn tại trong thân thể Con nhận thấy rằng, con có đôi mắt trên khuôn mặt và tâm thức trong thân, giống như đôi mắt Thanh Liên Hoa của Như Lai hiện diện trên gương mặt Ngài.

Phật bảo: A Nan! Nay Ngươi ngồi trong giảng đường của Như Lai, nhìn thấy rừng Kỳ Đà ở chỗ nào?

- Bạch Thế Tôn! Giảng đường rộng rãi thanh tịnh này trong vườn Cấp

Cô Độc, còn rừng Kỳ Đà thì ở ngoài giảng đường

- A Nan! Bây giờ Ngươi ở trong giảng đường trước tiên thấy gì?

- Bạch Thế Tôn! Con ở trong giảng đường trước thấy Như Lai, sau thấy đại chúng, rồi nhìn ra ngoài mới thấy rừng cây

- A Nan! Ngươi thấy rừng cây, do nhân nào được thấy?

- Bạch Thế Tôn! Vì cửa sổ giảng đường mở trống nên con ở trong thấy suốt bên ngoài

Trong giảng đường, khi cửa mở, ta có thể nhìn thấy rừng cây bên ngoài Tuy nhiên, có ai trong giảng đường mà không thấy Như Lai, mà chỉ thấy rừng cây bên ngoài không?

- Bạch Thế Tôn! Ở trong giảng đường chẳng thấy Như Lai, lại thấy rừng cây bên ngoài thì chẳng đúng

A Nan! Nếu tâm của Ngươi thật sự sáng tỏ, trước tiên Ngươi phải thấy rõ trong thân mình Có ai thấy rõ trong thân trước rồi mới thấy được vật bên ngoài không? Dù không thấy được tim, gan, tỳ, vị, thì cũng phải thấy các phần khác như móng, tóc và gân Nếu không thấy được những điều đó trong thân, thì làm sao có thể thấy được vật bên ngoài? Do đó, việc Ngươi nói “Cái tâm giác tri trụ ở trong thân” là không chính xác Tự tánh vốn không có nghĩa đúng hay sai, chỉ vì chữa trị bệnh chấp thật nên mới nói là CHẲNG ĐÚNG.

Phá Chấp Tâm Ở Ngoài Thân

A Nan cúi đầu bạch Phật:

Nghe lời dạy của Như Lai, ta nhận ra rằng tâm thức thực sự của mình nằm ngoài thân xác Giống như một ngọn đèn trong phòng, trước tiên nó phải chiếu sáng không gian bên trong rồi mới có thể rọi ra ngoài Tất cả chúng sinh thường chỉ nhận thức được thế giới bên ngoài mà không thấy được bản thân bên trong, giống như ngọn đèn bên ngoài không thể chiếu sáng được bên trong phòng Ý nghĩa này rất rõ ràng và không còn nghi ngờ gì, vì vậy nó hoàn toàn phù hợp với giáo lý sâu sắc của Phật.

Sau khi các Tỳ Kheo khất thực trong thành và trở về rừng Kỳ Đà, Ta đã hoàn tất bữa ăn Bạn hãy suy ngẫm, liệu chỉ một người trong số các Tỳ Kheo ăn thì những người còn lại có được no đủ không?

Bạch Thế Tôn, không thể như vậy được! Dù tất cả các Tỳ Kheo đều là bậc A La Hán, nhưng mỗi người có cơ thể khác nhau, nên không thể một người ăn mà làm cho tất cả đều no.

Nếu tâm giác tri của bạn nằm ngoài thân, thì tâm và thân sẽ không liên quan đến nhau Khi tâm biết, thân không biết và ngược lại Giờ đây, tôi đưa tay cho bạn xem, trong khi mắt bạn thấy, liệu tâm bạn có nhận biết được điều đó không?

- Bạch Thế Tôn! Vâng biết

- A Nan! Nếu thân và tâm cùng biết một lượt thì sao lại nói tâm ở ngoài thân? Nên biết, Ngươi nói “tâm giác tri trụ ở ngoài thân” là chẳng đúng.

Phá Chấp Tâm Ẩn Núp Sau Con Mắt

Bạch Thế Tôn! Theo lời Phật dạy, nếu không thấy bên trong thì không thể ở trong thân; thân và tâm cùng nhận thức một cách đồng thời, không thể tách rời, vì vậy không thể ở ngoài thân Nay con xin suy nghĩ rằng tâm cần phải ở một chỗ.

Tâm giác tri không thể nhận biết bên trong mà chỉ thấy bên ngoài, giống như việc một người đeo kính, mặc dù có vật chắn nhưng vẫn có thể phân biệt được Tâm giác tri của con không thể thấy rõ bên trong vì nó ẩn nấp sau con mắt, nhưng lại có khả năng nhìn thấy rõ ràng thế giới bên ngoài.

- Theo lời Ngươi nói, tâm núp sau con mắt như con mắt núp sau chén lưu ly, vậy thì lúc thấy núi sông, mắt thấy chén lưu ly chăng?

- Bạch Thế Tôn! Thật thấy chén lưu ly

Một Nan cho rằng, khi con mắt được che khuất sau chén lưu ly, nó vẫn có thể nhận ra chén lưu ly Tuy nhiên, nếu tâm cũng ẩn mình sau con mắt, thì tại sao lại không thể thấy được con mắt? Dù có nhận diện được con mắt, nhưng con mắt chỉ là một phần của cảnh, còn cảnh thì không thể tự nhận thức chính mình Nếu không thể thấy được con mắt, thì việc nói rằng “Tâm giác tri ẩn núp sau con mắt” là không chính xác.

Phá Chấp Nhắm Mắt Thấy Tối Là Thấy Trong Thân

Bạch Thế Tôn! Con suy nghĩ rằng, thân thể của chúng sanh có tạng phủ bên trong và khiếu huyệt bên ngoài, nơi tạng thì tối tăm, còn nơi khiếu thì sáng sủa Khi con mở mắt trước Phật, thấy ánh sáng bên ngoài, nhưng khi nhắm mắt lại, con cảm nhận sự tối tăm bên trong Ý nghĩa của sự phân biệt này là gì?

Khi ngươi nhắm mắt thấy tối, cái cảnh tối ấy là đối với mắt hay chẳng đối với mắt?

Nếu tối được coi là ở trong thân, thì khi ở trong một căn phòng tối không có ánh sáng, liệu mọi thứ trong phòng đó có phải là tạng phủ của bạn không? Điều này đặt ra câu hỏi về cách hiểu của chúng ta về sự tối tăm và ánh sáng trong mối liên hệ với cơ thể.

Nếu không có sự nhìn nhận, làm sao có thể thấy? Khi tách rời khỏi cái nhìn bên ngoài, chúng ta thiết lập cái nhìn hướng vào bên trong Khi nhắm mắt, cảm nhận sự tối gọi là thấy trong thân; vậy tại sao khi mở mắt, chúng ta lại không thấy được bản thể?

Nếu không nhìn thấy mặt, thì khái niệm "con mắt đối vào trong" sẽ không được hình thành Khi thấy mặt, cả tâm giác tri và nhãn căn đều ở trong hư không, vậy làm thế nào có thể nói là ở trong?

Nếu ở ngoài hư không thì không phải là thân của Ngươi, và hiện nay Như Lai thấy mặt Ngươi cũng chính là thân Ngươi Nếu mắt Ngươi thấy biết, thì thân Ngươi lại không biết Nếu Ngươi cho rằng thân và mắt cùng biết một lượt, thì sẽ có hai cái biết, dẫn đến việc một thân Ngươi phải trở thành hai Phật Do đó, câu nói “thấy tối gọi là thấy trong thân” là không chính xác.

Phá Chấp Sự Suy Nghĩ Là Tâm

Phật đã dạy rằng tâm là nguồn gốc của mọi pháp, và mọi pháp lại ảnh hưởng đến tâm Suy nghĩ của con chính là tâm của con; tâm hình thành theo cách suy nghĩ, không nằm ở trong, ngoài hay chính giữa.

Theo quan điểm của A Nan, tâm sinh ra từ pháp và sự suy nghĩ của tâm sẽ tạo ra các trạng thái tâm khác nhau Tâm không có tự thể, vì vậy nếu không có tự thể, tâm sẽ không thể suy nghĩ Nếu tâm có thể suy nghĩ mà không có tự thể, thì điều đó sẽ dẫn đến việc nhận thức vô căn, điều này là không chính xác.

Nếu bạn có thể tự thể, hãy thử dùng tay búng vào người mình để cảm nhận Hãy xem tâm thức của bạn đến từ đâu: nếu nó phát sinh từ bên trong, bạn sẽ cảm nhận được trong cơ thể; còn nếu nó đến từ bên ngoài, bạn sẽ phải nhìn thấy bề mặt trước tiên.

Mắt chủ sự thấy, tâm chủ sự biết, tâm không phải như mắt, nói tâm thấy là chẳng đúng nghĩa

Nếu coi con mắt như một biểu tượng, thì thân thể được ví như một căn phòng và mắt như cửa sổ Người đã chết vẫn còn con mắt, nhưng nếu nó không thể nhìn thấy vật gì, thì liệu có thể gọi là chết hay không?

Lại, nếu tâm hay biết của Ngươi có tự thể, thì liệu đó là một thể hay nhiều thể? Hiện tại, tâm có phân bổ đều khắp cơ thể Ngươi hay không?

Khi tay bạn búng một chi, tất cả các chi khác lẽ ra cũng phải biết, nhưng nếu chúng đều biết thì không có chỗ búng Nếu có chỗ búng thì không thể coi là một thể thống nhất Nếu có nhiều thể, thì sẽ trở thành nhiều người, vậy thể nào là của bạn?

Khi nói về sự liên kết giữa các bộ phận cơ thể, nếu chỉ dựa vào cảm giác đơn lẻ, thì đầu và chân không thể nhận thức lẫn nhau Tuy nhiên, hiện tại, bạn không chỉ đơn thuần như vậy Do đó, câu nói "Tùy sự suy nghĩ tâm liền có" của bạn là không chính xác.

Phá Chấp Tâm Ở Chặn Giữa

Bạch Thế Tôn! Khi Phật thảo luận với Văn Thù và các Pháp Vương Tử về thật tướng, con nghe Phật nói rằng tâm không ở trong cũng không ở ngoài Theo con, vì không biết bên trong nên không thể nói là ở trong, và khi thân tâm cùng biết một lượt thì không thể nói là ở ngoài Do đó, nếu cùng biết mà không thấy bên trong, thì tâm phải ở giữa.

Ngươi nói rằng "ở giữa" cần phải xác định rõ ràng vị trí của nó Vậy theo Ngươi, "giữa" được hiểu là ở đâu? Liệu nó nằm ở nơi xứ (bao gồm 12 xứ, lục căn và lục trần) hay là ở thân thể?

Nếu vị trí nằm ở nơi thân thể hay ngoài da thì không thể coi là ở giữa; còn nếu ở giữa thì giống như ở trong Khi xét đến không gian, liệu có thể xác định được vị trí hay không? Nếu không thể xác định, điều đó đồng nghĩa với việc nó không tồn tại; nhưng nếu có thể xác định lại không rõ ràng Ví dụ, khi một người cắm cây nêu ở giữa, người từ phương Đông sẽ thấy cây nêu ở phương Tây, còn người từ phương Nam sẽ thấy ở phương Bắc, khiến cho khái niệm "giữa" bị lẫn lộn, dẫn đến tâm trí cũng trở nên rối ren và không rõ ràng.

Theo Thế Tôn, nhãn căn và sắc trần tương tác để hình thành nhãn thức Nhãn căn có khả năng phân biệt, trong khi sắc trần không có tri giác Sự nhận thức này xảy ra ở giữa, tức là tại tâm.

Nếu tâm của bạn ở giữa căn trần, thì tâm thể này có bao gồm cả hai hay không? Nếu có, vật và thể sẽ xen lẫn nhau, trong đó vật vô tri và thể có tri thức, tạo thành hai thực thể đối lập Nếu tách biết (căn) và không biết (trần), thì sẽ không còn thể tánh, vậy đâu là tướng chính giữa? Do đó, việc khẳng định “Tâm ở chính giữa” là không chính xác.

Phá Chấp “Tất Cả Vô Trước” Là Tâm

- Bạch Thế Tôn! Khi xưa con thấy Phật với bốn đại đệ tử (Mục Kiền Liên,

Tu Bồ Đề, Phú Lâu Na và Xá Lợi Phất đã cùng nhau chuyển pháp luân và thường nhấn mạnh rằng “cái tâm giác tri không nằm ở trong, không ở ngoài, không ở giữa, mà không ở chỗ nào cả, tất cả vô trước được gọi là tâm.” Vậy, việc con vô trước có được xem là tâm hay không?

Ngươi nói rằng tâm giác tri không ở chỗ nào cả, nhưng các loài bay trên không, dưới nước và trên bờ đều tồn tại trong thế gian Nếu không có sự vô trước, thì điều đó giống như lông rùa hay sừng thỏ, không thể nói đến sự vô trước Nếu có sự vô trước, thì không thể gọi là không Không tướng là không, nhưng nếu không có tướng thì lại có sự tồn tại Khi tâm đã chấp nhận có tướng, thì việc nói về sự vô trước trở nên vô nghĩa Vì vậy, việc nói “Tất cả vô trước gọi là tâm giác tri” là không chính xác.

Trong bài viết này, có bảy điểm quan trọng mà Đức Phật gợi ý để dẫn dắt A Nan đến sự tự ngộ Lời Phật không phải là chân lý tuyệt đối, mà chỉ là phương tiện chữa trị cho những bệnh tật tâm linh giả tạo của A Nan Những kiến chấp của A Nan không có thực, do đó được gọi là bệnh giả Tương tự, những lời dạy của Phật cũng chỉ là "thuốc giả" nhằm phá bỏ những chấp trước không có thật.

A Nan đã chỉ ra rằng tâm tồn tại cả trong và ngoài thân, và khi nói đến vô trước, tâm thực chất không có chỗ nào đúng hay sai Sự chấp nhất vào một điểm cụ thể khiến cho Phật khẳng định rằng không đúng Nếu bệnh chấp vẫn còn, có thể đưa ra nhiều điểm khác nhau, không chỉ dừng lại ở bảy điểm Ngược lại, khi bệnh chấp đã được giải thoát, thì thậm chí chỉ một điểm cũng không còn tồn tại, nói gì đến bảy điểm.

Tự tánh vốn bất nhị, nếu chấp theo lời Phật, cho “thật chẳng ở trong” là nhị, cho

"Thật chẳng ở ngoài" cũng được hiểu là nhị, vì bất kỳ nơi nào có sự hiện diện hay vắng mặt đều mang tính nhị Điều này xảy ra bởi vì nếu một chỗ có thì những chỗ khác không có, tạo nên sự phân chia giữa có và không Do đó, Phật đã nói rằng: "Phàm hữu ngôn thuyết, giai phi thật nghĩa", tức là mọi lời nói đều không phải là nghĩa thật.

Bấy giờ, A Nan ở trong đại chúng từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch vai áo tay phải, quỳ gối chân phải, chắp tay cung kính bạch Phật:

Con là em út của Như Lai, được Phật thương mến Dù đã xuất gia, con vẫn ỷ lại vào lòng thương yêu của Ngài Hiện tại, con chỉ ham học hỏi mà chưa đạt được trí tuệ vô lậu, không thể uốn nắn được tà chú và bị rơi vào những cám dỗ trần gian Con không biết được con đường đến Chơn Thật, kính mong Thế Tôn từ bi thương xót, khai thị cho chúng con về lối tu thiền quán Sa Ma Tha, giúp kẻ Xiển đề xóa bỏ ác kiến.

Nói xong đảnh lễ, năm vóc gieo sát đất, cùng đại chúng khao khát kính nghe chỉ dạy

Lúc ấy, Thế Tôn phát ra hào quang rực rỡ như trăm ngàn mặt trời, chiếu sáng khắp các thế giới Phật, tạo nên sự rung động mạnh mẽ Oai thần của Ngài khiến mọi thế giới hòa quyện thành một, trong khi các Đại Bồ Tát an trụ tại quốc độ của mình, chắp tay lắng nghe.

Tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay đều tạo ra nghiệp, dẫn đến quả luân hồi Những người tu hành nếu không chứng quả vô thượng Bồ Đề sẽ chỉ đạt được các trạng thái như Thanh Văn, Duyên Giác hoặc bị rơi vào cõi Trời ngoại đạo và ma vương Nguyên nhân của việc này là do không hiểu rõ hai yếu tố căn bản và tu tập sai lầm, giống như nấu cát mà mong thành cơm; dù trải qua nhiều kiếp, họ cũng sẽ không thể đắc đạo.

Thế nào là hai thứ căn bản?

- Một là căn bản của sanh tử từ vô thỉ, tức là nay nhận tâm phan duyên làm tự tánh của Ngươi và chúng sanh;

- Hai là Bản Thể vốn thanh tịnh của Bồ Đề Niết Bàn từ vô thỉ, tức là cái Bản

Thức vốn là bản thể sáng tỏ, nhưng bị các duyên che khuất, dẫn đến sự lạc mất bản chất của chính mình Do đó, chúng sanh thường không nhận ra bản thức sáng tỏ của mình, mặc dù hàng ngày vẫn sống trong đó, và oan uổng rơi vào lục đạo.

A Nan, nay Ngươi muốn biết đường tu thiền quán Sa Ma Tha, mong ra khỏi sanh tử, vậy Ta hỏi Ngươi

Liền đó, Như Lai giơ cánh tay sắc vàng co năm ngón tay, bảo A Nan: - Ngươi có thấy chăng?

Phật bảo: - Ngươi thấy cái gì?

A Nan đáp: - Con thấy Như Lai giơ tay, co ngón tay thành nắm tay sáng ngời, chói tâm và mắt con

Phật bảo: - Ngươi dùng cái gì để thấy?

- Con và đại chúng đều dùng mắt thấy

Theo lời Ngươi đáp, Như Lai co ngón tay thành nắm tay sáng ngời, chói mắt Ngươi Khi nắm tay Ta tỏa sáng, mắt Ngươi sẽ thấy được, nhưng tâm của Ngươi sẽ dựa vào đâu?

- Nay Như Lai gạn hỏi tâm ở chỗ nào, con dùng tư tưởng suy tìm, thì cái hay suy tìm ấy, con cho là tâm

- Sai rồi, A Nan! Cái ấy chẳng phải tâm Ngươi

A Nan giựt mình đứng dậy, chắp tay bạch Phật rằng: “Cái ấy chẳng phải tâm con thì gọi là cái gì?”

Tướng vọng tưởng của tiền trần mê hoặc chơn tánh của bạn, khiến bạn lạc mất Bản Thức chơn thường Do đó, bạn đã nhận giặc làm con và bị luân chuyển trong vòng sinh tử.

Bạch Thế Tôn, con là em cưng của Phật, xuất gia vì lòng mến mộ Ngài Tâm con không chỉ cúng dường Như Lai mà còn mong muốn phụng sự chư Phật và thiện tri thức khắp mọi nơi Con phát tâm dũng mãnh để thực hiện những Phật sự khó khăn, ngay cả khi phải đối diện với những thách thức như báng pháp hay đánh mất thiện căn Nếu Thế Tôn cho rằng điều đó không phải là tâm, thì con sẽ trở thành vô tâm, như đất gỗ, không còn giác tri gì nữa Con thật sự kinh sợ và cùng đại chúng không khỏi nghi hoặc, kính mong Thế Tôn từ bi khai thị cho những kẻ chưa ngộ.

Bấy giờ, Thế Tôn muốn cho A Nan và đại chúng đều được chứng nhập vô sanh pháp nhẫn, nơi tòa sư tử, xoa đầu A Nan khai thị rằng:

Như Lai thường nhấn mạnh rằng tất cả các hiện tượng trong thế giới, từ vật chất đến tinh thần, đều xuất phát từ tâm A Nan, mọi sự vật, kể cả những thứ nhỏ bé như cỏ và lá, đều có thể tánh, ngay cả hư không cũng mang danh hiệu Tâm trong sạch và sáng tỏ của chúng ta không thể thiếu tự thể Nếu bạn chấp nhận rằng tánh giác tri phân biệt là tâm, thì tâm đó sẽ tách rời khỏi mọi sự vật và không còn tự thể riêng biệt Ngay cả khi bạn đang nghe thuyết pháp, âm thanh cũng dẫn đến sự phân biệt; cho dù bạn có diệt trừ mọi kiến thức và giác tri, thì vẫn còn lại bóng dáng của sự phân biệt từ pháp trần.

Ngươi không cần phải chấp chặt vào tâm, nhưng hãy xem xét kỹ lưỡng tâm của mình: nếu rời bỏ tiền trần mà vẫn giữ được bản thể của tánh phân biệt, đó chính là chơn tâm của Ngươi Ngược lại, nếu tánh phân biệt tách rời khỏi trần mà không có bản thể, thì đó chỉ là bóng dáng của tiền trần Trần không tồn tại mãi mãi, khi chúng biến mất, tâm này cũng như lông rùa, sừng thỏ, khiến pháp thân của Ngươi trở nên đoạn diệt Vậy ai còn có thể tu chứng vô sanh pháp nhẫn? Cảnh trần được chia thành hai loại: đối với ngũ căn là tiền trần, còn đối với ý căn là pháp trần.

Tức thời, A Nan cùng đại chúng im lặng ngơ ngác, chẳng còn lý lẽ gì để nói nữa

Tất cả những người tu học trên thế gian, dù đã đạt đến chín bậc thiền định, nhưng vẫn còn vướng mắc vào tập khí phiền não và chưa chứng ngộ A La Hán, đều do chấp trước vào sanh tử và vọng tưởng, cho rằng đó là chân thật Vì vậy, dù có học rộng nghe nhiều, họ vẫn không thể đạt được Thánh quả.

A Nan nghe rồi, lại đau xót rơi lệ, năm vóc gieo sát đất, quỳ gối chắp tay bạch Phật rằng:

KINH THỦ LĂNG NGHIÊM - QUYỂN HAI

Sắc Ấm Vốn Vô Sanh

Nếu một người có con mắt trong sạch nhìn vào hư không, họ sẽ chỉ thấy sự trống rỗng và không nhận ra gì Khi họ nhìn lâu mà không chớp mắt, mắt sẽ mỏi và có thể thấy những hoa đốm xuất hiện, tượng trưng cho sắc ấm, hoặc nhận diện những hình tướng giả dối Điều này cho thấy rằng sắc ấm cũng có bản chất tương tự.

A Nan! Những hoa đốm này không xuất hiện từ hư không hay từ mắt Nếu chúng đến từ hư không, thì cũng sẽ trở về hư không; nhưng nếu có sự ra vào, thì không thể gọi là hư không Nếu hư không không phải là hư không, thì tự nhiên không thể chứa đựng hình tướng hoa đốm sanh diệt, giống như thân thể A Nan không thể chứa đựng một A Nan khác.

Nếu hoa đốm xuất phát từ con mắt thì phải trở về con mắt; nếu từ mắt ra, chắc chắn phải có tánh thấy Khi có tánh thấy, khi quay lại, lẽ ra phải thấy mắt Nếu không có tánh thấy, khi ra đã che mờ hư không thì khi về cũng phải che mờ con mắt Hơn nữa, khi thấy hoa đốm, mắt lẽ ra không bị mờ, vậy tại sao lại nói thấy hư không sáng sủa mới gọi là con mắt trong sạch? Cần hiểu rằng Sắc Ấm hư vọng không phải là tánh nhân duyên hay tánh tự nhiên.

Thọ Ấm Vốn Vô Sanh

Một người có sức khỏe tốt, thân thể cân đối và cuộc sống ổn định thường không chú ý đến những điều thuận lợi hay khó khăn Họ có thể vô tình xoa hai bàn tay với nhau và cảm nhận những trạng thái khác nhau như trơn, rít, lạnh, nóng Điều này cũng tương tự như khái niệm THỌ ẤM trong cuộc sống.

A Nan, những xúc giác huyễn hóa này không xuất phát từ hư không hay từ bàn tay Nếu chúng từ hư không mà ra, thì khi tiếp xúc với bàn tay, sao lại không chạm vào thân thể? Liệu hư không có khả năng chọn lựa vị trí để tiếp xúc hay không?

Xúc giác không chỉ xuất hiện khi hai bàn tay hợp lại, mà ngay cả khi chúng tách rời, cơ thể vẫn có khả năng cảm nhận Khi hai tay hợp lại, xúc giác được nhận biết, và khi tách ra, cảm giác này vẫn tồn tại trong xương tủy và cánh tay Nếu tâm trí có khả năng nhận thức, thì chắc chắn có một yếu tố di chuyển trong cơ thể, không cần phải chờ đến khi hai tay tiếp xúc mới gọi là cảm giác.

Nên biết Thọ Ấm hư vọng, vốn chẳng phải tánh nhân duyên, cũng chẳng phải tánh tự nhiên.

Tưởng Ấm Vốn Vô Sanh

Khi nghe đến trái mơ chua, có người sẽ chảy nước miếng, còn khi nghĩ đến việc leo dốc cao, lòng bàn chân lại cảm thấy ghê rợn Cả hai cảm xúc này đều thể hiện sự tác động mạnh mẽ của TƯỞNG ẤM, cho thấy rằng những tưởng tượng có thể mang lại cảm giác sống động và chân thực.

Âm thanh "Nan" không phải xuất phát từ trái mơ hay từ miệng, mà là một hiện tượng không cần sự can thiệp của con người Nếu tiếng phát ra từ trái mơ, nó sẽ tự biết nói; nếu từ miệng, thì miệng cũng phải tự nghe Nếu chỉ có tai nghe, thì nước miếng cũng không thể chỉ chảy từ tai Hình ảnh leo dốc cũng tương tự, cho thấy rằng những gì ta tưởng tượng chỉ là sự ấm áp hư vọng, không phải là bản chất của nhân duyên hay tự nhiên.

Hành Ấm Vốn Vô Sanh

Hành Ấm giống như dòng nước chảy mạnh, liên tục và không ngừng nghỉ, với các lớp sóng nối tiếp nhau mà không bao giờ vượt qua nhau Điều này cho thấy sự liên kết và sự ổn định của Hành Ấm trong tự nhiên.

- A Nan! Tánh dòng nước như thế chẳng do hư không sanh ra, chẳng do nước mà có, chẳng phải tánh của nước, cũng chẳng lìa hư không và nước

Nếu hư không không sinh ra, thì mười phương hư không sẽ trở thành dòng nước vô tận, khiến thế giới chìm đắm Nếu nước tồn tại, thì nước là năng có và dòng nước là sở có, nhưng hai tướng này khác nhau, do đó tánh của dòng nước không thể chỉ là nước Khi nước lặng, nó không thể hiện tự thể của nước Nếu tách rời hư không và nước, hư không không có trong và ngoài, và ngoài nước, không có dòng nước Do đó, Hành Ấm hư vọng không phải là tánh nhân duyên hay tánh tự nhiên.

Thức Ấm Vốn Vô Sanh

Nghiệp thân được ví như một cái bình chứa đầy hư không, trong đó hư không tượng trưng cho thức ấm Khi cái bình này được bít kín và mang đi xa ngàn dặm để tặng cho nước khác, điều này cũng phản ánh bản chất của thức ấm.

Hư không không phải từ một phương nào đó ra hay vào, vì nếu hư không được lấy từ phương kia, thì phương đó sẽ thiếu hư không, và nếu hư không từ phương này trút ra, thì phải thấy hư không xuất hiện Do đó, cần nhận thức rằng Thức Ấm là hư vọng, không thuộc về tánh nhân duyên hay tánh tự nhiên.

Trung Quán Luận có bài kệ rằng:

Các pháp chẳng tự sanh, Cũng chẳng phải tha sanh, Chẳng cộng chẳng vô nhân, Cho nên nói VÔ SANH

Tại sao lại nói các pháp không tự sanh? Bởi vì chúng phải chờ đợi sự hòa hợp của nhân duyên mới có thể ra đời Tại sao lại nói không có tha sanh? Vì tất cả các duyên đều không có tự tánh Tại sao lại nói không có cộng sanh? Vì tự và tha còn không tồn tại, thì làm sao có thể cộng sinh? Tại sao lại nói không có vô nhân sanh? Bởi vì Bản Thể sáng tỏ của Diệu Tâm chỉ có thể được hiển bày qua quá trình tu hành và giác ngộ, không phải tự nhiên mà có Do đó, cần hiểu rằng tất cả sự vật trên thế gian thực chất là VÔ SANH, vì không có lý do nào để chúng được sinh ra.

Nếu hiểu rõ tất cả pháp vô sanh, thì SẮC giống như hình ảnh hoa đốm trên không; THỌ như cảm giác từ bàn tay chạm vào các bề mặt khác nhau; TƯỞNG như sự thèm thuồng khi nghe nói về trái mơ; HÀNH như dòng nước chảy, không có năng sanh và sở sanh; THỨC giống như cái bình chứa đầy hư không, trong đó bình đại diện cho nghiệp thân và hư không là vọng thức Bản Giác tánh không, hiện hữu khắp pháp giới, nhưng khi mê lầm, vọng thức trở thành hư không trong bình, với miệng bình bị bít lại tượng trưng cho vọng phân chia Thực tế, trong và ngoài bình chỉ là một hư không, thể hiện rằng tánh và thức vốn là một; hư không không có khứ lai, tượng trưng cho tánh không sanh diệt Bình là biểu tượng cho vọng nghiệp, hư không cho vọng thức, và nghiệp kéo thức theo, giống như mang bình đựng hư không đi khắp nơi, ám chỉ việc chịu đựng luân hồi trong lục đạo.

Lục nhập, Thập Nhị Xứ, Thập Bát Giới, cho đến Thất Đại ở quyển sau, đều sáng tỏ nghĩa này

VẠN PHÁP VỐN VÔ SANH

KINH THỦ LĂNG NGHIÊM - QUYỂN BA

LỤC NHẬP

Lại nữa, A Nan! Sao nói LỤC NHẬP vốn là Như Lai Tạng, cũng là Diệu

3.1.1 Nhãn Nhập Vốn Vô Sanh

Khi chúng ta nhìn chằm chằm vào một điểm trong thời gian dài, cả đôi mắt lẫn cảm giác mỏi mệt đều phản ánh bản chất của tánh Bồ Đề Điều này xuất phát từ hai loại vọng trần, cho thấy sự ảnh hưởng của chúng đến trạng thái tinh thần và thể chất của con người.

Sáng và Tối hiện ra cái thấy, thu nạp cảnh trần, gọi là tánh thấy; cái thấy này lìa

Sáng và Tối vốn chẳng có tự thể

Kiến tinh không xuất phát từ ánh sáng hay bóng tối, cũng không phải từ con mắt hay hư không Nếu nó đến từ ánh sáng, thì khi tối đến, kiến tinh sẽ không còn; ngược lại, nếu từ tối, thì khi sáng, nó cũng sẽ biến mất Khi xem xét từ con mắt, không có sự phân biệt giữa sáng và tối, cho thấy kiến tinh không có tự tánh Hơn nữa, nếu kiến tinh xuất phát từ hư không, thì nó cũng không thể tách rời khỏi sự quan sát của con mắt Như vậy, NHÃN NHẬP là hư vọng, không phải tánh nhân duyên hay tánh tự nhiên.

3.1.2 Nhĩ Nhập Vốn Vô Sanh

Tánh Bồ Đề giống như việc bịt chặt hai lỗ tai, khiến cho sự mỏi mệt trong tai dẫn đến những âm thanh trong đầu Cả hai tai và cảm giác mỏi mệt đó phản ánh tướng trạng của tánh Bồ Đề Hai trạng thái vọng trần Động và Tịnh tạo ra cảm giác nghe, thu nhận cảnh trần, được gọi là tánh nghe; tuy nhiên, tánh nghe này vượt ra ngoài Động và Tịnh, vốn không có tự thể.

Cái nghe không xuất phát từ động hay tịnh, từ tai hay hư không Nếu cái nghe đến từ chỗ tịnh, nó sẽ không thể nhận biết động; nếu từ chỗ động, nó sẽ không biết tịnh Nếu cái nghe xuất phát từ lỗ tai, thì không có sự phân biệt giữa động và tịnh, cho thấy rằng cái nghe không có tự tánh Hơn nữa, nếu cái nghe đến từ hư không, thì hư không sẽ không còn là hư không nữa Như vậy, Nhĩ Nhập hư vọng không phải là tánh nhân duyên hay tánh tự nhiên.

3.1.3 Tỷ Nhập Vốn Vô Sanh

Khi hít mạnh hai lỗ mũi, cảm giác mát lạnh xuất hiện do sự phân biệt giữa thông và nghẽn Những cảm giác này, cùng với sự mệt mỏi khi hít lâu, phản ánh tướng ngó của tánh Bồ Đề Hai trạng thái vọng trần là Thông và Nghẽn tạo ra cảm giác ngửi, cho phép thu nạp cảnh vật xung quanh, nhưng thực chất, tánh ngửi này không có tự thể.

Cái ngửi không đến từ sự thông nghẽn, lỗ mũi hay hư không, mà nó tồn tại độc lập Nếu cái ngửi đến từ chỗ thông, thì khi nghẽn, nó sẽ biến mất, và ngược lại Nếu từ lỗ mũi, thì không có nghẽn, cho thấy cái ngửi không có tự tánh Hơn nữa, nếu nó đến từ hư không, thì hư không không thể ngửi được, không liên quan đến sự nhận biết của con người Do đó, cái ngửi không phải là tánh nhân duyên hay tánh tự nhiên, mà là một khái niệm hư vọng.

3.1.4 Thiệt Nhập Vốn Vô Sanh

Lưỡi giống như người liên tục liếm mép, dẫn đến cảm giác mệt mỏi Người bệnh cảm nhận vị đắng, trong khi người khỏe thấy vị ngọt, cho thấy vị giác chỉ hoạt động khi có sự tác động Cả lưỡi và cảm giác mệt mỏi đều phản ánh trạng thái của tánh Bồ Đề Hai yếu tố vọng trần là ngọt và đắng tạo ra vị giác, thu nhận cảnh trần, nhưng tánh nếm thực chất không có tự thể, tách biệt khỏi ngọt và đắng.

Cái biết về vị đắng và ngọt không xuất phát từ cảm giác hay hư không, mà từ sự nhận thức của con người Nếu vị giác chỉ biết đắng thì khi nếm ngọt, nó không còn tồn tại, và ngược lại Điều này chứng tỏ rằng vị giác không có bản chất tự thân Hơn nữa, nếu hư không tự nếm, thì nó không liên quan gì đến con người Do đó, cần hiểu rằng sự nhận thức về thực tại không phải chỉ dựa vào nhân duyên hay tự nhiên.

3.1.5 Thân Nhập Vốn Vô Sanh

Khi bàn tay lạnh chạm vào bàn tay nóng, cảm giác sẽ thay đổi tùy thuộc vào mức độ của mỗi bên; nếu bên lạnh nhiều hơn, bên nóng sẽ trở nên lạnh, và ngược lại Sự nhận biết về cảm giác này chỉ rõ ràng khi hai tay rời xa nhau, cho thấy rằng cảm giác nóng hay lạnh đều xuất phát từ sự mỏi mệt của xúc giác Cả thân thể và cảm giác mỏi mệt đều phản ánh trạng thái của tánh Bồ Đề Hai yếu tố Ly và Hợp tạo ra xúc giác, tiếp nhận cảnh vật, nhưng tánh xúc giác này không có bản chất tự thân, vượt ra khỏi sự phân chia ly hợp, thuận nghịch.

Xúc giác không phải phát sinh từ ly hợp, thuận nghịch, hay thân thể, cũng như không đến từ hư không Nếu xúc giác phát sinh từ hợp, thì khi ly, nó sẽ diệt, làm sao còn biết được sự ly? Tương tự, đối với hai tướng thuận nghịch, nếu xúc giác đến từ thân thể, thì không có ly, hợp, thuận, nghịch, chứng tỏ xúc giác vốn không có tự tánh Nếu từ hư không mà có, thì hư không không tự hay biết, không liên quan gì đến chỗ nhập của bạn Do đó, cần nhận thức rằng THÂN NHẬP hư vọng, không phải tánh nhân duyên cũng như không phải tánh tự nhiên.

Cuộc sống như giấc mơ, khi con người mệt mỏi thì tìm đến giấc ngủ, và khi tỉnh dậy, họ lại đối diện với những kỷ niệm, có nhớ thì nhớ, không thì quên, tất cả đều như một ảo tưởng Các hiện tượng sinh, trụ, dị, diệt liên tục thay đổi không ngừng, không tách rời nhau Sự hiểu biết được gom lại thành cảm giác mệt mỏi; cả ý thức và cảm giác đó đều phản ánh trạng thái mệt mỏi của tánh Bồ Đề.

Hai thứ vọng trần Sanh và Diệt tạo ra sự phân biệt giữa pháp trần bên ngoài và bên trong, hình thành nên cái biết của ý căn Ý căn giống như dòng nước, trong khi sự nhận thức từ tai mắt về tiền trần bên ngoài là thuận lưu, thì sự tưởng nhớ không cần tai mắt lại trở thành nghịch lưu Khi ý căn chảy ngược về những gì đã qua hoặc xa xôi, chỉ có nó mới nhận biết, gọi là tánh hay biết của ý căn Tánh hay biết này tách rời khỏi thức, ngủ, sanh, diệt, và không có tự thể.

Cái hay biết của ý căn không xuất phát từ thức ngủ, sanh diệt, hay hư không Nếu từ thức ra, thì khi ngủ, ý căn không thể biết gì vì thức đã diệt Nếu từ sanh mà ra, khi diệt, ai sẽ biết sự diệt? Nếu từ diệt ra, thì khi sanh không có, ai biết sự sanh? Nếu từ ý căn ra, thì không có tướng thức hay ngủ, giống như hoa đốm trên không, vốn không có tự tánh Hơn nữa, nếu từ hư không ra, thì hư không cũng không tự biết, không liên quan gì đến chỗ nhập của Ngươi Do đó, cần hiểu rằng ý nhập hư vọng không phải là tánh nhân duyên hay tánh tự nhiên.

THẬP NHỊ XỨ

Lại nữa A Nan! Sao nói THẬP NHỊ XỨ vốn là Như Lai Tạng, cũng là diệu tánh Chơn Như?

3.2.1 Nhãn Căn Với Sắc Trần Vốn Vô Sanh

Trong vườn Kỳ Đà, rừng cây và suối ao tạo nên một khung cảnh tuyệt đẹp, khiến người ta phải suy ngẫm về mối quan hệ giữa sắc và nhãn căn Liệu sắc trần có sinh ra nhãn căn, hay nhãn căn lại là nguồn gốc của sắc tướng?

Nếu nhãn căn sinh ra sắc tướng, thì khi nhìn vào hư không, sắc tướng không còn tồn tại, dẫn đến việc tánh sắc cũng mất đi Khi tánh sắc mất, mọi thứ đều không còn, và nếu sắc tướng không có, làm sao có thể nhận biết được tánh không? Sự không cũng tương tự như vậy.

Nếu sắc trần sinh ra nhãn căn, khi nhìn vào hư không không phải sắc, nhãn căn sẽ mất đi Khi nhãn căn đã mất, không còn gì để phân biệt giữa Sắc và Không.

Sự thấy và sắc không đều ở bất kỳ nơi nào đều là hư vọng, bao gồm sắc trần và sự thấy, cả hai đều không phải là tánh nhân duyên hay tánh tự nhiên.

3.2.2 Nhĩ Căn Với Thanh Trần Vốn Vô Sanh

Trong vườn Kỳ Đà, khi đến giờ ăn, người ta đánh trống, và khi họp nhóm thì lại đánh chuông, tạo nên âm thanh liên tục giữa tiếng chuông và tiếng trống Bạn có suy nghĩ gì về hiện tượng này? Liệu âm thanh đến với tai chúng ta, hay tai chúng ta mới là nơi tiếp nhận âm thanh?

Âm thanh này, nếu đến bên tai A Nan, giống như tiếng khất thực của Ta trong thành Thất La Phiệt, thì ở trong rừng Kỳ Đà không có Ta Âm thanh này chắc chắn chỉ đến bên tai A Nan, vì Mục Liên và Ca Diếp không thể nghe cùng lúc, huống chi trong số này có 1250 vị Sa Môn cùng nghe tiếng chuông và đến trai đường!

Khi nhĩ căn của bạn tiếp xúc với âm thanh, giống như tôi đã trở về rừng Kỳ Đà, thì trong thành Thất La Phiệt không có tôi Khi bạn nghe tiếng trống, nhĩ căn đã đến nơi phát ra âm thanh, nhưng khi tiếng chuông đồng vang lên, bạn không thể nghe cả hai cùng một lúc, huống chi là các âm thanh khác như voi, ngựa, trâu, dê Nếu nhĩ căn và âm thanh không tương tác với nhau, thì việc nghe cũng trở nên không thể.

Âm thanh và sự nghe không thuộc về một địa điểm cụ thể, cả hai đều là những hiện tượng hư vọng Chúng không phải là bản chất của nhân duyên hay tự nhiên.

3.2.3 Tỷ Căn Với Hương Trần Vốn Vô Sanh

Hương chiên đàn trong lư này tỏa ra mùi thơm đặc biệt, nếu đốt một thù (khoảng một chỉ), sẽ lan tỏa đến 40 dặm và mọi người đều có thể ngửi thấy Bạn có nghĩ rằng mùi hương này xuất phát từ cây chiên đàn, từ tỷ căn hay từ hư không?

Nếu mùi hương phát ra từ tỷ căn của Ngươi, thì không thể coi tỷ căn là chiên đàn Vậy tại sao trong tỷ căn lại có mùi hương chiên đàn, mà lại gọi là Ngươi ngửi được mùi hương? Việc nói rằng mùi hương phát ra từ tỷ căn và được ngửi thấy là không chính xác.

Tánh hư không tồn tại vĩnh viễn, không cần phải chờ đợi việc đốt cây chiên đàn trong lư mới có thể cảm nhận mùi hương Mùi hương tự nó luôn hiện hữu, phản ánh sự thường còn của tánh hư không.

Mùi hương từ cây chiên đàn phát ra khi bị đốt thành khói, và điều thú vị là dù khói chỉ bay lên không trung một khoảng cách ngắn, nhưng mùi hương vẫn có thể được ngửi thấy cách xa đến 40 dặm.

Mùi hương và khả năng ngửi không thuộc về một nơi chốn cụ thể nào, mà cả hai đều mang tính hư vọng Chúng không phải là bản chất của nhân duyên hay bản chất tự nhiên, mà chỉ là những hiện tượng tạm thời, không có sự tồn tại vĩnh viễn.

3.2.4 Thiệt Căn Với Vị Trần Vốn Vô Sanh

Món ăn mà Ngươi thường thấy khi đi khất thực như tô lạc hay đề hồ mang đến hương vị đặc biệt Ngươi có suy nghĩ gì về vị ngon của những món này? Liệu hương vị ấy xuất phát từ không gian xung quanh, từ bản chất của món ăn hay từ chính nguyên liệu được sử dụng?

Nếu mùi vị này xuất phát từ thiệt căn của Ngươi, thì trong miệng Ngươi chỉ có một thiệt căn duy nhất Thiệt căn này đã trở thành vị tô, và nếu gặp đường phèn, vị tô lẽ ra không nên thay đổi Nếu không thay đổi, thì không thể nói là biết mùi vị; còn nếu có sự thay đổi, thì thiệt căn không thể nào có nhiều thể, vậy làm sao một thiệt căn lại có thể nhận biết nhiều mùi vị khác nhau?

THẬP BÁT GIỚI

- Lại nữa A Nan! Sao nói THẬP BÁT GIỚI vốn là Như Lai Tạng, cũng là Diệu Tánh Chơn Như?

3.3.1 Nhãn Căn, Sắc Trần, Nhãn Thức Giới Vốn Vô Sanh

Nhãn Căn và Sắc Trần tương tác với nhau để sinh ra Nhãn Thức Vậy câu hỏi đặt ra là Nhãn Thức phát sinh từ Nhãn Căn hay từ Sắc Trần? Nhãn Căn đóng vai trò là giới hạn cho Nhãn Thức, hay Sắc Trần mới là yếu tố quyết định?

Nếu không có SẮC KHÔNG từ Nhãn Căn, việc phân biệt sẽ trở nên vô nghĩa, ngay cả khi có sự nhận thức của bạn Cảm nhận của bạn không thể xác định màu sắc như xanh, vàng, đỏ hay trắng, vì vậy, nguồn gốc của việc thiết lập giới hạn là ở đâu?

Nếu sắc trần không tồn tại, thì thức của bạn cũng cần phải diệt để nhận biết tánh hư không Khi sắc trần biến đổi, nếu thức vẫn nhận biết sự biến đổi này mà không thay đổi, thì giới nào sẽ được thiết lập? Sự biến đổi là tự nhiên, nhưng giới tướng vốn không có; nếu không biến đổi thì lại tồn tại mãi mãi Do đó, thức đã xuất phát từ sắc trần, làm sao có thể nhận biết được hư không?

Khi căn và trần hợp lại, không thể thiết lập giới, dẫn đến tình trạng rời bỏ trung Nếu rời bỏ căn thì phải hợp trần, và ngược lại, rời bỏ trần thì phải hợp căn Sự lẫn lộn giữa thể tánh này khiến cho việc hình thành giới trở nên khó khăn.

Nhãn Căn và Sắc Trần tương tác với nhau để sinh ra nhãn thức giới Ba yếu tố này—nhãn căn, sắc trần và nhãn thức giới—không phải là tánh nhân duyên hay tánh tự nhiên.

Thập Bát Giới chỉ phá lục thức, không thể từ Nhãn hay Sắc để làm giới, vì thức chủ yếu phân biệt và không thể phân biệt nếu không có Sắc, Không Sắc có tính biến diệt, trong khi thức không thay đổi, nên không thể chỉ dựa vào Sắc để phân biệt hư không Nhãn và Sắc không thể cộng sinh làm giới, vì nhãn có tri thức còn sắc thì vô tri, hai yếu tố này đối lập nhau Nếu nói lìa căn trần mà sanh thức, thì phải có sự hợp nhất giữa căn và trần, dẫn đến sự lẫn lộn trong thể tánh, làm cho việc an lập giới trở nên bất khả thi.

3.3.2 Nhĩ Căn, Thanh Trần, Nhĩ Thức Giới Vốn Vô Sanh

Nhĩ thức được hình thành từ sự kết hợp giữa nhĩ căn và thanh trần, vậy câu hỏi đặt ra là thức này có nguồn gốc từ nhĩ căn hay từ thanh trần?

Nếu không có hai tướng động tịnh từ Nhĩ Căn, thì sẽ không có sự nhận biết của nhĩ căn, tức là không có tri thức Khi tri thức không tồn tại, thì cái thức sẽ là hình tướng gì?

Nếu không có lỗ tai, thì khi không có âm thanh, việc nghe sẽ không xảy ra; chỉ còn lại hình dáng của lỗ tai Tương tự, khi sắc trần tiếp xúc với thanh trần mà không có thức để phân biệt, thì nhĩ thức từ đâu mà hình thành?

Nếu Nhĩ Thức được hình thành từ Thanh Trần, thì nó không liên quan đến việc nghe; nếu không nghe, thì không thể biết được tướng của Thanh Trần Ngược lại, nếu Nhĩ Thức phát sinh từ Thanh Trần, thì việc nghe phải nhận biết được Nhĩ Thức; nếu không, thì không thể coi đó là giới Nếu nghe được, thì Nhĩ Thức cũng giống như Thanh Trần, và nếu Nhĩ Thức là đối tượng được nghe, thì ai sẽ nhận biết được Nhĩ Thức? Nếu không có sự nhận biết, thì Nhĩ Thức cũng chỉ như cỏ cây Vậy, Thanh Trần và việc nghe có thực sự lẫn lộn và tạo thành giới ở giữa hay không? Nếu giới ở giữa không tồn tại, thì từ đâu mà có tướng trong và ngoài?

Nhĩ Căn, Thanh Trần và Nhĩ Thức Giới tương tác với nhau, tạo ra sự nhận thức âm thanh Ba yếu tố này không phải là bản chất của nhân duyên hay bản chất tự nhiên.

3.3.3 Tỷ Căn, Hương Trần, Tỷ Thức Giới Vốn Vô Sanh

Tỷ Căn và Hương Trần kết hợp tạo ra Tỷ Thức, vậy câu hỏi đặt ra là: Tỷ Thức này xuất phát từ Tỷ Căn, lấy Tỷ Căn làm giới hay từ Hương Trần, lấy Hương Trần làm giới?

- A Nan! Nếu từ Tỷ Căn ra, thì trong tâm Ngươi lấy gì làm tỷ căn? Lấy cái mũi bằng thịt hay lấy tánh ngửi biết?

Nếu lấy cái mũi bằng thịt thì chất thịt thuộc thân căn, mà thân biết tức là xúc giác Gọi là thân thì không phải tỷ căn; còn gọi là xúc giác tức là ngoại trần Vậy tỷ căn không có tên gọi, thì làm sao có thể lập giới?

Nếu xem tánh ngửi là Tỷ Căn, thì trong tâm bạn, cái gì là cái có khả năng ngửi? Nếu dựa vào lỗ mũi bằng thịt, thì cái biết của thân thể chỉ là xúc trần, không phải Tỷ Căn Nếu lấy hư không làm tánh ngửi, thì hư không tự biết, trong khi thân thể không có khả năng biết, dẫn đến việc bạn không còn hiện hữu.

- Nếu lấy hương trần làm tánh ngửi biết, thì cái biết thuộc về hương trần, có liên quan gì đến Ngươi?

Nếu mùi thơm và thối không xuất phát từ tỷ căn, thì khi ngửi, Ngươi tự xem mùi nào là thơm hay thối Nếu thối không thể thơm và thơm không thể thối, thì Ngươi không thể có hai tỷ căn Khi hỏi đạo, nếu chỉ có một tỷ căn, thì mùi thơm và thối không thể tồn tại riêng biệt Nếu cả hai đều không có, thì giới từ đâu mà lập?

THẤT ĐẠI

3.4.1 Tánh Địa Đại Vốn Vô Sanh

Tánh ĐỊA được hiểu là đại địa với hai khía cạnh thô và tế, trong đó tế là vi trần và cực vi là lân hư trần, thể hiện sắc tướng nhỏ nhất Nếu tiếp tục phân tách, chúng ta sẽ đạt đến tánh hư không.

Nếu cái lân hư trần tách thành hư không, thì hư không cũng có thể sinh ra sắc tướng Bạn nên xem xét rằng, để hình thành lân hư trần, cần bao nhiêu hư không hợp lại? Liệu có thể có lân hư trần từ chính nó? Một khi lân hư trần đã tách ra thành hư không, thì cần bao nhiêu sắc tướng để tạo thành hư không? Khi sắc hợp lại, nó không phải là hư không; còn khi không hợp lại, hư không cũng không phải là sắc Sắc có thể tách ra, nhưng hư không thì không thể hợp lại.

Trong Như Lai Tạng, tánh Sắc chơn Không và tánh Không chơn Sắc đều chỉ ra rằng bản chất của sự vật không thật sự tồn tại như chúng ta nghĩ Tự tánh vốn thanh tịnh, bao trùm khắp mười phương pháp giới, nhưng do mức độ hiểu biết của tâm chúng sanh, nghiệp được tạo ra và từ đó hình thành các cảnh giới hiện hữu Con người thường không nhận thức được rằng những hiện tượng này chỉ là giấc mơ và bị lầm tưởng là nhân duyên tự nhiên, điều này xuất phát từ tâm thức phân biệt và suy lường Tất cả lời nói đều không thể diễn đạt ý nghĩa thật sự.

3.4.2 Tánh Hỏa Đại Vốn Vô Sanh

Tánh HỎA không có tự thể, mà chỉ phát sinh nhờ vào các trợ duyên Ví dụ, khi các nhà nấu cơm, họ sử dụng tấm kiếng để tập trung ánh sáng mặt trời nhằm tạo ra lửa.

Hòa hợp không có nghĩa là mất đi bản sắc cá nhân; giống như Ta, Ngươi và 1250 vị Tỳ Kheo cùng hợp thành một cộng đồng, nhưng mỗi người vẫn giữ thân phận, tên gọi và dòng dõi riêng, ví dụ như Xá Lợi Phất thuộc dòng Bà.

La Môn, Ưu Lâu Tần Loa thuộc dòng Ca Diếp Ba, cho đến Ngươi thì thuộc dòng họ Cù Đàm

Nếu ngọn lửa này xuất phát từ sự hòa hợp, thì khi người ta sử dụng kiếng để lấy lửa từ ánh sáng mặt trời, liệu ngọn lửa đó đến từ kiếng, từ bùi nhùi hay từ mặt trời?

Nếu lửa từ mặt trời có thể đốt cháy bùi nhùi trong tay người, thì tất cả các rừng cây dưới ánh sáng mặt trời cũng phải bị thiêu rụi Nếu ánh sáng từ kính có thể gây cháy, tại sao kính lại không bị chảy? Bàn tay cầm kính không hề nóng, vậy làm sao kính có thể tan chảy? Nếu bùi nhùi có thể cháy, thì không cần ánh sáng mặt trời và kính phải tiếp xúc để tạo ra lửa.

Khi xem xét kỹ lưỡng, ta nhận thấy rằng gương được tạo ra từ bàn tay con người, mặt trời thì ở trên cao, còn bùi nhùi lại xuất phát từ mặt đất Vậy thì lửa từ đâu mà xuất hiện tại đây? Mặt trời và gương không có sự liên kết nào, liệu có thể nào lửa lại tự sinh ra mà không có nguyên nhân?

Trong Như Lai Tạng, tánh Hỏa chơn không và tánh không chơn Hỏa thể hiện sự thanh tịnh vốn có, lan tỏa khắp mười phương pháp giới Tùy thuộc vào mức độ hiểu biết của tâm chúng sanh, nghiệp được tạo ra và từ đó hình thành các cảnh giới hiện hữu A Nan, người thế gian cầm kiếng sẽ thấy lửa bốc lên; nếu mọi người đều cầm kiếng, lửa sẽ cháy khắp nơi Thực tế không có xứ sở cố định, chỉ tùy thuộc vào nghiệp thức của chúng sanh Tuy nhiên, con người thường mê lầm cho rằng tánh nhân duyên và tự nhiên là do tâm thức phân biệt, mà không nhận ra rằng lời nói thường không phản ánh nghĩa thật.

3.4.3 Tánh Thủy Đại Vốn Vô Sanh

Nước trong bài viết được mô tả là không ổn định, luôn chảy và biến đổi Tại thành Thất La Phiệt, các nhân vật như Ca Tỳ La và Chước Ca La cùng với các đại huyền thuật gia Bát Đầu Ma Ha Tát Đa thường cầu nguyện Thái Âm Tinh để hòa trộn các loại thuốc huyễn thuật Họ thực hiện nghi lễ này vào ban đêm dưới ánh trăng, cầm hạt châu và hứng nước từ ánh sáng của mặt trăng Điều này đặt ra câu hỏi về nguồn gốc của nước: liệu nó xuất phát từ hạt châu, từ hư không hay từ mặt trăng?

Nếu ánh trăng từ mặt trăng chiếu xuống có thể làm cho hạt châu chảy nước, thì lẽ ra những rừng cây cũng phải chảy nước khi ánh trăng chiếu qua Nếu nước không chảy từ rừng cây, điều đó chứng tỏ nước không thể xuất phát từ mặt trăng Nếu nước từ hạt châu, thì hạt châu phải luôn chảy nước, không cần chờ ánh trăng giữa đêm Nếu nước từ hư không, thì hư không vô tận và nước cũng vậy, dẫn đến việc mọi loài sinh vật đều bị chìm ngập, điều này không thể giải thích sự tồn tại của các loài dưới nước, trên bờ và trên không.

Mặt trăng và hạt châu tuy cách xa nhau nhưng lại có sự liên kết kỳ diệu qua hình ảnh mâm đựng hạt châu hứng nước Điều này đặt ra câu hỏi về nguồn gốc của nước: từ đâu mà nước chảy đến đây nếu không có sự hòa hợp giữa các yếu tố? Sự tương phản giữa mặt trăng và hạt châu gợi mở những suy nghĩ sâu sắc về sự tồn tại và nguồn cội của tự nhiên.

Trong Như Lai Tạng, tánh Thủy chơn không và tánh không chơn Thủy thể hiện sự thanh tịnh tự nhiên, bao trùm khắp mười phương pháp giới Sự hiểu biết của tâm chúng sanh tạo ra nghiệp, từ đó hình thành các cảnh giới hiện hữu Khi một nơi cầm hạt châu, nơi đó sẽ chảy nước; tương tự, khắp pháp giới cũng như vậy Tánh Thủy hiện diện khắp thế gian, không bị giới hạn bởi không gian, chỉ theo nghiệp thức của chúng sanh mà biến hiện Tuy nhiên, con người thường không nhận thức được điều này, mà lại lầm tưởng rằng đó là tánh nhân duyên và tự nhiên, tất cả đều do tâm thức phân biệt và suy lường Vì vậy, mọi lời nói đều không phải là nghĩa thật.

3.4.4 Tánh Phong Đại Vốn Vô Sanh

Tánh PHONG không có bản thể cố định, luôn luôn vận động và thay đổi Khi bạn ở gần người khác và chạm vào áo Tăng Già, sẽ có một luồng gió nhẹ thoảng qua mặt họ Vậy, luồng gió này xuất phát từ đâu: từ chiếc áo Cà Sa, từ hư không hay từ chính người bên cạnh?

Nếu gió từ chéo áo Cà Sa ra, thì lẽ ra Ngươi đã mặc cả gió, và cái áo phải tung bay ra khỏi thân Ngươi Nay Ta rũ áo trong Hội này, Ngươi hãy xem cái áo của Ta, gió núp ở đâu? Chẳng lẽ trong áo lại có chỗ chứa gió sao?

KINH THỦ LĂNG NGHIÊM - QUYỂN TÁM

KINH THỦ LĂNG NGHIÊM - QUYỂN CHÍN

Ngày đăng: 28/12/2021, 10:14

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

w