Bệnh trùng mỏ neo
Cá mắc bệnh thường biểu hiện kém ăn, gầy yếu, và có dấu hiệu viêm, xuất huyết xung quanh vị trí trùng bám Sự hiện diện của trùng mỏ neo tạo điều kiện thuận lợi cho vi khuẩn xâm nhập và phát triển, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của cá.
Bệnh rận cá
Trùng ký sinh bám trên cá và hút máu cá đồng thời phá huỷ da, làm viêm loét tạo điều kiện cho các sinh vật khác tấn công.
Bệnh nấm thuỷ mi
Trên bề mặt da cá, có thể quan sát thấy những vùng trắng xám với các sợi nấm nhỏ giống như bông, mềm mại và tua tủa Nhiệt độ nước lý tưởng từ 18-25 độ C tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của nấm (Chu Văn Công, 2006).
1.2 Tình hình nghiên cứu cá Chình ở Việt Nam
1.2.1 Tình hình nuôi cá Chình
Cá Chình (Anguillidae) là một trong những đối tượng kinh tế tiềm năng tại Việt Nam, với giá trị thương phẩm cao từ 200.000 - 300.000 đồng/kg, ít bệnh và tỷ lệ hao hụt thấp Từ cuối năm 2006 đến đầu năm 2007, hàng trăm nghìn cá Chình giống đã được thả nuôi tại các vùng nuôi tôm nước mặn, lợ và nước ngọt ở Đồng Bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) Quy mô nuôi cá Chình rất đa dạng, từ vài chục đến vài nghìn con tùy thuộc vào khả năng đầu tư của từng hộ dân Phong trào nuôi cá Chình nước mặn và nước lợ đang diễn ra sôi động, đặc biệt tại các huyện như Thới Bình, Đầm Dơi, U Minh và thành phố Cà Mau, cũng như một số huyện ở Bạc Liêu Trong khi đó, cá Chình nước ngọt cũng phát triển mạnh mẽ trong khu vực ĐBSCL với quy mô nuôi gia đình Tuy nhiên, giá cá giống vẫn còn cao, chủ yếu được nhập từ miền Trung để cung cấp cho các tỉnh Đồng Bằng Sông Cửu Long.
Nuôi cá Chình đang phát triển mạnh mẽ ở các tỉnh miền Trung và tiếp tục mở rộng tại ĐBSCL, nhưng nguồn giống chủ yếu vẫn phụ thuộc vào việc khai thác tự nhiên Ngư dân Việt Nam sử dụng nhiều phương pháp khác nhau để đánh bắt cá Chình, như móc câu và kích điện ở thượng nguồn, trong khi ở hạ lưu, họ sử dụng các dụng cụ như thả chà và nò, tùy thuộc vào điều kiện địa phương Tuy nhiên, việc khai thác bằng móc câu và kích điện có thể làm cá bị bệnh và chết trong quá trình vận chuyển, ảnh hưởng đến tỷ lệ sống sót khi đưa vào nuôi thương phẩm.
Vào những năm 2000-2001, việc điều tra nguồn lợi cá Chình tại các tỉnh miền Trung, bao gồm Thừa Thiên Huế, Bình Định và Phú Yên, đã thu hút sự chú ý Theo nghiên cứu của Trần Thị Hồng Hoa và Nguyễn Hữu Phụng (2003), đã xác định được ba loài cá Chình thuộc giống Anguilla: A marmorata, A bicolor pacifica và A nebulosa Trong số đó, cá Chình Bông A marmorata có số lượng nhiều và dễ gặp, trong khi cá Chình Phi A nebulosa lại rất hiếm.
Nghiên cứu của Hoàng Đức Đạt và cộng sự (2006) chỉ ra sự khác biệt trong thành phần loài cá Chình giống Anguilla so với nghiên cứu trước đó của Trần Thị Hồng Hoa và Nguyễn Hữu Phụng (2003) Cụ thể, thành phần loài được xác định bao gồm cá Chình Bông A marmorata Quoy và Gaimard, 1824 và cá Chình Mun A bicorlo bicorlo.
McClelland, 1844 và cá Chình Nhọn A malgumora Kaup, 1856.
Cá Chình (Anguilla) ở Việt Nam chủ yếu phân bố tại các vùng ven biển, cửa sông, và sông suối nước ngọt, trải dài từ Hà Tĩnh đến Bình Thuận, Bà Rịa Vũng Tàu, Tây Nguyên, và đảo Phú Quốc Số lượng cá Chình tập trung nhiều nhất ở các tỉnh từ Thừa Thiên Huế đến Phú Yên, bao gồm các loài cá Chình Hoa (Bông), cá Chình Mun, và cá Chình Nhọn.
1.2.5 Một số nghiên cứu nuôi cá Chình trong nước
Theo nghiên cứu của Nguyễn Phi Nam và Lê Đức Ngoan (2003), việc thử nghiệm các mô hình nuôi cá Chình Bông với mật độ và loại thức ăn khác nhau đã cho thấy tốc độ tăng trưởng của cá tỷ lệ thuận với hàm lượng protein trong thức ăn Cụ thể, sau 40 ngày nuôi, cá được cho ăn tôm cá tươi đạt tăng trọng cao nhất (26,7g/con), tiếp theo là thức ăn tự chế biến (22g/con) và thức ăn nuôi tôm (14,6g/con) Ngoài ra, khi cho cá ăn với ba mức độ protein khác nhau (35%, 40%, 45%), cá nuôi với protein 35% có độ tăng trọng thấp nhất (10g/con), trong khi cá nuôi với protein 45% đạt tăng trọng cao nhất (44,6g/con).
Nghiên cứu của Chu Văn Công (2005; 2006) đã chỉ ra quy trình kỹ thuật nuôi thương phẩm cá Chình (Anguilla marmorata) tại miền Trung Việt Nam Cụ thể, thí nghiệm nuôi cá Chình trong ao đất với khối lượng ban đầu 60-65g/con và sử dụng ba loại thức ăn: thức ăn tươi, thức ăn chế biến và thức ăn công nghiệp Sau 6 tháng nuôi, cá đạt khối lượng lần lượt là 155,79g/con, 185,3g/con và 92,67g/con, với tỷ lệ sống dao động từ 44,33% đến 63,33% (Chu Văn Công, Nguyễn Hữu Đức 2005).
1.3 Điều kiện tự nhiên, khí hậu, thủy văn
Khí hậu Cà Mau có hai mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11 và mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau Lượng mưa trung bình hàng năm đạt 2.360mm, với dao động từ 1.500-2.300mm và độ ẩm trung bình là 85,6% Nhiệt độ trung bình là 26,5°C, trong đó tháng 4 có nhiệt độ cao nhất khoảng 27,6°C và tháng 1 có nhiệt độ thấp nhất khoảng 25°C Biên độ nhiệt độ trung bình trong năm chỉ là 2,7°C, điều này có ảnh hưởng lớn đến sản xuất, đặc biệt trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản.
Tỉnh Cà Mau, với ba mặt giáp biển, chịu ảnh hưởng của hai chế độ triều khác nhau: bán nhật triều không đều ở biển Đông và nhật triều không điều ở biển Tây Sự tương tác giữa hai chế độ triều này tạo ra nhiều vùng giáp nước trên các sông rạch, thường lệch về phía biển Tây Trong mùa mưa, hiện tượng ngập úng và ngọt hoá diễn ra phổ biến, trong khi vào mùa khô, tình trạng mặn hóa và xâm nhập mặn lại trở nên rất phổ biến.
1.3.3 Đất, nguồn nước trong khu vực triển khai dự án
Chất đất tại khu vực dự án là đất sét thịt với độ kết dính cao và khả năng giữ nước tốt Nguồn nước sử dụng được bơm trực tiếp từ hai ao trong Công Viên, bao gồm ao cá gần khu di tích nhà sàn Bác Hồ và đảo Hòn Khoai, đảm bảo không nhiễm mặn và không bị ảnh hưởng bởi nước thải sinh hoạt, đáp ứng đầy đủ nhu cầu trong suốt quá trình triển khai dự án.
Tại khu cấy mô thuộc Trung tâm Thông tin và Ứng dụng Khoa học Công nghệ Cà Mau, các yếu tố môi trường nước được ghi nhận với oxy hòa tan đạt 4,9mg/l, pH là 7,6, độ mặn 0,7‰ và nhiệt độ 28 oC.
- Tạo con giống có chất lượng tốt, thích nghi với điều kiện môi trường tại địa phương.
- Đề xuất biện pháp kỹ thuật ương cá chình phù hợp với điều kiện môi trường tại Cà Mau để chuyển giao cho nông dân.
- Nghiên cứu sự thích nghi của cá Chình trong điều kiện ương trong ao lót bạt và ương trong bể composite
Nghiên cứu so sánh hai nghiệm thức thức ăn cho cá, trong đó nghiệm thức 1 sử dụng cá tạp và nghiệm thức 2 sử dụng trùn quế, nhằm đánh giá tỷ lệ sống và tốc độ tăng trưởng của cá trong suốt quá trình ương.
- Hoàn thiện biện pháp kỹ thuật ương cá Chình Bông kích cỡ 10-15gr/con lên 50-100gr/con
2.3.1 Địa điểm, đối tượng, thời gian nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Cá Chình Bông (Anguilla marmorata) kích cở trung bình 10-15gr/con
- Địa điểm nghiên cứu: Nhà cấy mô, khu công viên văn hóa 19/5, đường Ngô Quyền, phường 1, TP.Cà Mau
- Thời gian thực hiện: 24 tháng từ tháng 06/2008 đến tháng 06/2010
- Ao đất: 04 ao có diện tích 25m 2 , ao hình vuông (5x5m), thể tích 37,5m 3 /ao (5x5x1.5m)
- Bể composite: 04 bể có thể tích 10m 3 /bể, bể hình tròn, đường kính miệng bể 3,05m, đáy bể 2,85m, chiều cao1,4m
- Test pH, độ kềm, độ mặn
- Tổng diện tích ao thực hiện đề tài 140m 2 Trong đó, diện tích ao ương là 100m 2 , gồm 4 ao đều nhau và ao lắng 40m 2
- Hình dạng ao: ao hình vuông, góc ao bo tròn, lót bạt Tỷ lệ chiều dài, chiều rộng và chiều sâu lần lượt là: Ao lớn (5 x 5 x 1,5m) x 4 ao = 150 m 3 ; ao lắng (20 x 2 x 1,5m) = 60m 3
Độ sâu mực nước trong ao dao động từ 0,8 đến 1,0 mét Để đảm bảo an toàn cho cá, hệ thống ống xả tràn được lắp đặt ở độ cao khoảng 1,2 mét từ đáy ao, nhằm xử lý tình huống khi mưa lớn làm mực nước dâng cao, tránh nguy cơ cá trườn ra ngoài.
Bờ ao có chiều rộng 2m và cao hơn mực nước tối đa 0,3m, được đầm nén chắc chắn và bằng phẳng để ngăn chặn rò rỉ nước Việc loại bỏ các vật sắc nhọn giúp bảo vệ bạt trải ao, hạn chế thất thoát nước trong quá trình nuôi cá Xung quanh ao được rào lưới mành nhằm ngăn chặn kẻ thù từ bên ngoài và giữ cho cá không bị trôi ra ngoài khi có mưa hoặc nước ao dâng cao.
Bể composite: 4 bể x 10 m 3 /bể = 40m 3 Đường kính miệng bể 3,05m, đáy bể 2,85m, chiều cao 1,4m.
Xung quanh đáy ao ương và bể composite, hệ thống thổi khí được lắp đặt để tạo ra dòng chảy nhẹ, với khoảng cách giữa hai ống là 2m Đầu ống được hướng về một phía, nhằm tạo ra dòng chảy xoắn ốc hiệu quả.
2.3.4 Sơ đồ khối nội dung triển khai nghiên cứu
Hình 2.1 Sơ đồ khối nội dung thực hiện dự án
Thí nghiệm được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên với 2 lần lặp lại
2.3.5.1 Nghiệm thức thức ăn trùn quế và cá phi đối với ao đất lót bạt (gọi tắt là ao) và bể composite (gọi tắt là bể)
Thí nghiệm cho ăn thức ăn trùn quế và cá phi đã được thực hiện trong 04 ao và 04 bể, mỗi ao có diện tích 25m² và mỗi bể có thể tích 10m³.
+ Thức ăn trùn quế: sử dụng 02 ao và 02 bể
+ Thức ăn cá phi: sử dụng 02 ao và 02 bể
- Cả 04 ao và 04 bể có đặt hệ thống thổi khí tạo dòng chảy 24/24
- Đặt giá thể tạo nơi trú ẩn cho cá
Ảnh hưởng của ao ương và thức ăn đến sinh trưởng và tỷ lệ sống của cá Chình Bông trong giai đoạn từ 10-15 gram lên 50-100 gram là rất quan trọng Thức ăn có chất lượng tốt sẽ thúc đẩy sự phát triển và tăng cường sức đề kháng của cá, trong khi điều kiện ao ương hợp lý sẽ tạo môi trường sống thuận lợi, giúp cá sinh trưởng tốt hơn Việc tối ưu hóa cả hai yếu tố này sẽ góp phần nâng cao hiệu quả nuôi trồng cá Chình Bông.
Trùn quế Cá phi Ao lót bạt Bể composite
Xác định tốc độ tăng trưởng, tỷ lệ sống của cá Chình Bông Đánh giá và kết luận
- Cỡ giống: khối lượng trung bình 12,6g/con
2.3.5.2 Nghiệm thức ao đất lót bạt và bể composite sử dụng thức ăn trùn quế và cá phi
- Thử nghiệm ao đất lót bạt và bể composite được bố trí ương nuôi trong
04 ao và 04 bể với diện tích 25m 2 /ao và thể tích 10m 3 /bể
- Cả 4 bể có đặt hệ thống thổi khí tạo dòng chảy 24/24
- Đặt giá thể tạo nơi trú ẩn cho cá
- Cỡ giống: khối lượng trung bình 12,6g/con
- Xử lý nước, gây màu nước, đặt giá thể cho cá trú ẩn, tắm cho cá trước khi thả giống
- Thay nước, xi phong định kỳ một tuần/lần, mỗi lần thay nước 10-30% thể tích
- Khẩu phần ăn: biến động theo trọng lượng thân từ 15-30% trọng lượng thân
- Cân khối lượng: 1 tháng/lần
- Đo các yếu tố môi trường tuần/lần: pH, nhiệt độ; độ trong, độ kềm
2.3.6 Phương pháp xác định các yếu tố môi trường
- Đo pH, Đo nhiệt độ, Đo độ mặn bằng máy TOA A22
- Đo ánh sáng bằng đĩa sechi
- Thời gian đo: 7 giờ sáng, 2 giờ chiều
2.3.7 Phương pháp xử lý nước, chọn giống và chuẩn bị thức ăn
Nước được cấp vào ao và bể ương cần được xử lý bằng hóa chất diệt khuẩn sau 2-3 ngày Sau khi hoàn tất quá trình diệt khuẩn, tiếp tục gây màu nước bằng phân vô cơ trong khoảng thời gian 3-5 ngày.
Cá giống có nguồn gốc từ các tỉnh miền trung (Phú Yên, Bình Định), được đánh bắt ngoài tự nhiên
Cá giống được vận chuyển bằng phương pháp kín và hạ nhiệt độ để đảm bảo chất lượng Trong quá trình vận chuyển từ Miền Trung đến TP Hồ Chí Minh, cá giống được thay nước và bổ sung oxy, sau đó tiếp tục được đưa về Cà Mau.
Cá giống sau khi đưa về thả cá vào bể composite (1,5m 3 ) có thổi khí oxy khoảng 1h nhằm nâng nhiệt độ nước và hồi phục sức khỏe
Để thuần nước cho cá, bạn cần sử dụng ống nhựa nhỏ để lấy nước từ ao hoặc bể ương và cho vào bể chứa cá, giúp cá dần thích ứng với môi trường nước mới Trong quá trình thuần nước, việc bổ sung Vitamin C vào bể sẽ hỗ trợ cá nhanh hồi phục và chống lại tình trạng sốc.
Để tắm cho cá, hãy sử dụng Virkon A với liều lượng 5ppm và thời gian tắm khoảng 20 phút Trước khi thả cá, cần cân sát định khối lượng và đếm số lượng cá Trong suốt quá trình tắm, hãy quan sát và loại bỏ những con cá yếu không đảm bảo chất lượng.
Trong cỏc ao, bể ương cú đặt cỏc ống nhựa PVC (ỉ 90) tạo nơi trỳ ẩn cho cá
* Cách xử lý thức ăn trùn quế
- Thức ăn là Trùn quế: sử dụng Trùn quế được nuôi tại Trung tâm làm thức ăn cho cá Chình
Trùn quế sau khi thu hoạch cần được lưu giữ một ngày trước khi chế biến Sau đó, rửa sạch và băm trùn quế thành miếng vừa cỡ miệng cá, để ráo nước trong khoảng 15-20 phút Tiếp theo, trộn trùn quế với thuốc, men tiêu hóa, vitamin và bột kết dính, để hỗn hợp ngấm trong 10-20 phút trước khi cho cá ăn.
* Cách xử lý thức ăn cá phi
Để chế biến thức ăn cho cá, bạn cần sử dụng cá tạp hoặc cá rô phi đã được đánh vẫy, cắt vây và xương sống, sau đó mổ bụng Tiếp theo, hãy xay nhuyễn hoặc băm nhỏ cá vừa cỡ miệng cá, để ráo nước trong khoảng 15-20 phút Sau đó, trộn hỗn hợp với thuốc, men tiêu hóa, vitamin và bột kết dính, để yên trong 10-20 phút trước khi cho cá ăn.
- Cho cá ăn bằng sàn ăn; mõi ao, bể bố trí 1 sàn
- Trước khi cho cá ăn khoảng 15 phút tắt máy thổi khí, sau khi ăn 1-2h mở máy thổi khí
2.3.8 Phương pháp xác định tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ sống.
15 Định kỳ 1 tháng thu mẫu kiểm tra ngẫu nhiên 1 lần, mẫu đại diện ở tất cả các ao, bể thí nghiệm để cân khối lượng.
Để xác định khối lượng của cá, bạn cần sử dụng một cân có khả năng đo lường lên đến 1 kg Hãy tiến hành cân các mẫu đại diện, bao gồm cả cá nhỏ nhất và lớn nhất, để có được kết quả chính xác về khối lượng tổng thể của cá.
2.2.7 Các công thức tính toán
• Tốc độ tăng trưởng tương đối về khối lượng của cá (WG – Weight Gain)
W1 , W2 : Khối lượng tương ứng của Cá lúc thả và khi thu hoạch
Psd: Khối lượng thức ăn được tiêu thụ; Ptt: Sự gia tăng khối lượng của vật nuôi
• Tỷ lệ sống (SR – Survival Rate)
Số cá thả ban đầu
* Phương pháp xử lý số liệu: Sử dụng phần mềm Microsoft Excel.
CHƯƠNG 3 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1 Ảnh hưởng của thức ăn, ao nuôi đến sinh trưởng và tỷ lệ sống
3.1.1 Sự biến động các yếu tố môi trường nước ao ương trong quá trình nghiên cứu
Quản lý hiệu quả các yếu tố môi trường là chìa khóa để đạt được thành công trong nuôi thủy sản Môi trường thuận lợi giúp sinh vật phát triển và tăng trưởng tối ưu, trong khi môi trường bất lợi dẫn đến sự phát triển kém Trong số các yếu tố môi trường, pH và nhiệt độ đóng vai trò quan trọng nhất trong quá trình nuôi trồng thủy sản.
Yếu tố pH là một yếu tố quan trọng trong môi trường nước, có tác động trực tiếp đến hoạt động của cá Mức pH quá cao hoặc quá thấp so với mức lý tưởng sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển và sinh hoạt của cá (Nguyễn Thái Tự 1982).
Nghiên cứu về việc ương cá Chình Bông (Aguilla marmorata) tại Cà Mau cho thấy khả năng tăng trưởng từ 10-15gr lên 50-100gr là khả thi Các kết quả cho thấy điều kiện ương nuôi ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của cá Việc tối ưu hóa thức ăn và môi trường nuôi sẽ giúp nâng cao hiệu quả ương cá Kết quả nghiên cứu góp phần quan trọng vào việc phát triển ngành nuôi trồng thủy sản tại địa phương.
Các yếu tố môi trường như pH, nhiệt độ và độ trong của nghiệm thức thức ăn cho trùn quế và cá phi có sự biến động, nhưng vẫn nằm trong ngưỡng thuận lợi cho sự tăng trưởng và phát triển của cá.
Các yếu tố môi trường như pH, nhiệt độ và độ trong của nước trong bể composite thường biến động nhiều hơn so với ao đất lót bạt Đặc biệt, độ trong của nước trong bể composite cao hơn, nhưng không phù hợp cho việc ương nuôi cá chình Do đó, việc ương cá chình trong ao đất lót bạt được xem là lựa chọn tối ưu hơn so với trong bể composite.
Nghiên cứu cho thấy, việc sử dụng thức ăn từ trùn quế giúp cá phi bắt mồi hiệu quả hơn trong giai đoạn cá mới thả Đồng thời, cá được cho ăn bằng trùn quế cũng có tốc độ tăng trưởng nhanh hơn so với cá được cho ăn bằng thức ăn truyền thống.
- Tỷ lệ sống thấp đạt 36,8%, không có sự khác biệt lớn giữa các nghiệm thức.
- Tốc độ tăng trưởng về khối lượng cá ương trong ao đất lót bạt nhanh hơn bể composite.
Cần thiết có một ao dự phòng để san cá, nhằm giảm thiểu tình trạng cạnh tranh thức ăn và hiện tượng cá ăn nhau Việc này sẽ giúp tăng tốc độ phát triển và cải thiện tỷ lệ sống của cá.
Nghiên cứu hiện tại chưa khai thác các mật độ ương và diện tích ao ương, do đó cần tiếp tục nghiên cứu để xác định ảnh hưởng của hai yếu tố này đến tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá chình giống Việc này sẽ góp phần chủ động nguồn giống cung cấp cho địa phương.