Việt Nam là một nước đang phát triển và bị ảnh hưởng lớn của HIVAIDS. Kể từ ca nhiễm HIV được phát hiện đầu tiên tại Việt Nam được phát hiện vào tháng 12 năm 1990. Tính đến 30102019 cả nước có trên 211.996 người nhiễm HIV, nam giới chiếm 75%, chủ yếu trong độ tuổi 1649. Đến tháng 9 năm 2019 cả nước có 438 phòng khám ngoại trú, 33 trại giam, 2 trại tạm giam và 652 trạm y tế cấp phát thuốc ARV cho tổng số 142.261 bệnh nhân trong đó có 137.705 là người lớn và 4.556 trẻ em. 3Từ trước đến nay, hoạt động phòng, chống HIVAIDS ở nước ta chủ yếu dựa vào nguồn viện trợ nước ngoài (chiếm 80%). 100% số tiền mua Methadone và 95% số tiền mua thuốc điều trị ARV là tiền viện trợ. Khi Việt Nam đang chuyển từ một nước thu nhập thấp sang một nước thu nhập trung bình, các Quỹ quốc tế cho chương trình HIVAIDS đang ngày càng cắt giảm. Điều này có thể dẫn đến một vấn đề rằng 94,1% trong số 67.057 bệnh nhân HIVAIDS được điều trị ARV miễn phí theo tài trợ có lẽ sẽ không còn được cung cấp dịch vụ miễn phí 3. Lúc này tất cả các hoạt động chăm sóc và điều trị bệnh nhân HIV đều phụ thuộc vào nguồn kinh phí từ Bảo hiểm Y tế. Tính từ trường hợp nhiễm HIV đầu tiên được phát hiện tại Nghệ An năm 1996, hiện tại 2121 huyện, thị, thành phố, 449480 (93%) xã, phường, thị trấn của tỉnh có người nhiễm HIVAIDS, đến 31122020 Nghệ An đã phát hiện được 10.154 trường hợp nhiễm HIVAIDS, trong đó số người còn sống là 5.899. Tổng số bệnh nhân đang được điều trị ARV tính đến 31122020 là 4.980 người điều trị tại 25 cơ sở chăm sóc và điều trị HIVAIDS. Trong đó có 2323 cơ sở cơ sở chăm sóc điều trị cơ sở y tế nhà nước đã thực hiện điều trị cho tất cả các bệnh nhân trên địa bàn tỉnh Nghệ An nói chung và các tỉnh thành trong cả nước12.Mục tiêu chính của điều trị ARV là nhằm đạt được ức chế virút bền vững và duy trì chức năng miễn dịch, qua đó giảm tỷ lệ tử vong cũng như gánh nặng bệnh tật. Để đạt được điều này, nhiều nghiên cứu đã cho thấy tuân thủ điều trị đóng một vai trò quan trọng. Mặc dù vậy tuân thủ điều trị không phải dễ dàng và phần lớn bệnh nhân gặp phải nhiều khó khăn đối với tuân thủ điều trị Mối quan hệ giữa tuân thủ điều trị và tải lượng virút đã được chứng minh trong một nghiên cứu cho thấy khi tỷ lệ tuân thủ điều trị giảm 10% thì tải lượng virút tăng lên gấp đôi. Các yếu tố có liên quan đến tuân thủ điều trị cũng như các biện pháp can thiệp nhằm tăng cường tuân thủ điều trị ARV cũng rất đa dạng và phong phú. Các nghiên cứu đã cho thấy các can thiệp tăng cường tuân thủ điều trị ARV có các kết quả rất khác nhau trong các điều kiện và hoàn cảnh khác nhau. Can thiệp có thể thành công trong một nơi, một hoàn cảnh cụ thể nhưng điều đó không đảm bảo cho sự thành công cho việc triển khai ở nơi khác. Các can thiệp cần được thực hiện đảm bảo sự phù hợp về mặt văn hóa, xã hội và hoàn cảnh thực tế tại địa điểm can thiệp. 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Địa bàn và đối tượng nghiên cứu
Trên địa bàn tỉnh Nghệ An tính đến thời điểm 30/9/2020 đã triển khai
Tại Việt Nam, hiện có 25 cơ sở chăm sóc và điều trị HIV/AIDS, với tổng số 4.676 bệnh nhân đang được quản lý và điều trị Tất cả 23 cơ sở y tế nhà nước đều tham gia vào công tác chăm sóc và điều trị cho bệnh nhân HIV/AIDS.
Phòng khám ngoại trú tại Bệnh viện đa khoa Thành phố Vinh chuyên điều trị HIV đã được thành lập từ năm 2016, tọa lạc tại Khoa Bệnh nhiệt đới Đội ngũ cán bộ tại đây được đào tạo bài bản, có nhiều kinh nghiệm lâm sàng và đã tham gia các khóa tập huấn chuyên sâu Đến thời điểm hiện tại, phòng khám đang điều trị cho 366 bệnh nhân.
2.1.2 Đối tượng nghiên cứu Đối tượng là bệnh nhân đã xét nghiệm khẳng định nhiễm HIV, đang điều trị ARV tại phòng khám ngoại trú bệnh viện đa khoa Thành phố Vinh từ tháng 1/2021 đến tháng 6 năm 2021
- Tiêu chuẩn lựa chọn đối tượng:
+ Điều trị ARV thời gian trong 06 tháng tính đến thời điểm điều tra + Tuổi từ 16 trở lên
+ Có mặt tại thời điểm nghiên cứu
+ Đồng ý tự nguyện tham gia vào nghiên cứu
+ Có các vấn đề về thần kinh nghiêm trọng, hoặc không đủ minh mẫn để tự trả lời các câu hỏi nghiên cứu
+ Bệnh nhân mù chữ không thể tham gia nghiên cứu
+ Từ chối tham gia nghiên cứu.
Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành từ tháng 01/2021 đến tháng 6/2021
Phòng khám ngoại trú ARV - Bệnh viện đa khoa Thành phố Vinh.
Thiết kế nghiên cứu
Trong nghiên cứu này, chúng tôi áp dụng phương pháp: Mô tả cắt ngang, áp dụng cỡ mẫu thuận tiện.
Cỡ mẫu và cách chọn mẫu
Trong suốt thời gian nghiên cứu, tất cả bệnh nhân đủ tiêu chuẩn chẩn đoán sẽ được lựa chọn để thu thập thông tin theo một mẫu thống nhất cho việc điều trị ngoại trú.
- Chọn mẫu toàn bộ: 366 bệnh nhân
Nghiên cứu được thực hiện trên nhóm bệnh nhân điều trị ngoại trú tại PK ARV ngoại trú, Bệnh viện Đa khoa thành phố Vinh trong khoảng thời gian từ tháng 01/2021 đến tháng 6/2021.
Các biến và nội dung trong nghiên cứu
* Nhóm biến số về đặc điểm chung của đối tượng
- Nghề nghiệp chính hiện nay
- Mức độ sử dụng rượu, ma túy
- Hiện trạng bệnh tật
* Nhóm biến số về kiến thức về điều trị ARV
- Hiểu biết về thuốc ARV
- Thời gian sử dụng thuốc
- Tác hại của việc không tuân thủ
* Nhóm biến số tuân thủ uống thuốc ARV
- Cách sử dụng thuốc ARV
- Lý do bỏ uống thuốc
- Các biện pháp nhắc nhở uống thuốc
- Tác dụng phụ của thuốc.
Công cụ và phương pháp thu thập thông tin
2.6.1 Công cụ thu thập thông tin
Công cụ thu thập thông tin là phiếu phỏng vấn trực tiếp người nhiễm HIV/AIDS đang điều trị ARV tại địa bàn nghiên cứu được chọn
Phiếu điều tra được thiết kế dựa trên mục tiêu nghiên cứu và căn cứ theo Thông tư số 27/2018/TT-BYT ngày 26/10/2018 của Bộ Y tế, nhằm hướng dẫn thực hiện khám bệnh và chữa bệnh bảo hiểm y tế cho người nhiễm HIV và những người sử dụng dịch vụ y tế liên quan đến HIV/AIDS.
Phiếu điều tra được thiết kế chi tiết, ngắn gọn và dễ hiểu, phù hợp với đối tượng nghiên cứu Quá trình xây dựng phiếu điều tra bao gồm tham khảo ý kiến từ các chuyên gia có kinh nghiệm trong lĩnh vực y học dự phòng và y tế công cộng, cùng với việc thảo luận nhóm và chỉnh sửa nhiều lần để đảm bảo tính hoàn chỉnh trước khi tiến hành điều tra chính thức.
2.6.2 Phương pháp thu thập thông tin
Nghiên cứu thu thập thông tin thông qua phỏng vấn trực tiếp các bệnh nhân nhiễm HIV/AIDS đang điều trị ARV tại phòng khám ngoại trú, sử dụng phiếu điều tra đã được chuẩn bị sẵn.
- Điều tra viên: Các điều tra viên là những cán bộ đang công tác tại khoa Bệnh nhiệt đới - Bệnh viện Đa khoa thành phố Vinh
Tổ chức tập huấn kỹ lưỡng cho các cán bộ nghiên cứu giúp điều tra viên hiểu rõ mục đích và thống nhất phương pháp chọn đối tượng cũng như thu thập thông tin Đồng thời, hướng dẫn điều tra viên xử lý tình huống trong quá trình điều tra và thu thập thông tin một cách chính xác, khách quan Điều tra viên sẽ phỏng vấn trực tiếp bệnh nhân đến điều trị tại phòng khám nội tổng hợp (PKNT) và ghi chép kết quả phỏng vấn theo phương pháp hỏi - ghi, với địa điểm phỏng vấn diễn ra tại phòng khám khi bệnh nhân nhận thuốc.
Lập kế hoạch nghiên cứu tổng thể và liên hệ với phòng khám ngoại trú đã chọn để phối hợp triển khai Phòng khám cần lập danh sách bệnh nhân đủ tiêu chuẩn và đồng ý tham gia nghiên cứu Cuối cùng, sắp xếp thời gian để điều tra viên gặp gỡ và phỏng vấn các bệnh nhân trong lần khám tiếp theo.
Xử lý và phân tích số liệu
Sau khi điều tra, số liệu được làm sạch thô và nhập vào máy tính bằng phần mềm EPI-DATA Tiếp theo, dữ liệu này được chuyển sang phần mềm SPSS 22.0 để thực hiện các phân tích thống kê y học.
- Kết quả thu được sau khi xử lý số liệu được trình bày dưới dạng các bảng, biểu đồ.
Sai số và cách khắc phục sai số của nghiên cứu
2.8.1 Sai số của nghiên cứu Đây là nghiên cứu mô tả cắt ngang có thu thập thông tin trong quá khứ nên có thể gặp phải sai số nhớ lại
Việc thu thập thông tin chủ yếu dựa vào bộ câu hỏi đã được thiết kế sẵn, do đó có thể xảy ra sai số do kỹ năng phỏng vấn của từng điều tra viên.
2.8.2 Cách khắc phục sai số
Phiếu điều tra được thiết kế ngắn gọn, dễ hiểu và đảm bảo tính bảo mật cho đối tượng nghiên cứu Địa điểm phỏng vấn được lựa chọn kín đáo, không gây ảnh hưởng đến người tham gia Nghiên cứu được thực hiện với sự đồng ý của từng đối tượng, họ được thông báo đầy đủ về mục đích và nội dung nghiên cứu, cũng như quyền rút lui bất cứ lúc nào Thông tin cá nhân không được thu thập, giúp đối tượng tự nguyện tham gia mà không lo lắng về tình trạng nhiễm HIV của mình Điều tra viên là những cán bộ có kinh nghiệm và hiểu biết sâu về lĩnh vực nghiên cứu, được tập huấn kỹ lưỡng về phương pháp và mục đích trước khi thu thập dữ liệu.
Trong quá trình thu thập dữ liệu, việc giám sát chặt chẽ là rất quan trọng Các phiếu điều tra ban đầu sẽ được nghiên cứu viên hỗ trợ và theo dõi cẩn thận Cuối mỗi ngày, các phiếu điều tra sẽ được kiểm tra, và nếu phát hiện thông tin chưa đầy đủ hoặc không hợp lý, điều tra viên sẽ được yêu cầu bổ sung thông tin cần thiết.
Vấn đề đạo đức của nghiên cứu
Việc tiến hành nghiên cứu có sự xin phép và được sự đồng ý của Ban Giám Đốc Bệnh viện Đa khoa thành phố Vinh
Nghiên cứu đảm bảo không có vấn đề nhạy cảm đối với người tham gia Trước khi tham gia, các đối tượng được thông báo rõ ràng về mục đích nghiên cứu và có quyền tự nguyện quyết định tham gia hay không.
Tất cả thông tin cá nhân sẽ được bảo mật hoàn toàn, và mọi dữ liệu thu thập chỉ được sử dụng cho mục đích nghiên cứu mà không phục vụ cho bất kỳ mục đích nào khác.
Chúng tôi đã thu thập được 366 bệnh nhân đủ tiêu chuẩn vào nghiên cứu và có các kết quả như sau:
3.1 Thông tin chung về đối tượng nghiên cứu
Biểu đồ 3.1.1: Phân bố đối tượng nghiên cứu theo giới
Kết quả biểu đồ 3.1 cho thấy đối tượng nghiên cứu nam cao hơn so với nữ, tỷ lệ đối tượng nam là 65,6%, tỷ lệ đối tượng nữ là 34,4%
Bảng 3.1.1 Tỷ lệ độ tuổi Độ tuổi Số lượng (n) Tỷ lệ (%)
Kết quả từ bảng 3.1 chỉ ra rằng độ tuổi trung bình của đối tượng nghiên cứu dao động từ 40 đến 42 tuổi, với độ tuổi nhỏ nhất là 16 và lớn nhất là 78 Đặc biệt, nhóm tuổi chủ yếu của đối tượng nghiên cứu tập trung trong khoảng 35-49 tuổi, chiếm tỷ lệ 60,4%.
Bảng 3.1.2 Trình độ học vấn
Phân loại Số lượng Tỷ lệ (%)
Trung cấp/Sơ cấp/Dạy nghề 63 17,2
Kết quả từ bảng 3.2 cho thấy phân bố trình độ học vấn của đối tượng khảo sát: 23,5% có trình độ từ cấp 2 trở xuống, 56% có trình độ từ cấp 3, 17,2% có trình độ sơ cấp, trung cấp hoặc dạy nghề, và chỉ 3,3% đạt trình độ cao đẳng hoặc đại học trở lên.
Bảng 3.1.3 Tình trạng hôn nhân
Phân loại Số lượng Tỷ lệ (%)
Góa vợ hoặc chồng 7 2 Đang có vợ hoặc chồng 245 67
Ly dị hoặc ly thân 37 10 Độc thân 77 21
Kết quả từ bảng 3.3 chỉ ra rằng, trong số các đối tượng khảo sát, những người đã có vợ hoặc chồng chiếm tỷ lệ cao nhất với 67% Trong khi đó, tỷ lệ người độc thân là 21%, người ly dị hoặc ly thân chiếm 10%, và tỷ lệ người góa vợ hoặc chồng thấp nhất, chỉ 2%.
Phân loại Số lượng Tỷ lệ (%)
Không có việc, thất nghiệp 6 1,6
Cán bộ viên chức Nhà nước 11 3
Nhóm nghề nghiệp của đối tượng khảo sát cho thấy 49,6% làm nghề tự do, 34,2% là công nhân, 1,6% không có việc làm hoặc thất nghiệp, và 1,4% là học sinh, sinh viên.
Bảng 3.1.5 Mức sống hộ gia đình
Thu nhập Số lượng Tỷ lệ (%)
Nhận xét: Ở Bảng này thì thu nhập của bệnh nhân chủ yếu ở mức
Khoảng 55,5% bệnh nhân có thu nhập từ 2.000.000 đến 4.000.000 đồng/tháng, trong khi đó, tỷ lệ bệnh nhân có thu nhập dưới 500.000 đồng/tháng là thấp nhất Ngoài ra, có khoảng 10% bệnh nhân không có thu nhập ổn định hoặc thu nhập thay đổi thất thường.
Bảng 3.1.6 Đi làm ăn xa
Nhận xét: trong bảng này tỷ lệ 87,7% bệnh nhân đi làm ăn trong tỉnh cũng khá cao Bệnh nhân đi làm ăn xa chiếm tỷ lệ 12,3%
Bảng 3.1.7 Đối tượng bảo hiểm y tế
Bảo hiểm y tế Số lượng Tỷ lệ (%)
Theo thống kê, tỷ lệ bệnh nhân sở hữu thẻ bảo hiểm y tế (BHYT) đạt mức cao 99,18% Chỉ có một số ít bệnh nhân mới ra trại đang trong quá trình chờ nhận thẻ BHYT.
Bảng 3.1.8 Tham gia các câu lạc bộ và nhóm đồng đẳng
Theo nhận xét, có đến 96,2% bệnh nhân không tham gia các nhóm đồng đẳng, trong khi chỉ 3,8% tham gia Nguyên nhân chủ yếu là do họ ngại tiếp xúc và không muốn tiết lộ thông tin cá nhân.
Bảng 3.1.9 Tỷ lệ bệnh nhân uống rượu, bia
Trong bảng số liệu, tỷ lệ người uống rượu đạt 64,2%, với tỷ lệ nam giới cao hơn đáng kể so với nữ giới Ngược lại, tỷ lệ người không uống rượu chỉ chiếm 35,8%, cho thấy sự chênh lệch rõ rệt.
Bảng 3.1.10 Mức độ sử dụng rượu, bia trong 1 tuần
Tỷ lệ nam giới uống rượu bia từ 1 lần đến trên 4 lần đạt 64,2%, cho thấy mức độ tiêu thụ khá cao Trong khi đó, tỷ lệ không sử dụng rượu bia chỉ ở mức 35,8%, chủ yếu là nữ giới và một số nam bệnh nhân không thể uống rượu.
Bảng 3.1.11 Mức độ sử dụng ma túy
Có, hiện tại vẫn đang sử dụng 17 4,7
Theo bảng thống kê, có 55,7% người tham gia chưa bao giờ sử dụng ma túy, trong khi 4,7% đang sử dụng ma túy ở mức thấp Đáng chú ý, 39,6% bệnh nhân đã tự cai nghiện thành công, và một số bệnh nhân khác đang sử dụng methadone đều đặn hàng ngày.
3.2 Kiến thức về điều trị ARV
Bảng 3.1.12 Sự hiểu biết về thuốc ARV
Là thuốc kháng virut HIV 366 100
Nhận xét: Ở bảng này tỷ lệ 100% cho thấy bệnh nhân rất hiểu biết là thuốc kháng virut HIV
Bảng 3.1.13 Sự hiểu biết về thời gian điều trị thuốc ARV
Số lượng Tỷ lệ (%) Điều trị một thời gian 0 0 Điều trị khi thấy hết triệu chứng 0 0 Điều trị khi thấy cơ thể khỏe lên 0 0 Điều trị suốt đời 366 100
Nhận xét: Bệnh nhân đang điều trị thuốc ARV hiểu thời gian điều trị thuốc ARV là suốt đời đạt tỷ lệ 100%
Bảng 3.1.14 Sự tuân thủ điều trị thuốc ARV
Uống đúng giờ/đúng khoảng cách 74 20,2
Uống đều đặn suốt đời 101 27,6
Nhận xét: Tỷ lệ người uống thuốc ARV phải uống đúng thuốc là
28,4% và uống thuốc đều đặn suốt đời là 27,6% Tỷ lệ 20,2% là uống đúng giờ/đúng khoảng cách, uống đúng liều lượng 23,8%
Bảng 3.1.15 Tác hại của việc không tuân thủ
Không ức chế được HIV 52 14,2
Bệnh tiếp tục phát triển nặng hơn 193 52,7
Gây ra sự kháng thuốc 105 28,7
Hạn chế cơ hội điều trị sau này 16 4,4
Việc không tuân thủ điều trị có thể dẫn đến tác hại nghiêm trọng, với tỷ lệ kháng thuốc lên đến 28,7% Hơn nữa, sự không tuân thủ này cũng làm giảm cơ hội điều trị trong tương lai, chỉ chiếm tỷ lệ 4,4%.
3.3 Tuân thủ uống thuốc ARV
Bảng 3.1.16 Số lần bệnh nhân uống thuốc
Nhận xét: Đa số bệnh nhân uống thuốc ngày 1 lần là chiếm tỷ lệ cao
96,7% Tỷ lệ 3,3% là bệnh nhân phải uống thuốc 2 lần, vì có thuốc phải uống ngày 2 viên
Bảng 3.1.17 Số lần bỏ không uống thuốc ARV
Nhận xét: Trong bảng này đa số bệnh nhân quên uống thuốc 1 lần chiếm tỷ lệ 52,5% Và tỷ lệ 5,7% là từ 3 lần trở lên
Bảng 3.1.18 Lý do bỏ uống thuốc
Bận nhiều việc 56 15,3 Đi làm không mang theo thuốc 67 18,3
Không có ai nhắc nhở 6 1,6
Muốn tránh tác dụng phụ của thuốc 0 0
Hết thuốc chưa kịp đi lấy 78 21,3
Cảm thấy mệt nên không uống 15 4,1
Trong bảng thống kê, bệnh nhân có nhiều lý do quên uống thuốc, trong đó lý do chiếm tỷ lệ cao nhất là 38% Các lý do khác bao gồm làm việc vào ban đêm, lái xe đường dài và tình trạng nghiện chích ma túy Tỷ lệ bệnh nhân quên uống thuốc do ngủ quên chỉ chiếm 1,4%.
Bảng 3.1.19 Các biện pháp để nhắc nhở uống thuốc
Tự nhớ, không dùng biện pháp nào 189 51,6 Đồng hồ báo thức 0 0% Đặt chuông điện thoại 133 36,4
Dựa vào chương trình Tivi / đài 0 0 Đánh dấu vào lịch 14 3,8
Nhờ người khác nhắc nhở 30 8,2
Nhận xét: Ở bảng này ta thấy tỷ lệ tự nhớ, không dùng biện pháp nào là cáo nhất chiếm 51, 6 Và tỷ lệ đánh dấu vào lịch là 3,8%
Bảng 3.1.20 Tác dụng phụ của thuốc
Đa số bệnh nhân, lên tới 88,3%, bày tỏ lo lắng về tác dụng phụ của thuốc, trong khi chỉ có 11,4% không có mối quan tâm này.
Bảng 3.1.21 Xử lý khi gặp tác dụng phụ
Không làm gì, để tự khỏi 0 0
Tự uống thuốc theo tài liệu hướng dẫn 0 0 Đi tư vấn bác sỹ 366 100
Bỏ thuốc, không uống nữa 0 0
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Thông tin chung về đối tượng nghiên cứu
Biểu đồ 3.1.1: Phân bố đối tượng nghiên cứu theo giới
Kết quả biểu đồ 3.1 cho thấy đối tượng nghiên cứu nam cao hơn so với nữ, tỷ lệ đối tượng nam là 65,6%, tỷ lệ đối tượng nữ là 34,4%
Bảng 3.1.1 Tỷ lệ độ tuổi Độ tuổi Số lượng (n) Tỷ lệ (%)
Kết quả từ bảng 3.1 chỉ ra rằng độ tuổi trung bình của đối tượng nghiên cứu dao động từ 40-42 tuổi, với độ tuổi nhỏ nhất là 16 và lớn nhất là 78 Đặc biệt, nhóm tuổi từ 35-49 chiếm ưu thế, với tỷ lệ lên đến 60,4%.
Bảng 3.1.2 Trình độ học vấn
Phân loại Số lượng Tỷ lệ (%)
Trung cấp/Sơ cấp/Dạy nghề 63 17,2
Kết quả từ bảng 3.2 chỉ ra rằng 23,5% đối tượng có trình độ học vấn từ cấp 2 trở xuống, trong khi 56% có trình độ từ cấp 3 Ngoài ra, 17,2% đối tượng có trình độ sơ cấp, trung cấp hoặc dạy nghề, và chỉ có 3,3% đối tượng đạt trình độ cao đẳng hoặc đại học trở lên.
Bảng 3.1.3 Tình trạng hôn nhân
Phân loại Số lượng Tỷ lệ (%)
Góa vợ hoặc chồng 7 2 Đang có vợ hoặc chồng 245 67
Ly dị hoặc ly thân 37 10 Độc thân 77 21
Kết quả từ bảng 3.3 chỉ ra rằng tỷ lệ người có vợ hoặc chồng chiếm ưu thế nhất với 67%, trong khi đó, tỷ lệ người độc thân là 21% Những người đã ly dị hoặc ly thân chiếm 10%, và tỷ lệ người góa vợ hoặc chồng thấp nhất, chỉ đạt 2%.
Phân loại Số lượng Tỷ lệ (%)
Không có việc, thất nghiệp 6 1,6
Cán bộ viên chức Nhà nước 11 3
Nhóm nghề nghiệp của đối tượng khảo sát chủ yếu là nghề tự do, chiếm 49,6%, tiếp theo là công nhân với 34,2% Tỷ lệ người không có việc làm và thất nghiệp là 1,6%, trong khi đó, học sinh và sinh viên chiếm 1,4%.
Bảng 3.1.5 Mức sống hộ gia đình
Thu nhập Số lượng Tỷ lệ (%)
Nhận xét: Ở Bảng này thì thu nhập của bệnh nhân chủ yếu ở mức
Khoảng 55,5% bệnh nhân có thu nhập từ 2.000.000 đến 4.000.000 đ/tháng, trong khi tỷ lệ bệnh nhân có thu nhập dưới 500.000 đ/tháng là thấp nhất Đối với 10% còn lại, hầu hết là những người không có thu nhập ổn định hoặc thu nhập không đều.
Bảng 3.1.6 Đi làm ăn xa
Nhận xét: trong bảng này tỷ lệ 87,7% bệnh nhân đi làm ăn trong tỉnh cũng khá cao Bệnh nhân đi làm ăn xa chiếm tỷ lệ 12,3%
Bảng 3.1.7 Đối tượng bảo hiểm y tế
Bảo hiểm y tế Số lượng Tỷ lệ (%)
Hầu hết bệnh nhân đều sở hữu thẻ bảo hiểm y tế (BHYT), với tỷ lệ lên tới 99,18% Chỉ có một số ít bệnh nhân mới ra trại đang trong quá trình chờ nhận thẻ BHYT.
Bảng 3.1.8 Tham gia các câu lạc bộ và nhóm đồng đẳng
Bệnh nhân không tham gia các nhóm đồng đẳng chiếm tỷ lệ cao lên đến 96,2%, trong khi chỉ có 3,8% không tham gia do ngại tiếp xúc và không muốn tiết lộ thông tin cá nhân.
Bảng 3.1.9 Tỷ lệ bệnh nhân uống rượu, bia
Trong bảng thống kê, tỷ lệ uống rượu đạt 64,2%, cho thấy sự chênh lệch lớn giữa nam và nữ, với nam giới có tỷ lệ cao hơn rõ rệt Ngược lại, tỷ lệ không uống rượu chỉ chiếm 35,8%, thấp hơn nhiều so với nhóm uống rượu.
Bảng 3.1.10 Mức độ sử dụng rượu, bia trong 1 tuần
Trong bảng khảo sát, tỷ lệ nam giới uống rượu bia từ 1 đến trên 4 lần chiếm 64,2%, cho thấy sự phổ biến cao trong nhóm này Ngược lại, tỷ lệ không sử dụng rượu bia là 35,8%, chủ yếu tập trung ở nữ giới và một số nam bệnh nhân không thể uống.
Bảng 3.1.11 Mức độ sử dụng ma túy
Có, hiện tại vẫn đang sử dụng 17 4,7
Theo bảng thống kê, có 55,7% người tham gia chưa bao giờ sử dụng ma túy, trong khi chỉ 4,7% đang sử dụng ma túy, tỷ lệ này rất thấp Đáng chú ý, 39,6% bệnh nhân đã tự cai nghiện thành công, và một số bệnh nhân khác đang sử dụng methadone đều đặn hàng ngày.
Kiến thức về điều trị ARV
Bảng 3.1.12 Sự hiểu biết về thuốc ARV
Là thuốc kháng virut HIV 366 100
Nhận xét: Ở bảng này tỷ lệ 100% cho thấy bệnh nhân rất hiểu biết là thuốc kháng virut HIV
Bảng 3.1.13 Sự hiểu biết về thời gian điều trị thuốc ARV
Số lượng Tỷ lệ (%) Điều trị một thời gian 0 0 Điều trị khi thấy hết triệu chứng 0 0 Điều trị khi thấy cơ thể khỏe lên 0 0 Điều trị suốt đời 366 100
Nhận xét: Bệnh nhân đang điều trị thuốc ARV hiểu thời gian điều trị thuốc ARV là suốt đời đạt tỷ lệ 100%
Bảng 3.1.14 Sự tuân thủ điều trị thuốc ARV
Uống đúng giờ/đúng khoảng cách 74 20,2
Uống đều đặn suốt đời 101 27,6
Nhận xét: Tỷ lệ người uống thuốc ARV phải uống đúng thuốc là
28,4% và uống thuốc đều đặn suốt đời là 27,6% Tỷ lệ 20,2% là uống đúng giờ/đúng khoảng cách, uống đúng liều lượng 23,8%
Bảng 3.1.15 Tác hại của việc không tuân thủ
Không ức chế được HIV 52 14,2
Bệnh tiếp tục phát triển nặng hơn 193 52,7
Gây ra sự kháng thuốc 105 28,7
Hạn chế cơ hội điều trị sau này 16 4,4
Việc không tuân thủ điều trị có thể dẫn đến tác hại nghiêm trọng, với tỷ lệ kháng thuốc lên tới 28,7% Điều này không chỉ ảnh hưởng đến hiệu quả điều trị hiện tại mà còn hạn chế cơ hội điều trị trong tương lai, với tỷ lệ chỉ đạt 4,4%.
Tuân thủ uống thuốc ARV
Bảng 3.1.16 Số lần bệnh nhân uống thuốc
Nhận xét: Đa số bệnh nhân uống thuốc ngày 1 lần là chiếm tỷ lệ cao
96,7% Tỷ lệ 3,3% là bệnh nhân phải uống thuốc 2 lần, vì có thuốc phải uống ngày 2 viên
Bảng 3.1.17 Số lần bỏ không uống thuốc ARV
Nhận xét: Trong bảng này đa số bệnh nhân quên uống thuốc 1 lần chiếm tỷ lệ 52,5% Và tỷ lệ 5,7% là từ 3 lần trở lên
Bảng 3.1.18 Lý do bỏ uống thuốc
Bận nhiều việc 56 15,3 Đi làm không mang theo thuốc 67 18,3
Không có ai nhắc nhở 6 1,6
Muốn tránh tác dụng phụ của thuốc 0 0
Hết thuốc chưa kịp đi lấy 78 21,3
Cảm thấy mệt nên không uống 15 4,1
Trong bảng khảo sát, bệnh nhân có nhiều lý do để quên uống thuốc, trong đó lý do chiếm tỷ lệ cao nhất là 38% Các lý do khác bao gồm làm việc về đêm, lái xe đường dài, và tình trạng nghiện chích ma túy Tỷ lệ bệnh nhân quên thuốc do ngủ quên chỉ chiếm 1,4%.
Bảng 3.1.19 Các biện pháp để nhắc nhở uống thuốc
Tự nhớ, không dùng biện pháp nào 189 51,6 Đồng hồ báo thức 0 0% Đặt chuông điện thoại 133 36,4
Dựa vào chương trình Tivi / đài 0 0 Đánh dấu vào lịch 14 3,8
Nhờ người khác nhắc nhở 30 8,2
Nhận xét: Ở bảng này ta thấy tỷ lệ tự nhớ, không dùng biện pháp nào là cáo nhất chiếm 51, 6 Và tỷ lệ đánh dấu vào lịch là 3,8%
Bảng 3.1.20 Tác dụng phụ của thuốc
Đa số bệnh nhân, chiếm 88,3%, bày tỏ lo lắng về tác dụng phụ của thuốc, trong khi chỉ có 11,4% không cảm thấy lo ngại về vấn đề này.
Bảng 3.1.21 Xử lý khi gặp tác dụng phụ
Không làm gì, để tự khỏi 0 0
Tự uống thuốc theo tài liệu hướng dẫn 0 0 Đi tư vấn bác sỹ 366 100
Bỏ thuốc, không uống nữa 0 0
Tỷ lệ bệnh nhân tìm đến bác sĩ để tư vấn đạt 100%, cho thấy sự lo lắng của họ về sức khỏe khi gặp phải bất kỳ vấn đề nào liên quan đến sức khỏe.
Hoạt động tư vấn / bổ trợ
Bảng 3.1.22 Thời gian chờ đợi nhận thuốc
Nhận xét: Ở bảng này thời gian chờ nhận thuốc chiếm tỷ lệ cao nhất
57,9%, thời gian chờ quá lâu chiếm tỷ lệ 6,8%
Bảng 3.1.23 Mức độ hài lòng về thái độ của cán bộ y tế
Nhận xét: Tỷ lệ rất hài lòng là 50,3% về cán bộ y tế cao, tỷ lệ bình thường 12,3% Mức độ không hài lòng và rất không hài lòng là không
Bảng 3.1.24 Mức độ hài lòng về nhận thông tin cán bộ y tế
Nhận xét: Ở bảng này tỷ lệ hài lòng 53,6% và rất hài lòng là 34,4%; tỷ lệ không hài lòng và rất không hài lòng tỷ lệ 0%
Bảng 3.1.25 Kiến nghị đề xuất để tuân thủ điều trị ARV
Tất cả 100% bệnh nhân trong bảng khảo sát đều mong muốn nhận được tư vấn toàn diện về các khía cạnh điều trị, bao gồm cách tuân thủ điều trị và phương pháp điều trị bệnh lâu dài.
BÀN LUẬN
Kiến thức về điều trị ARV
Nghiên cứu trên 366 bệnh nhân HIV/AIDS đang điều trị ARV cho thấy hầu hết bệnh nhân đều nhận thức rõ về tình trạng bệnh của mình Họ hiểu rằng cần phải sống chung với bệnh và tuân thủ việc sử dụng thuốc suốt đời, bởi việc bỏ thuốc có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe.
Việc trả lời đúng các câu hỏi kiểm tra kiến thức cho thấy bệnh nhân đã nhận được tư vấn và hướng dẫn đầy đủ về việc sử dụng thuốc Kết quả 100% bệnh nhân trả lời chính xác các câu hỏi liên quan đến kiến thức sử dụng ARV không chỉ khẳng định hiệu quả của quá trình truyền đạt thông tin mà còn cho thấy kiến thức đã được bệnh nhân ghi nhớ tốt.
Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỷ lệ nam giới chiếm 65,6%, cao hơn so với các nghiên cứu trước đây của Dương Văn Vịnh (53%) và Nguyễn Thị Mai Hương (53,7%) Sự khác biệt này có thể do tỷ lệ nghiện chích ở Nghệ An cao, với đa số người sử dụng ma túy là nam giới, điều này cũng khác với các nghiên cứu tại Ninh Bình và Đồng Tháp.
Tuổi trung bình của bệnh nhân đang điều trị ARV tại các PKNT BVĐK
TP Vinh có độ tuổi trung bình là 40,42, cao hơn so với bệnh nhân HIV/AIDS tại Ninh Bình (35,5 tuổi) và Đồng Tháp (35,7 tuổi) Nhóm tuổi từ 35-49 chiếm tỷ lệ 55,1% trong nghiên cứu Trong khi đó, nghiên cứu của Dương Văn Vịnh và Nguyễn Thị Mai Hương tại Đồng Tháp tập trung vào đối tượng từ 25-34 tuổi.
Theo nghiên cứu, có 41% đối tượng có trình độ học vấn từ trung học cơ sở trở xuống, trong khi tỷ lệ này ở nhóm bệnh nhân HIV/AIDS là 77,2% theo Dương Văn Vịnh [11] và Nguyễn.
Thị Mai Hương cho thấy kết quả nghiên cứu tại phòng khám ARV - BVĐK Thành phố Vinh, với tỷ lệ Ninh Bình đạt 76,7% và Đồng Tháp đạt 79,9% Điều này cho thấy rằng trình độ học vấn cao có thể dẫn đến kiến thức và thái độ tích cực hơn về tầm quan trọng của việc điều trị bằng thuốc ARV.
Nhóm nghề nghiệp của đối tượng khảo sát chủ yếu là công nhân, chiếm 34,2%, tiếp theo là nông dân với 4,10%, và nghề tự do với 49,7% Ngoài ra, có 1,64% đối tượng hiện đang thất nghiệp Sự khác biệt trong tỷ lệ lao động tự do so với các nghiên cứu trước đó của Dương Văn Vịnh (50,1%) và Nguyễn Thị Mai Hương (33,7%) có thể được giải thích bởi sự khác nhau về thời gian và địa bàn nghiên cứu.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ đối tượng đã có gia đình và sống vợ chồng đạt 66,9%, cao hơn so với nghiên cứu của Nguyễn Thị Mai Hương (56,0%) và Dương Văn Vịnh (42,8%) Yếu tố gia đình đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ bệnh nhân HIV duy trì tuân thủ điều trị ARV.
Hầu hết bệnh nhân, với tỷ lệ lên tới 99,2%, đã sở hữu thẻ bảo hiểm y tế (BHYT), trong khi một số ít bệnh nhân mới ra trại đang trong quá trình chờ đợi thẻ Chính sách hỗ trợ từ nhà nước về chi phí mua thẻ BHYT giúp bệnh nhân yên tâm hơn trong việc điều trị khi gặp phải vấn đề sức khỏe.
Nghiên cứu này cho thấy nhóm đối tượng nghiên cứu có những đặc điểm dịch tễ khác biệt so với các nghiên cứu trước về bệnh nhân HIV/AIDS Đặc biệt, tỷ lệ đối tượng đã lập gia đình và có trình độ trung học cơ sở trở lên cao hơn so với một số nghiên cứu khác Điều này có thể là nguyên nhân góp phần làm tăng tỷ lệ kiến thức và thái độ của bệnh nhân đang điều trị ARV tại tỉnh Nghệ An, giúp họ tuân thủ điều trị và chú trọng đến sức khỏe hơn.
Tuân thủ uống thuốc ARV
Trong khảo sát sau can thiệp về việc tuân thủ uống thuốc ARV, nghiên cứu cho thấy tỷ lệ bệnh nhân nhớ số lần uống thuốc đạt gần 96,7% Điều này cho thấy bệnh nhân đã có ý thức hơn về trách nhiệm của bản thân trong việc điều trị.
Việc quên uống thuốc là một vấn đề quan trọng, với 26,5% bệnh nhân không bỏ thuốc lần nào, trong khi 52,5% bệnh nhân quên uống thuốc ít nhất một lần Tình trạng quên thuốc từ hai lần trở lên có tỷ lệ thấp hơn Điều này có thể gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của bệnh nhân nếu tình trạng bỏ thuốc tiếp tục diễn ra và kéo dài.
Nguyên nhân bệnh nhân quên uống thuốc chủ yếu đến từ nhiều lý do khác nhau, trong đó 38% do quên, 18,3% không mang theo thuốc khi đi làm, và 21,3% hết thuốc chưa kịp lấy Đa số bệnh nhân là công nhân hoặc làm nghề tự do, nên khó có thể xin nghỉ để nhận thuốc, cộng với áp lực cuộc sống và bệnh tật Hơn nửa số bệnh nhân (51,6%) tự nhớ để uống thuốc, trong khi 36,4% sử dụng chuông điện thoại nhắc nhở Điều này cho thấy bệnh nhân đã nhận thức được tầm quan trọng của việc uống thuốc hàng ngày để cải thiện sức khỏe và ổn định công việc.
Bệnh nhân rất lo lắng về tác dụng phụ của thuốc, với tỷ lệ lên đến 88,3% Họ mong muốn có sức khỏe ổn định để làm việc, nhưng đồng thời cũng lo ngại về những tác dụng phụ có thể xảy ra Để giảm bớt lo lắng, bệnh nhân thường tìm đến bác sĩ để được tư vấn về thuốc và sức khỏe của chính mình Nghiên cứu cho thấy tác dụng phụ thường gặp, như tiêu chảy mạn tính, khiến bệnh nhân khó tuân thủ điều trị, bởi họ lo sợ rằng người khác sẽ phát hiện họ bị nhiễm HIV.
Nghiên cứu của Đỗ Lê Thuỳ tại Việt Nam chỉ ra mối liên quan giữa tuân thủ điều trị và tỷ lệ gặp tác dụng phụ của thuốc, dẫn đến việc bệnh nhân phải ngừng thuốc Tương tự, nghiên cứu của Vũ Công Thảo năm 2010 cho thấy tỷ lệ bệnh nhân gặp tác dụng phụ cao gấp 29,8 lần so với những bệnh nhân không gặp tác dụng phụ, ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc tuân thủ điều trị Thêm vào đó, nghiên cứu của Đỗ Mai Hoa và cộng sự năm 2013 trên 615 bệnh nhân nhiễm HIV cũng khẳng định rằng những bệnh nhân gặp tác dụng phụ có xu hướng tuân thủ điều trị kém hơn.
Hoạt động tư vấn, bổ trợ
Bệnh nhân khi đi khám thường mong muốn mọi thứ diễn ra nhanh chóng và thuận tiện, đặc biệt là trong quá trình nhận thuốc Thực tế cho thấy, có đến 57,9% bệnh nhân đã quen với thời gian chờ đợi khi nhận thuốc, cho thấy sự cần thiết cải thiện quy trình này để đáp ứng nhu cầu của người bệnh.
Tư vấn và hỗ trợ tuân thủ điều trị là yếu tố quan trọng trong điều trị ARV, giúp bệnh nhân và người tư vấn cùng tìm ra giải pháp hiệu quả để ức chế vi-rút, phòng tránh bệnh cơ hội và kéo dài tuổi thọ Bệnh nhân hiểu rõ thói quen của mình, trong khi bác sĩ và chuyên viên tư vấn có kiến thức chuyên môn Việc tư vấn không chỉ giúp ổn định tinh thần cho bệnh nhân, mà còn cung cấp kiến thức về bệnh, dịch vụ, lợi ích của việc điều trị ARV, và khái niệm K=K (Không phát hiện = Không lây truyền) Qua quá trình tư vấn, bệnh nhân dần cải thiện tinh thần, trở nên lạc quan hơn và tin tưởng vào việc tuân thủ điều trị Tuy nhiên, tư vấn cho người nhiễm HIV là một quá trình liên tục cần sự kiên trì và sự trao đổi cởi mở giữa hai phía để nâng cao hiệu quả tuân thủ điều trị.