1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

LỄ HỘI THỜ THÁNH MẪU LIỄU HẠNH Ở PHỦ DẦY NAM ĐỊNH

31 146 1

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 31
Dung lượng 1,26 MB

Cấu trúc

  • Chương I: Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn (3)
    • 1. Cơ sở lí luận (3)
    • 2. Cơ sở thực tiễn (5)
  • Chương II: Lễ hội Phủ Dầy – Nam Định (6)
    • 1. Tổng quan (6)
      • 1.1. Nguồn gốc – Môi trường hình thành lễ hội (6)
      • 1.2. Nhân vật được thờ tụng tại Phủ Dầy (0)
      • 1.3. Quần thể di tích Phủ Dầy (8)
    • 2. Lễ hội Phủ Dầy (0)
      • 2.1. Phần Lễ (9)
        • 2.1.1. Đối tượng đi lễ (9)
        • 2.1.2. Đồ lễ (10)
        • 2.1.3. Thờ cúng (11)
        • 2.1.4. Hầu bóng (12)
      • 2.2. Phần Hội (14)
        • 2.2.1. Hội chợ Viềng (15)
        • 2.2.2. Lễ hội tháng Ba (âm lịch) (17)
          • 2.2.2.1. Lễ rước (18)
          • 2.2.2.2. Hội kéo chữ (22)
          • 2.2.2.3. Hát chầu văn (26)
    • 3. Vai trò (29)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (30)

Nội dung

Trong đời sống tâm linh của người Việt, đã từng tồn tại rất nhiều hình thức tín ngưỡng tôn giáo khác nhau. Tín ngưỡng thờ Mẫu là một trong những tín ngưỡng quan trọng và không thể thiếu, tín ngưỡng này vừa mang nét phong phú đa dạng của thờ Mẫu, vừa mang nét chung với các tôn giáo tín ngưỡng tôn giáo khác, đồng thời vừa mang nét đặc sắc, nét nổi bật của tín ngưỡng dân gian. Đối với người Việt ờ Bắc Bộ thì tín ngưỡng thờ Mẫu đặc biệt là tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ Phủ là tín ngưỡng từ xa xưa, ngấm sâu vào trong tiềm thức và không có tín ngưỡng nào có thể thay thế được. Nếu như ở miền Nam tín ngưỡng thờ Mẫu được nhắc đến với tục thờ Bà Chúa Xứ hay tục thờ Bà Linh Sơn Thánh Mẫu, miền Trung với tục thờ Mẹ Xứ Sở thì ở miền Bắc không thể không nhắc đến tục thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh hay còn gọi với tên dân dã là Bà Chúa Liễu.Lễ hội thờ Mẫu Liễu Hạnh ở Phủ Dầy Nam Định của người dân Bắc Bộ là sự tích hợp nhiều yếu tố từ trong đời sống văn hóa của cư dân. Bên cạnh những yếu tố mang tính tôn giáo, tín ngưỡng chúng ta còn có thể thấy được yếu tố dân gian, môi trường hình thành lễ hội, truyền thuyết gắn liền, sinh hoạt tín ngưỡng, hoạt động văn hóa của người dân thông qua lễ hội lớn ở vùng nông nghiệp lúa nước nơi đây. Và đây cũng là lí do người viết chọn chủ đề này. Bằng cách tiếp cận từ góc nhìn Văn hóa học, thông qua phương pháp quan sát thực tiễn kết hợp với khai thác, tiếp cận và kế thừa của các nhà nghiên cứu đi trước, khi đi tìm hiểu về lễ hội gắn liền với tục thờ Thánh Mẫu – Hội Phủ Dầy ta có thể khai thác được một cách tương đối cơ bản và toàn diện về phương diện văn hóa dân gian ở đây cũng như các hiện tượng, giá trị văn hóa xoay quanh lễ hội. Vì có giới hạn về dung lượng nên bài tiểu luận của người viết còn thiếu sót khá nhiều, hi vọng giảng viên, người đọc có thể thông cảm. Lễ hội truyền thống dân gian nói chung và lễ hội Phủ Dầy nói riêng đều là niềm tự hào đối với người viết vì Việt Nam ta có một tín ngưỡng, di sản văn hóa độc đáo, thấm nhuần bản sắc dân tộc. Mong rằng thông qua bài tiểu luận sẽ có nhiều người biết thêm về vùng đất linh thiêng này, biết gìn giữ, bảo vệ và phát triển văn hóa của quê hương, tín ngưỡng, lễ hội lớn của Bắc Bộ nói riêng và tín ngưỡng dân tộc nói chung.

Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn

Cơ sở lí luận

Lễ hội, theo định nghĩa của Wikipedia, là sự kiện văn hóa mang tính cộng đồng, trong đó "lễ" thể hiện sự tôn kính của con người đối với thần linh và phản ánh những ước mơ chưa thể thực hiện, còn "hội" là hoạt động văn hóa, tôn giáo và nghệ thuật xuất phát từ nhu cầu sống Các lễ hội thường gắn liền với tín ngưỡng và tôn giáo, phản ánh niềm tin sâu sắc của con người vào trời đất và thần linh trong xã hội xưa.

(Lễ hội, https://vi.wikipedia.org/wiki/L%E1%BB%85_h%E1%BB%99i)

Lễ hội được định nghĩa trong "Từ điển tiếng Việt" là hệ thống hành vi thể hiện lòng tôn kính của con người đối với thần linh, phản ánh ước mơ chưa thực hiện được trong cuộc sống Nó cũng là hoạt động văn hóa, tôn giáo, nghệ thuật của cộng đồng, xuất phát từ nhu cầu sống, mang lại bình yên và hạnh phúc cho mỗi cá nhân và gia đình Theo Phan Đăng Nhật trong cuốn “Lễ hội cổ truyền”, lễ hội là một pho lịch sử khổng lồ, chứa đựng phong tục, tín ngưỡng, văn hóa và các sự kiện xã hội quan trọng, đồng thời là nơi bảo tồn và tích tụ văn hóa qua các thời kỳ lịch sử cho tương lai.

Theo TS Trần Long, giảng viên Khoa Văn hóa học, ĐHKHXH&NV, ĐHQG TP.HCM, lễ hội là hiện tượng sinh hoạt tổng hợp, bao gồm phần lễ và phần hội, hoặc chỉ một trong hai phần Phần lễ là hệ thống nghi thức cúng bái theo quy ước của mỗi làng, trong khi phần hội diễn ra sau lễ, bắt đầu bằng đám rước Dù được hiểu như thế nào, lễ và hội luôn gắn bó mật thiết với đời sống tâm linh và tín ngưỡng của con người Qua lễ hội, con người có thể gần gũi hơn với đấng thần linh, cầu mong sự che chở và phù hộ cho cuộc sống thuận lợi.

Lễ hội được các nhà khoa học phân loại thành nhiều loại khác nhau, có thể dựa trên niên đại gắn liền với các mốc lịch sử dân tộc Việt Nam, hoặc theo từng thành tố riêng biệt và cấu trúc của chúng Dù lựa chọn tiêu chí phân loại nào, mỗi phương pháp đều mang lại những yếu tố hợp lý và giá trị riêng.

Cục Văn hóa cơ sở là cơ quan quản lý nhà nước về lễ hội, thống kê các loại lễ hội trên toàn quốc Năm 2001, Bộ trưởng Bộ VHTT ban hành quyết định số 39/2001/QĐ-BVHTT kèm theo Quy chế tổ chức lễ hội, xác định 4 loại lễ hội cần điều chỉnh: lễ hội dân gian, lễ hội tôn giáo, lễ hội lịch sử cách mạng, và lễ hội du nhập từ nước ngoài Hiện nay, cả nước có 327 lễ hội do cấp tỉnh quản lý và 8 lễ hội do cấp bộ quản lý Lễ hội dân gian được coi là lễ hội truyền thống, gắn bó mật thiết với đời sống văn hóa tinh thần của người dân Việt Nam.

Lễ hội dân gian được xác định là những sự kiện do cộng đồng tổ chức và tham gia, khai thác các hoạt động văn hóa, văn nghệ truyền thống Theo Đinh Gia Khánh, lễ hội dân gian khác biệt với lễ hội tôn giáo ở chỗ luôn thu hút sự tham gia đông đảo của người dân.

Lễ hội dân gian truyền thống và hiện đại đóng vai trò quan trọng trong văn hóa Việt Nam Lễ hội dân gian truyền thống, xuất hiện trước tháng 8-1945, chủ yếu diễn ra ở các làng quê và liên quan đến nông dân, ngư dân, thợ thủ công Những lễ hội này được tổ chức định kỳ, tạo nên các hoạt động văn hóa ổn định, là phần không thể thiếu trong đời sống tinh thần của người dân trong thời gian nhàn rỗi của chu kỳ sản xuất nông nghiệp Một số ví dụ tiêu biểu bao gồm lễ hội chùa Hương (Hà Nội), lễ hội đền Hùng (Phú Thọ), lễ hội núi Bà Đen (Tây Ninh), lễ hội Chol Thnăm Thmây của đồng bào Khơme và lễ hội lồng tồng của đồng bào Tày.

Theo GS.TS Lê Hồng Lý, Viện trưởng Viện Nghiên cứu văn hóa, lễ hội dân gian là hoạt động văn hóa tín ngưỡng của cộng đồng nông thôn, nhằm tưởng nhớ các vị thần bảo vệ đời sống làng xã Các vị thần này có nguồn gốc đa dạng, bao gồm những thần tự nhiên như thần rừng, thần núi, thần nước, thần biển, cũng như những người đã có công lao trong việc phát triển kinh tế và bảo vệ bình an cho cộng đồng.

Cơ sở thực tiễn

“Tháng tám giỗ cha, tháng ba giỗ mẹ” là một câu thành ngữ quen thuộc trong văn hóa Việt Nam Câu này ám chỉ đến lễ hội Phủ Dầy, diễn ra tại Nam Định, quê hương của Thánh Mẫu Liễu Hạnh Lễ hội này được tổ chức từ ngày mồng ba đến ngày mồng mười tháng 3 âm lịch, nhằm tưởng nhớ và tri ân bà chúa.

Liễu Hạnh thuộc huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Hà (ngày nay là Nam Định), cách thành Nam không xa

Lễ hội Phủ Dầy đóng vai trò quan trọng trong đời sống tâm linh của người Việt, trải qua nhiều thăng trầm trong lịch sử Tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ và lễ hội này từng bị coi là mê tín và bị ngăn cấm, nhưng đến nay vẫn phát triển mạnh mẽ trong cộng đồng, đặc biệt ở Bắc Bộ Các yếu tố như cúng tế, hát văn, hầu đồng của lễ hội đang trải qua những biến đổi phức tạp, ảnh hưởng đến nhận thức của con người và tiềm ẩn nguy cơ làm mất đi giá trị văn hóa truyền thống, đe dọa bản sắc dân tộc.

Lễ hội Phủ Dầy – Nam Định

Tổng quan

1.1 Nguồn gốc – Môi trường hình thành lễ hội

Phủ Dầy là quần thể kiến trúc tín ngưỡng thờ bà chúa Liễu Hạnh, một trong “Tứ bất tử” của tín ngưỡng dân gian Việt Nam, tọa lạc tại xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định Nơi đây không chỉ là trung tâm của tín ngưỡng Tứ phủ mà còn gắn liền với truyền thuyết về sinh quán của Đức Thánh Mẫu Liễu Hạnh Tên gọi "Phủ Giầy" hay "Phủ Dày" đã từng gây tranh cãi, phản ánh những huyền thoại khác nhau về vùng đất này Mặc dù Phủ Dầy không phải là nơi Thánh Mẫu Liễu Hạnh hiển thánh, nhưng đã trở thành trung tâm của đạo Mẫu Tam phủ, Tứ phủ, nhờ vào niềm tin tâm linh sâu sắc của người Việt.

Nằm trong khu vực miền hạ của Châu thổ sông Hồng, sông Đáy, vùng đất này vẫn còn lưu giữ những dấu vết của vùng cửa sông ven biển xa xưa Với địa hình đồng lầy trũng xen lẫn đồi núi, nơi đây đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự quần cư tụ hội Theo truyền thuyết, người dân chủ yếu đến Phủ Dầy bằng con đường sông.

Chợ Viềng và chợ Sại, cùng với chợ Giần và chợ Gôi, là những chợ lớn đặc biệt tồn tại trên đất Phủ Dầy, phản ánh sự phong phú và đa dạng của văn hóa địa phương.

Vùng đất Thiên Bản, với lịch sử hàng ngàn năm của dân tộc Việt Nam, đặc biệt gắn liền với các triều đại phong kiến như triều Trần, đã lưu giữ nhiều dấu tích lịch sử quan trọng Nằm trên con đường Thiên Lý nối Thăng Long với Phú Xuân Huế, Thiên Bản là nơi chứa đựng nhiều huyền thoại, truyền thuyết và di tích lịch sử tôn giáo Đây cũng là quê hương của nhiều danh nhân kiệt xuất Trong bối cảnh văn hóa lịch sử phong phú ấy, di tích Phủ Giầy, gắn liền với tục thờ Mẫu Liễu Hạnh, đã hình thành, tồn tại và phát triển.

1.2 Nhân vật được thờ tụng trong lễ hội Phủ Dầy

Liễu Hạnh là nhân vật trung tâm được tôn thờ trong các di tích và lễ hội Phủ Dầy, mang đậm yếu tố huyền thoại và kỳ ảo Bà vừa là thiên, vừa là nhân thần, với nguồn tư liệu phong phú từ truyền thuyết, thần tích, gia phả và ngọc phả của các dòng họ tại Phủ Dầy Nhiều câu đối và đại tự khẳng định Vân Cát – Phủ Dầy là nơi sinh ra Tiên chúa Liễu Hạnh.

“Vạn cổ trạch (muôn thuở nơi nhà cũ)

Giáng sinh từ (ngôi đền thờ, sinh ra Thánh Mẫu) Đản sinh cổ trạch ( nhà cũ nơi Thánh Mẫu sinh)

Tiên nhân cựu quán (quê cũ của người Tiên)”

(Văn hóa thờ Nữ Thần – Mẫu ở Việt Nam và Châu Á, trang 376)

Thánh Mẫu Liễu Hạnh, hay còn gọi là Bà Chúa Liễu, Mẫu Liễu Hạnh, là một trong những vị Thánh quan trọng trong tín ngưỡng Việt Nam Bà được biết đến với nhiều tên gọi khác nhau, đặc biệt là ở vùng Bắc Bộ, nơi bà thường được gọi là Mẫu Liễu Truyện Liễu Hạnh đã được ghi chép thành sách, với tác phẩm sớm nhất là Truyền kì tân phả của Đoàn Thị Điểm Các sách thần tích và tài liệu sưu tầm truyền thuyết dân gian như Thích văn dị lục cũng phản ánh nội dung tương tự Câu chuyện nổi tiếng “Vân Cát Thần Nữ” là một phần quan trọng trong di sản văn hóa liên quan đến Thánh Mẫu Liễu Hạnh.

Ông Lê Thái Công, người hiền lành và phúc đức ở làng An Thái, thường đốt hương thờ Phật Vào năm Thiên Hựu (1557), vợ ông lâm bệnh nặng khi mang thai, không chữa khỏi Một đạo sĩ đã giúp ông, cho ông nằm mộng lên thiên đình, nơi ông chứng kiến Đệ Nhị Tiên chúa Quỳnh Nương bị đày xuống trần gian Khi tỉnh dậy, vợ ông sinh được một cô con gái, và họ đặt tên là Giáng Tiên Cô bé lớn lên xinh đẹp và tài năng, vừa có nhan sắc vừa giỏi văn thơ và âm nhạc Ông bà Lê Thái Công quyết định gả con gái cho Đào Lang, một chàng trai xứng đáng.

Liễu Hạnh, con nuôi của Trần Công, mất khi mới 21 tuổi, không vì bệnh tật mà vì đã hết nạn đày Sau khi trở về trời, nàng luôn sầu não và xin vua trời cho tái hợp với gia đình, được phong làm công chúa Dù có thể thăm cha mẹ, chồng con, nhưng Liễu Hạnh không thể ở lại lâu như người phàm Khi cha mẹ và chồng mất, nàng hóa thân thành nhiều hình dáng khác nhau để vui đùa với nhân gian, từ bà già bên đường đến cô gái đẹp trong quán trọ Nàng từng thách đố Trạng Bùng về văn chương tại Lạng Sơn và sau đó trở về Nghệ An, kết hôn với một thư sinh nhưng lại sớm trở về thiên cung Tại đây, Liễu Hạnh vẫn khao khát cuộc sống trần thế và nài nỉ xin xuống lần nữa, được Thượng đế đồng ý cho cùng hai cô Quế và Thị trở về Phố Cát.

Liễu Hạnh tiếp tục gây ảnh hưởng mạnh mẽ tại Thanh Hoá, khiến người dân phải lập đền thờ để tôn kính Mặc dù vua chúa đã cử quân đội đến phá hủy đền thờ của nàng, nhưng bệnh dịch bùng phát sau đó khiến nhân dân tin rằng đó là sự trừng phạt của Liễu Hạnh Do đó, họ đã xin triều đình cho phép xây dựng lại đền mới tại Phố Cát và sắc phong nàng là “Mã Hoàng công chúa” Tiên Chúa cũng đã nhiều lần hỗ trợ vua trong các cuộc chiến, vì vậy được gia tặng danh hiệu “Chế Thắng Hoà Diệu Đại Vương” (Ngô Đức Thịnh, Đạo thờ Mẫu Việt Nam, trang 124,125).

Tác phẩm của Đoàn Thị Điểm thể hiện sự giao thoa giữa văn học dân gian và văn chương bác học, điển hình là “Vân Cát Thần nữ” Tác phẩm này mang tính truyền kỳ, được chắt lọc từ cảm quan và cảm thụ của một nhà thơ, do đó có sự gia tăng về chi tiết và yếu tố xã hội so với các truyền thuyết dân gian.

1.3 Quần thể di tích Phủ Dầy

Lễ hội Phủ Dầy diễn ra tại quần thể di tích Phủ Dầy, nơi tập hợp nhiều kiến trúc và di tích có mối liên hệ mật thiết Đây là siêu điện thần của Đạo Mẫu Tam phủ, Tứ phủ, với Thánh Mẫu Liễu Hạnh là thần chủ Quá trình hình thành siêu điện thần bắt đầu từ ba nơi thờ chính: Phủ Tiên Hương, Phủ Vân Cát, sau đó mở rộng và "Mẫu hoá" các đền thờ khác như Thần núi, Thần nước, cùng với việc thờ các nhân vật lịch sử như Lý Nam Đế và Trần Hưng Đạo Các di tích này, đặc biệt là Tiên Hương và Vân Cát, đã trở thành điện thần hoàn chỉnh của đạo Mẫu, trong khi hơn 20 di tích ở Phủ Dầy được sắp đặt như một siêu điện thân, bao gồm Thiên phủ, Địa phủ, Thoải phủ và Phủ Thượng ngàn.

Lễ hội Phủ Dầy

Phật bà Quan Âm, Tam toà thánh Mẫu, ngũ vị Quan lớn, Tứ vị Chầu Bà, Ngũ vị Ông Hoàng, các Cô, Cậu đến thờ cúng tổ tiên

Phủ chính Tiên Hương nay và xưa Nguồn: Phủ Dầy – Vụ Bản – Nam Định

Vào tháng ba, khi tiết xuân đang ở giai đoạn cuối, nông dân rủ nhau mở hội trảy, thu hút hàng vạn người từ khắp nơi đổ về phủ Giầy, nơi có phong cảnh hữu tình và những công trình đền miếu hoành tráng Tại đây, mọi người cầu mong Mẫu ban tặng những điều tốt lành, may mắn và tài lộc Trong suốt mười ngày hội, dòng người đông đúc, rực rỡ trong trang phục truyền thống, tạo nên hình ảnh như một con rồng uốn lượn trên cánh đồng lúa xanh tươi.

Lễ thờ Mẫu là một hoạt động tín ngưỡng diễn ra quanh năm, đặc biệt nhộn nhịp vào ngày Sóc (mồng 1) và ngày Vọng (ngày rằm) Ngoài những ngày lễ lớn của Mẫu diễn ra vào tháng, tín đồ thường tổ chức các nghi lễ và hoạt động để thể hiện lòng thành kính.

Ngoài các ngày lễ kỵ như Tiệc ông Hoàng Mười (10/10) và lễ tiệc cô Bơ (12/06), người dân từ khắp nơi, cả trong nước và kiều bào ở nước ngoài, đều hướng về Nam Định để tham gia lễ hội với lòng thành kính Những nghi lễ này không chỉ mang ý nghĩa tạ ơn mà còn cầu xin sự bình an, sức khỏe và mọi việc được thuận lợi trong cuộc sống.

Phủ Giầy thu hút đông đảo người đi lễ, chủ yếu là phụ nữ, những người tìm thấy sự đồng cảm với Mẫu, người đã từng là vợ, mẹ với nhiều lo toan trong cuộc sống Họ từ khắp nơi đổ về đây để tôn thờ Mẫu, thể hiện lòng thành kính không chỉ dành cho Phật hay vua Tục lệ “Tháng Tám giỗ Cha, tháng…” cũng phản ánh sự gắn bó sâu sắc của họ với tín ngưỡng này.

"Ba giỗ Mẹ" là một trong những nghi lễ đặc sắc nhất trong hội hè của đạo Mẫu người Việt, thể hiện sự kết hợp hài hòa giữa quan niệm vũ trụ luận nguyên sơ và tín ngưỡng dân gian Nghi lễ này không chỉ tôn vinh Mẹ mà còn phản ánh sâu sắc văn hóa và tâm linh của người Việt, tạo nên điểm nhấn trong đời sống tinh thần của cộng đồng.

Âm dương tương khắc và tương đồng là nguồn gốc tạo ra mọi hiện tượng vũ trụ, phản ánh trong hệ quy chiếu gia tộc và ứng xử xã hội Mối quan hệ giữa gia đình, cha mẹ và con cái thể hiện rõ nét qua câu nói "có âm dương, có vợ chồng, dẫu từ thiên địa cũng là vòng phu thê" của Nguyễn Gia Thiều Những giá trị này được phóng đại và hình thành nên khung ứng xử xã hội, từ đó, các nghi lễ như giỗ cha mẹ, tổ tiên gia tộc đã phát triển thành các lễ hội lớn như giỗ Tổ Hùng Vương và giỗ Cha - Mẹ của Đạo Mẫu.

Trước khi tham gia lễ tại đền, việc chuẩn bị lễ vật cúng là rất quan trọng Các loại lễ vật cúng tế bao gồm lễ chay, lễ mặn và lễ đồ sống, tùy thuộc vào tâm tư và điều kiện của mỗi người Có nhiều quan niệm về đồ lễ, như lễ chay thường dành cho Phật, trong khi lễ mặn dành cho Thánh, Thần Mặc dù nhiều người cho rằng lễ cúng lớn sẽ nhận được nhiều phước lành, nhưng thực tế, sự thành tâm trong việc chuẩn bị lễ vật mới là điều quan trọng Việc cúng công đức để tu tạo và sửa sang nơi thờ tự có thể mang lại ý nghĩa thiết thực hơn là chỉ tập trung vào số lượng lễ vật.

Khi sắm lễ vật cúng cần chú ý những điều sau:

- Lễ chay gồm có hương, hoa, trà, quả, phẩm oản dùng để lễ ban Phật, Bồ Tát

Tại nơi thờ tự, nếu có ban Thánh Mẫu, người ta thường dâng cúng kèm theo các hàng mã như tiền, vàng, nón, hài, hia để thể hiện lòng thành kính.

Lễ mặn bao gồm các món ăn được chế biến từ thực phẩm tươi ngon, được sơ chế cẩn thận và nấu chín Lễ này thường được bày biện tại bàn thờ Ngũ vị Quan lớn, thể hiện sự tôn kính và lòng thành đối với các vị thần trong Ban công đồng.

Lễ đồ sống bao gồm trứng, gạo, muối và thịt mồi, thường dùng để dâng cúng các quan Ngũ hổ, Bạch xà, Thanh xà tại hạ ban công đồng Tứ Phủ Trong lễ thường, người ta đặt 5 quả trứng vịt sống trong một đĩa muối và gạo, 2 quả trứng gà sống trong hai cốc nhỏ, cùng với một miếng thịt mồi được khía thành 5 phần mà không đứt rời Ngoài ra, lễ vật còn bao gồm tiền và vàng mã.

Cỗ mặn Sơn Trang thường bao gồm cua, ốc, bún, ớt, và chanh quả, cùng với gạo nếp cẩm để nấu xôi và chè Theo tập quán và quan niệm dân gian, lễ này thường được chuẩn bị với con số 15, tương ứng với 15 vị được thờ tại Ban Sơn Trang, bao gồm 1 vị chúa và 2 vị hầu cận.

12 cô sơn trang) Ví dụ như 15 con ốc, 15 con cua, 15 quả ớt, chanh hoặc có thể chỉ cúng một quả nhưng được khía ra làm 15 phần

Lễ Ban thờ cô, cậu cần chuẩn bị các loại oản, quả, hương, hoa và đồ chơi bằng giấy vàng cho trẻ nhỏ Những lễ vật này thường có kích thước nhỏ gọn, đẹp mắt, được làm cầu kỳ và được bao bọc trong những túi nhỏ xinh xắn.

Hài cúng Đồ cúng Cỗ mặn Sơn Trang

Nguồn: Nguyễn Long Hưng 2.1.3 Thờ cúng: Khi đến lễ đền, phủ phải theo thứ tự như sau:

Lễ Thần Thổ Địa, hay còn gọi là lễ trình, là nghi thức dâng lễ thần linh tại địa điểm mà người ta đến Trong quá trình chuẩn bị, lễ vật được sửa soạn và sắp xếp trên các mâm, khay dành riêng cho việc cúng lễ tại nhà đền, phủ Khi dâng lễ, người thực hiện cần sử dụng hai tay để kính cẩn đặt lễ vật lên bàn thờ, sắp xếp theo thứ tự từ ban chính ra ban ngoài cùng Sau khi hoàn tất việc đặt lễ, việc thắp hương sẽ được tiến hành theo thứ tự từ ban chính đến các ban tiếp theo, cuối cùng là ban thờ cô, cậu Lưu ý rằng khi thắp hương, số lượng nén hương phải là số lẻ.

1, 3, 5, 7 nén, nhưng thường thì thắp 3 nén

Khi dâng hương, sau khi đã châm lửa, người dâng hương dùng hai tay đưa lên ngang trán, vái ba vái trước khi kính cẩn cắm hương vào bình trên bàn thờ Nếu có sớ tấu trình, người dâng lễ có thể kẹp sớ ngang mày và vái ba lần Sau khi lễ xong, sớ tấu trình được đặt tại ban công đồng Tứ Phủ Theo nghi thức, trước khi khấn lễ, người ta thường thỉnh ba hồi chuông rồi mới tiến hành lễ và khấn.

Sau khi thắp nhang và khấn vái, người ta có thể tham quan khu vực thờ tự trong lúc chờ nhang cháy hết Khi tuần nhang kết thúc, ta có thể thắp thêm một tuần nhang mới, thực hiện ba vái trước mỗi bàn thờ và chuẩn bị tiền, vàng (đồ mã) để hóa tại am hóa vàng Việc hóa vàng cần thực hiện theo thứ tự từ bàn thờ chính đến bàn thờ cô, cậu Sau khi hoàn tất việc hóa vàng, ta sẽ hạ lễ ở các bàn thờ.

Vai trò

3.1 Đáp ứng nhu cầu tâm linh cộng đồng

Mùa xuân đánh dấu khởi đầu cho sự sinh trưởng và phát triển, con người đón năm mới với hy vọng thuận lợi, và lễ hội Phủ Dầy đã trở thành một phần quan trọng trong đời sống cộng đồng Lễ hội không chỉ đáp ứng nhu cầu vật chất mà còn nâng cao tinh thần, thu hút hàng vạn lượt khách hành hương mỗi dịp xuân về Trong hoạt động tín ngưỡng thờ Mẫu, lễ hội còn thỏa mãn nhu cầu tâm linh, giúp cộng đồng mong muốn "mua may bán đắt" và tìm kiếm sự chữa bệnh.

3.2 Vai trò cố kết cộng đồng

Lễ hội dân gian, đặc biệt là lễ hội Phủ Dầy, có bản chất là gắn kết cộng đồng Số lượng người tham gia lễ hội phụ thuộc vào quy mô, tầm ảnh hưởng và sự linh thiêng của vị thần được thờ phụng Lễ hội Phủ Dầy không chỉ thu hút người dân địa phương mà còn hấp dẫn du khách từ khắp nơi Được tổ chức vào mùa xuân, thời điểm nông nhàn và là lúc mọi người nghỉ ngơi, vui chơi sau một năm lao động vất vả, lễ hội càng thu hút đông đảo con nhang đến tham dự.

Vào dịp lễ hội Phủ Dầy, người dân địa phương cùng nhau gặp gỡ, thể hiện tình đoàn kết qua việc luyện tập các nghi thức Một hoạt động nổi bật là Hoa Trượng Hội, yêu cầu sự phối hợp nhịp nhàng và động viên lẫn nhau giữa các thành viên Nhờ vào không gian thiêng liêng và sức mạnh tâm linh của tín ngưỡng thờ Mẫu, cộng đồng trở nên gắn kết hơn Hằng năm, các con nhang từ khắp nơi trong nước đến đây chung tay đóng góp công sức để xây dựng và sửa chữa đền Phủ Lễ hội không chỉ thắt chặt quan hệ tình làng nghĩa xóm mà còn mở rộng sự gắn kết giữa con người trên khắp các vùng miền.

3.3 Vai trò giáo dục truyền thống cộng đồng

Lễ hội truyền thống không chỉ mang giá trị lịch sử mà còn là biểu tượng sống động của các giá trị văn hóa được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác Thánh Mẫu Liễu Hạnh cùng với hệ thống thần linh Tứ Phủ chứa đựng những giá trị sâu sắc về lịch sử và truyền thống Lễ hội Phủ Dầy tái hiện sinh động quá khứ, quá trình hình thành và phát triển của các nhân vật trong bối cảnh hiện đại Tham gia lễ hội, mọi người có dịp ôn lại lịch sử và cùng nhau góp phần tái dựng lại quá khứ, giữ gìn những giá trị văn hóa quý báu.

Sống trong hiện tại giúp chúng ta kết nối với quá khứ, từ đó truyền tải và bảo tồn những giá trị lịch sử quý báu cho các thế hệ tương lai.

Tín ngưỡng thờ Mẫu, đặc biệt là mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giày, đóng vai trò quan trọng trong đời sống tâm linh Việt Nam Lễ hội tại đây nổi bật với các hoạt động văn hóa, tín ngưỡng độc đáo như nghi lễ chầu văn, rước đuốc và hội hoa trượng, phản ánh phong tục tập quán và nghệ thuật dân gian của cộng đồng Qua lễ hội, con người thể hiện tâm tư, khát vọng và khả năng sáng tạo, đồng thời tìm thấy những giây phút "thăng hoa" để quên đi khó khăn hàng ngày Lễ hội không chỉ mang lại sức mạnh tinh thần mà còn cần được gìn giữ và phát huy trong bối cảnh hiện đại hóa Để bảo tồn bản sắc lễ hội Phủ Dầy và giá trị dân tộc, mọi người cần nâng cao nhận thức và lan tỏa những giá trị tích cực đến cộng đồng.

Ngày đăng: 24/12/2021, 09:57

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
11. Thái Nhi, Lễ hội Phủ Dầy http://pgdvuban.edu.vn/tin-tuc-su-kien/le-hoi-phu-giay.html Link
12. Vũ Quốc Huy - Đài phát thanh Vụ Bản, Nghi lễ rước đuốc trong Lễ hội Phủ Dầy 2018https://www.namdinh.gov.vn/huyenvuban/1211/26995/37544/101681/van-hoa---xa-hoi/nghi-le-ruoc-duoc-trong-le-hoi-phu-day-2018-.aspx Link
1. Facebook : Phủ Dầy – Vụ Bản – Nam Định https://www.facebook.com/phuday.vn2.Facebook: Nguyễn Long Hưnghttps://www.facebook.com/hung.n.long 3. Cổng thông tin huyện Vụ Bản – Nam Định Link
1. Trương Thìn, 2007, Nghi lễ thờ cúng tổ tiên, đền chùa, miếu phủ, Nhà xuất bản Hà Nội Khác
2. Ngô Đức Thịnh, 2014, Đạo Mẫu Tam Phủ, Tứ Phủ, Nhà xuất bản Dân Trí 3. Ngô Đức Thịnh, 2012, Đạo Thờ Mẫu ở Việt Nam, Nhà xuất bản Thời Đại 4. Ngô Đức Thịnh, Đạo Mẫu Việt Nam, Nhà xuất bản Tôn Gíao Khác
5. Nguyễn Quang Lê (Chủ biên), Lê Văn Kỳ, Phạm Quỳnh Hương, Nguyễn Thị Hương Liên. Khảo sát thực trạng văn hóa lễ hội truyền thống của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ, Nhà xuất bản Khoa học xã hội Khác
6. Nguyễn Quang Lê, Tìm hiểu bản sắc văn hóa dân tộc qua lễ hội truyền thống của người Việt, Nhà xuất bản Mỹ Thuật Khác
8. Nguyễn Duy Hùng, 2017, Luận án Tiến sĩ: Lễ hội Phủ Dầy trong đời sống văn hóa cộng đồng hiện nay, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh Khác
9. Bùi Văn Tam, 2001, Phủ Dầy và tín ngưỡng Mẫu Liễu Hạnh, Nhà xuất bản Văn hoá dân tộc Khác
10. Thạch Phương – Lê Trung Vũ, 60 lễ hội truyền thống Việt Nam, Nhà xuất bản Tổng hợp Thành Phố Hồ Chí Minh Khác

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Hình ảnh người tham dự  Hình ảnh Ban giám khảo - LỄ HỘI THỜ THÁNH MẪU  LIỄU HẠNH Ở PHỦ DẦY NAM ĐỊNH
nh ảnh người tham dự Hình ảnh Ban giám khảo (Trang 28)

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w