1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

YẾU TỐ VĂN HÓA DÂN GIAN TRONG CHÈO

30 96 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 30
Dung lượng 623,78 KB

Cấu trúc

  • I. Phần tổng quan (3)
    • 1. Lí do chọn đề tài (3)
    • 2. Mục đích nghiên cứu (5)
    • 3. Đối tượng nghiên cứu (5)
    • 4. Phương pháp nghiên cứu (5)
  • II. Phần nội dung (0)
    • 1. Cơ sở lí luận (5)
    • 2. Cơ sở thực tiễn (6)
    • 3. Vài nét về Chèo Bắc Bộ (7)
      • 3.1. Lịch sử hình thành (7)
      • 3.2. Chèo mang âm hưởng văn hóa dân gian Bắc Bộ (0)
    • 4. Nét văn hóa dân gian đặc sắc trong Chèo (0)
      • 4.1. Chất dân gian trong ca từ, ngôn ngữ (8)
      • 4.2. Trang phục chèo (9)
      • 4.3. Chèo, từ chiếu diễn sân khấu đình chuyển dần vào sân khấu hộp (0)
    • 5. Nội dung Chèo là tiếng nói phản ảnh đời sống nhân dân (0)
      • 5.1. Chèo thuộc loại sân khấu khuyến giáo đạo đức (14)
      • 5.2. Chèo xây dựng thành công các nhân vật đại diện (0)
  • III. Kết luận (26)
  • IV. Tài liệu tham khảo (26)

Nội dung

Trong thiên nhiên, trong cuộc sống của con người có muôn vàn âmthanh, song không phải âm thanh nào cũng có tính nghệ thuật và khoa học nhưâm nhạc. Âm thanh trong công trình này được xác định là âm thanh có tính nghệthuật, có tính thẩm mỹ và chúa chức năng phản ánh, nhận thức giáo dục. Đó chínhlà âm nhạc một loại hình nghệ thuật có tính khoa học hoàn chỉnh. Loại hình nàycó tính quy luật chặt chẽ và ổn định.Thành tố nghệ thuật âm thanh hình thành từ rất sớm, từ thuở bình minh củacon người. Nó là một phần giúp cho đời sống con người thêm phần sinh động,giải toả những căng thẳng trong công việc bộn bề. Và để truyền tải những bài ca,giọng hát ấy con người ta bắt đầu từ những cách thân thuộc, gần gũi nhất nhưnhững bài lí, bài hò khi lao động, những câu hát ấy không chỉ để giải toả mỏi mệtngày lúc ấy mà còn là một kí hiệu giúp cho năng suất lao động tăng lên. Thời giandần qua, xã hội con người phát triển kéo theo nhu cầu về đời sống tinh thần ngàycàng được chú trọng hơn, chính vì thế các loại hình biểu diễn sân khấu dân gianđã ra đời.Sân khấu hợp thành bởi nhiều loại, mỗi loại có những đặc thù riêng vàphương tiện thể hiện riêng. Sân khấu với ý nghĩa rộng, gồm cái xưa và nay, có thểchia ra thành lĩnh vực sân khấu dân tộc và sân khấu dân gian. Sân khấu dân gian,như tiêu chí phân loại đã xác định là các tích, trò, chuyện do dân chúng sáng tạovà được lưu truyền từ đời này sang đời khác dưới hình thức truyền miệng khôngthành văn bản. Tìm hiểu các loại hình sân khấu dân gian, ta có thể cảm nhận đượcsự phát triển của quá trình lịch sử con người Việt Nam, những nét đẹp văn hóatruyền thống tinh hoa cần được giữ gìn cẩn thận, và Chèo là một loại hình sânkhấu dân gian vô cùng độc đáo, mang trong mình nét đẹp văn hoá dân gian củacả một thời đại.

Phần tổng quan

Lí do chọn đề tài

Chèo là một loại hình sân khấu dân gian đặc sắc của người Việt, phản ánh giá trị văn hóa và bản sắc của nông dân Nảy sinh từ môi trường tự nhiên và xã hội, Chèo là sản phẩm văn hóa nông nghiệp, tập trung vào cuộc sống, tín ngưỡng, và phong tục của người nông dân ở thôn quê Các sự kiện, nhân vật và nội dung trong Chèo đều xoay quanh đời sống của người nông dân, cho thấy sự gắn bó chặt chẽ với nghề nông và cộng đồng làng xã.

Chèo là tiếng nói phản ánh sâu sắc đời sống tâm hồn và tình cảm của quần chúng nhân dân, đồng thời ghi lại lịch sử xã hội Thể loại nghệ thuật này lưu trữ vẻ đẹp phong phú về phong tục, tập quán trong sinh hoạt vật chất và tinh thần của người lao động Nhiều tác phẩm chèo thể hiện các khía cạnh phức tạp của tâm lý xã hội và mối quan hệ giữa con người, với đủ các thể loại như bi, hài, trữ tình, anh hùng ca và đa dạng tính cách nhân vật.

Bi như Thị Kính (Quan âm Thị Kính)

Lẳng lơ như Thị Mầu (Quan âm Thị Kính)

Hiếu thảo như Thị Phương (Trường Viên)

Tiết hạnh như Châu Long (Lưu Bình Trương Lễ)

Si tình và phụ bạc như Súy Văn (Kim Nhan)

Miền Bắc Bộ nổi bật với những đặc trưng văn hóa dân gian phong phú, và vì vậy, nghệ thuật Chèo ở đây cũng mang đậm bản sắc văn hóa đặc thù của vùng đất này.

Khi nghiên cứu về "Yếu tố dân gian trong Chèo Việt Nam", tôi nhận thấy sự độc đáo và giá trị văn hóa truyền thống được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác Trong bài tiểu luận này, tôi mong muốn khám phá sâu hơn về các giá trị văn hóa của nghệ thuật sân khấu Chèo, từ đó giúp bản thân hiểu rõ hơn về giá trị văn hóa và nghệ thuật dân gian.

Dù chưa đủ kiến thức để nghiên cứu sâu về giá trị của Chèo Việt Nam, tôi sẽ tập trung vào việc khám phá các giá trị văn hóa đặc sắc và những yếu tố dân gian có trong loại hình nghệ thuật này trong bài tiểu luận này.

Mục đích nghiên cứu

Chèo là một biểu tượng văn hóa độc đáo của Việt Nam, thu hút sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu trong lĩnh vực văn hóa học và khoa học nhân văn Việc tìm hiểu về Chèo không chỉ giúp chúng ta nhận diện rõ ràng các giá trị văn hóa và nghệ thuật mà còn góp phần gìn giữ và phát triển nghệ thuật sân khấu dân gian truyền thống Điều này đặc biệt quan trọng để làm nổi bật những nét đặc sắc và riêng biệt của vùng đất Bắc Bộ so với các khu vực khác.

Việc áp dụng kiến thức văn hóa vào việc khám phá các giá trị của Chèo giúp rút ra những nguyên tắc quan trọng, từ đó nâng cao khả năng hiểu biết về các giá trị văn hóa trong nghệ thuật biểu diễn sân khấu hiện nay.

Đối tượng nghiên cứu

Giá trị văn hoá, yếu tố dân gian trong Chèo Việt Nam.

Phần nội dung

Cơ sở lí luận

1.1 Khái niệm về văn hóa

Văn hóa là một hệ thống phức tạp bao gồm tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục, cùng với các khả năng và thói quen mà con người phát triển như một thành viên trong xã hội.

UNESCO định nghĩa văn hóa là tổng thể các yếu tố tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm, quyết định tính cách của một xã hội hoặc nhóm người Văn hóa bao gồm nghệ thuật, văn chương, lối sống, quyền cơ bản của con người, hệ thống giá trị, tập tục và tín ngưỡng.

1.2 Khái niệm văn hóa dân gian

Thuật ngữ “folklore” lần đầu tiên được W J Thom sử dụng vào năm 1846 để chỉ các phong tục, tập quán, nghi thức và những yếu tố văn hóa khác của người xưa Kể từ đó, văn hóa dân gian học đã ra đời và phát triển mạnh mẽ, đạt được nhiều thành tựu đáng kể Tại Việt Nam, thuật ngữ “folklore” đã được áp dụng từ lâu và qua từng thời kỳ, nó được dịch sang tiếng Việt với các tên gọi như “văn học dân gian”, “văn nghệ dân gian”, và hiện nay là “văn hóa dân gian”.

1.3 Nghệ thuật sân khấu Chèo

Chèo là một loại hình nghệ thuật sân khấu dân gian độc đáo của Việt Nam, phát triển từ sự kết hợp giữa dân ca, dân vũ và các hình thức nghệ thuật dân gian khác tại vùng đồng bằng Bắc Bộ Nghệ thuật chèo mang tính biểu diễn ngẫu hứng, dựa trên các thân trò và hệ thống nhân vật, cùng với những làn điệu đã được hình thành và liên tục được làm phong phú thêm.

Cơ sở thực tiễn

Nhằm đưa nghệ thuật diễn xướng Chèo đến gần hơn với học sinh, sinh viên, tôi đã tìm hiểu về thực trạng của Chèo Dù đã có lịch sử lâu đời, Chèo vẫn giữ vững vị trí trong văn hóa Việt Nam nhờ chứa đựng nhiều giá trị văn hóa quý báu Hằng năm, Nhà nước tổ chức các cuộc thi Chèo để phát hiện và nuôi dưỡng tài năng trẻ Chèo không chỉ là tâm hồn của Ninh Bình mà còn là điểm thu hút khách du lịch đến với vùng đất này.

Vài nét về Chèo Bắc Bộ

Trong cuốn sách “Về nghệ thuật Chèo” của Trần Việt Ngữ, xuất bản bởi Viện nghiên cứu âm nhạc tại Hà Nội năm 1996, tác giả trình bày những quan điểm đa dạng về Chèo, bao gồm sự hình thành và phát triển của loại hình nghệ thuật này.

Vào năm Canh Tuất 1310, khi quan tài vua Trần Nhân Tông được đưa về Long Hưng để an táng, dân chúng tập trung đông đảo để chiêm ngưỡng, khiến xe tang không thể di chuyển Để giải quyết tình huống này, Thứ thị hầu Trịnh Trọng Tử đã gọi quân của mình đến sân Thiên Trì và hát khúc Long ngâm, thu hút sự chú ý của dân chúng, giúp xe tang có thể tiếp tục lộ trình.

Về sau, người dân đã bắt chước lối hát vãn, và hàng năm vào rằm tháng Bảy, các gia đình có tang lễ thường mời phường hát đến biểu diễn, hình thành nên tục phường chèo bội.

Chèo là một loại hình nghệ thuật hát đặc trưng và thuần túy của dân tộc Việt Nam, có nguồn gốc từ thời thượng cổ, thời tiền sử Loại hình nghệ thuật này đã phát triển mạnh mẽ ở vùng đồng bằng và trung châu miền Bắc, nơi mà nông dân đã rất yêu thích và coi đó là di sản văn hóa của mình.

Chèo là một loại hình nghệ thuật ca vũ cổ truyền của dân tộc, có nguồn gốc từ những buổi lễ tang trong quá khứ Nghệ thuật này thể hiện qua những lời ca than vãn và điệu múa, mô phỏng các động tác chèo thuyền, với hình ảnh chiếc thuyền thần thoại chở linh hồn người đã khuất sang thế giới bên kia.

Chèo, một loại hình nghệ thuật truyền thống của Việt Nam, được cho là đã hình thành từ thời tiền sử, khoảng thế kỷ IV trước Công nguyên đến thế kỷ I sau Công nguyên Ngoài ra, một số ý kiến khác cho rằng Chèo xuất hiện vào thế kỷ X, trong thời kỳ nhà Đinh, hoặc vào thế kỷ XIV, thời kỳ cuối của nhà Trần.

3.2 Chèo mang âm hưởng văn hoá dân gian Bắc Bộ

Vùng châu thổ Bắc Bộ, nơi khởi nguồn của các vương triều Đại Việt, là vùng đất lịch sử lâu đời của người Việt, đồng thời là cái nôi hình thành văn hóa Việt từ những ngày đầu Đến nay, khu vực này vẫn bảo tồn nhiều giá trị truyền thống quý báu, giữ gìn bản sắc dân tộc đậm đà trong hành trình xây dựng nền văn hóa hiện đại.

Nét văn hóa dân gian đặc sắc trong Chèo

Cư dân đồng bằng Bắc Bộ chủ yếu sống bằng nghề trồng lúa nước và nông nghiệp thuần túy Dù được bao bọc bởi biển và rừng, người nông dân nơi đây thường được mô tả là "xa rừng nhạt biển", theo PGS, PTS Ngô Đức Thịnh Họ là những người đắp đê lấn biển để trồng lúa, làm muối và đánh cá ven biển, nhưng nghề đánh cá quy mô lớn chưa phát triển Các làng ven biển chủ yếu tập trung vào nông nghiệp, với hoạt động đánh cá và làm muối chỉ là phụ Trong khi đó, Bắc Bộ lại là một châu thổ có nhiều sông ngòi, mương máng, nên người dân nơi đây chú trọng vào khai thác thủy sản Việc khai thác ao hồ để nuôi cá tôm từng được coi trọng, thể hiện qua câu ngạn ngữ: nhất canh trì, nhì canh viên, ba canh điền.

Điều kiện tự nhiên và xã hội thuận lợi đã biến kho tàng văn hóa dân gian vùng Bắc Bộ thành một nguồn tài nguyên quý giá, giống như một mỏ chứa đựng nhiều giá trị văn hóa độc đáo.

4 Nét văn hoá dân gian đặc sắc trong Chèo

4.1 Chất dân gian trong ca từ, ngôn ngữ

Chèo là một loại hình sân khấu truyền thống của Việt Nam, mang tính quần chúng và thường xuất hiện trong các lễ hội Đặc trưng của chèo là việc sử dụng ngôn ngữ đa thành, đa nghĩa, kết hợp với cách nói ví von giàu tính tự sự và trữ tình Trong khi kịch Bắc Kinh đại diện cho sân khấu truyền thống Trung Quốc và kịch nô đại diện cho sân khấu Nhật Bản, chèo được coi là biểu tượng tiêu biểu nhất của sân khấu truyền thống Việt Nam.

Chèo và văn học dân gian có mối quan hệ chặt chẽ, với ngôn ngữ Chèo phản ánh khẩu ngữ hàng ngày của quần chúng Nó không chỉ bao gồm ca dao, tục ngữ và truyện cổ tích mà còn tiếp thu các tác phẩm văn học bác học phổ biến trong dân gian Chèo tận dụng khả năng phong phú của ngôn ngữ dân gian, bao gồm lối nói vần, chơi chữ và các câu nói lái, để thể hiện cảm xúc và suy nghĩ của người lao động.

9 Để cảm nhận rõ điểu này ta có thể tìm một đoạn trích trong tác phẩm Chèo nổi tiếng “Quan Âm Thị Kính”:

Thiện Sĩ: Thưa cha mẹ, hôm qua con ngồi học đã khuya

Vừa chợp mắt thấy dao kia kề cổ

Con nói đây, có quỷ thần hai vai chứng tỏ

Dầu thực hư đôi lẻ con chưa tường

Sùng ông: Hú vía! Kề cổ màu hay kề cổ ai hả con?

Sùng bà: Thôi đi, lại còn kề ai vào đây nữa

Cái con mặt sứa gan lim này! Mày định giết con bà à? Úi chao! Tôi đã bảo ông mà!

Lấy vợ cho con thì phải kén họ

Tôi đã bảo phải kiếm nới Công hầu kia mà

Giống nhà bà đây giống phượng giống công

Còn tuồng bây mèo mả gà đồng lẳng lơ

Chứ bây giờ bây mới lòi mặt ra,

Chứ bây giờ sao chưa mở cái mồm ra?

Thị Kính: Lạy cha, lạy mẹ! Cho con xin trình cha mẹ Đoạn trích này thể hiện rõ thần thái và hồn cốt của Chèo, với ngôn ngữ gần gũi và dễ hiểu, kết hợp khéo léo với văn hóa kể chuyện dân gian cùng các câu ca dao, tục ngữ tinh tế.

Trang phục trong sân khấu chèo không chỉ tạo hình thức cho vở diễn mà còn ảnh hưởng đến thẩm mỹ của khán giả, giúp họ nhận thức về lịch sử và phân tầng giai cấp qua các thời kỳ phát triển của đất nước Những bộ trang phục này còn phản ánh văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng và môi trường sống của từng vùng miền và triều đại Tuy nhiên, vẫn còn nhiều người xem trang phục trong sân khấu chèo là yếu tố thứ yếu, dẫn đến sự thiếu đầu tư và quản lý hiệu quả trong việc bảo tồn các giá trị phục trang.

Trang phục sân khấu chèo không chỉ thể hiện giá trị hiện thực sâu sắc mà còn phản ánh chân thực trang phục đời thường, qua đó đóng vai trò quan trọng trong việc phản ánh hiện thực khách quan Mỗi bộ trang phục trong các vở diễn đều gắn liền với không gian và thời gian của một giai đoạn lịch sử cụ thể, tạo nên sự kết nối giữa nghệ thuật và đời sống.

Trang phục sân khấu chèo phản ánh hiện thực cuộc sống, mô phỏng trang phục đời thường của nhân vật, giúp khán giả nhận biết thân phận và giai cấp của họ Ví dụ, diễn viên mặc áo nâu và váy đụp sờn rách biểu thị hình ảnh nông dân nghèo, trong khi các quan viên với áo dài lụa thể hiện sự giàu có và quyền lực Ngoài việc phản ánh thực tế, trang phục còn thể hiện tính cách nhân vật, với sự đa dạng và phức tạp, như hình ảnh chiếc yếm đỏ và áo cánh vàng gợi nhớ đến cô Màu với nét hồn nhiên và sự lẳng lơ Trang phục cần phải thể hiện rõ đặc điểm tính cách, sự phát triển tâm lý và nét đặc trưng của từng giai cấp.

Các nhân vật trong chèo cổ thường gần gũi với cuộc sống thường nhật, phản ánh hình ảnh của những người nông dân sống tại các làng quê vùng đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam trong thời phong kiến.

Trang phục cho các vai diễn trên sân khấu chèo cổ chủ yếu tương tự như những bộ áo quần thường ngày của người dân quê hoặc trang phục mới trong các dịp lễ hội Tuy nhiên, những bộ trang phục này được tinh giản và cải tiến để phù hợp hơn với không gian sân khấu.

Khi nói đến Xúy Vân trong vở Kim Nham, khán giả thường hình dung cảnh hất tóc và tà áo tứ thân bay bổng Ngược lại, Thị Kính lại gợi nhớ đến hình ảnh của một người tu hành thanh đạm trong bộ áo nâu Những hình tượng này đã ăn sâu vào tâm trí người xem, khiến họ nhớ rõ từng cử chỉ, điệu bộ và trang phục của nhân vật khi nhắc đến vở diễn.

Trang phục trên sân khấu chèo mang đậm tính dân tộc, thể hiện nghệ thuật chèo như một sản phẩm văn hóa tinh thần của người nông dân đồng bằng Bắc Bộ Nghệ thuật này không chỉ có ý nghĩa giáo dục đạo đức, nhân cách mà còn phản ánh nguồn cội văn hóa của dân tộc qua các tích trò từ kho tàng truyện dân gian Những bộ trang phục rực rỡ, đầy màu sắc của lễ hội, cùng với sự khéo léo trong từng đường kim của người phụ nữ Việt Nam, tạo nên bản sắc riêng biệt và độc đáo, thể hiện sự tôn vinh văn hóa dân tộc qua từng hoa văn tinh tế được gìn giữ qua nhiều thế hệ.

4.3 Chèo, từ chiếu diễn sân đình chuyển dần vào sân khấu hộp

Theo các nghệ nhân cao tuổi, Hà Nội trước đây không có phường Chèo bản địa Trong những dịp lễ hội, giỗ chạp, người dân thường cử người ra ngoại thành mời phường Chèo về biểu diễn, với cách thức biểu diễn và thưởng thức tương tự như chèo sân đình.

Trong tâm thức của nhiều người, sân khấu chèo gợi nhớ đến những buổi họp mặt tại sân đình, nơi người già trò chuyện và trẻ nhỏ nô đùa Đây là không gian thư giãn, giúp mọi người xua tan nhọc nhằn sau một ngày lao động vất vả Dưới ánh trăng dịu dàng của thôn quê, sân khấu chèo đã tạo nên những kỷ niệm đẹp, in đậm trong tâm trí của nhiều thế hệ.

Từ năm 1890, Hoàng Cao Khải đảm nhận chức Kinh lược Bắc Kì và đã mang theo Đội Tuồng giáo từ miền Trung Nhóm này từng nhiều lần biểu diễn trước mặt các quan chức Pháp và quân đội, ban đầu chỉ để “mua vui” cho họ Sau đó, họ đã cải tạo một gian nhà thành rạp hát và bắt đầu diễn bán vé để kiếm tiền.

Nội dung Chèo là tiếng nói phản ảnh đời sống nhân dân

Trong xã hội phong kiến, hình ảnh những người phụ nữ, dù ở vị trí nào, đã trở thành biểu tượng cho việc phê phán đạo lý cương thường Sự thật rằng cha không thể dạy con, chồng không thể bảo vợ, và các bậc quan phụ mẫu không thể nói với dân đã khiến cho các mối quan hệ trong Nho giáo trở thành đề tài châm biếm Điều này phản ánh sự bất lực trong các mối quan hệ giường cột, khi mà những nguyên tắc truyền thống không còn phù hợp với thực tế đời sống.

Chèo là một hình thức văn học nghệ thuật dân gian mang ý thức phản phong tích cực, nhưng không đủ sức dẫn dắt khán giả đến một trật tự xã hội văn minh và công bằng hơn Thay vào đó, chèo cổ chỉ dừng lại ở việc tạo ra tiếng cười châm biếm vui vẻ trong các ngày hội làng Tuy nhiên, nó vẫn có thể đặt nền móng cho khuynh hướng tư tưởng tiến bộ, làm cơ sở cho giáo hóa đạo đức.

5.1 Chèo thuộc loại sân khấu khuyến giáo đạo đức (đạo đức phong kiến đã có phần nhân dân - hóa) Ở xã hội ta trước đây dường như đã có sự "phân cấp" đề tài giữa Tuồng và Chèo, mặc dầu cùng trên một nền tảng:

“Trai thời trung hiếu làm đầu Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình.”

Tuồng thường khai thác các câu chuyện quân quốc, thể hiện hình ảnh quân thần mẫu mực và những cuộc xung đột kịch liệt giữa các nhân vật trung thành Cuối cùng, những xung đột này dẫn đến kết cục "chém nịnh, định đô, tôn vương tức vị" Khi đề cập đến mối quan hệ vợ chồng, bè bạn, anh em hay thầy trò, mục đích là để làm nổi bật chữ trung của các phi hậu quan tướng Bài viết chỉ tập trung vào loại tuồng Thày, không đề cập đến tuồng Ðồ hay tuồng hài.

Chèo là thể loại nghệ thuật truyền thống phản ánh những câu chuyện đời thường ở nông thôn và trong gia đình, đặc biệt xoay quanh mối quan hệ giữa mẹ chồng và nàng dâu, dì ghẻ và con chồng, cũng như các mối quan hệ trong gia đình và bạn bè Các tích chèo cổ thường kể về cuộc đời hoặc một giai đoạn quan trọng quyết định số phận nhân vật, trong đó nhân vật thư sinh hoặc viên khoa bảng giữ vai trò trung tâm, đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì các giá trị đạo đức và quy tắc gia đình.

Trong bối cảnh xã hội hiện nay, nhiều người coi việc học hành và thi đỗ là con đường tiến thân, trong khi người thân như vợ, con, và mẹ phải gánh vác trách nhiệm nuôi dưỡng và chăm sóc Họ phải đối mặt với những biến cố xã hội, từ đó bộc lộ tâm trạng và cách ứng phó hiệu quả để vượt qua khó khăn Những khía cạnh đạo đức được nhấn mạnh trong bài viết này liên quan đến tam tòng tứ đức, với các giá trị như hiếu, nghĩa, và tiết, nhằm giúp chồng con đạt được chữ trung quân.

Trong chèo, các thư sinh nói sử xưng danh báo tính, kể "gia thế bần bạc" rồi hát cách nói lên chí tiến thủ:

“Quyết chí tu thân, Công danh chớ vội, nợ nần chớ lo

Khi nên Trời giúp công cho, Làm trai năm liệu bẩy lo, mới hào!”

Họ là trụ cột trong gia đình, với mục tiêu "tu thân" chỉ nhằm vào việc học hành để thi đỗ và trở thành quan chức Trong khi đó, mọi trách nhiệm như chăm sóc cha mẹ, nuôi chồng ăn học, và giáo dục con cái đều được giao phó cho vợ Nói cách khác, những gánh nặng xã hội sẽ đổ lên những người thân, và từ đó, phần đạo đức sẽ quyết định số phận mỗi cá nhân.

Như Thị Phương "lược giắt trâm cài", hát sử câu:

Đạo cha đức mẹ là nguồn cảm hứng cho con, như non Thái thêm xuân Cha vun trồng, mẹ xây đắp nên nhân cách, nhưng cuộc sống không thiếu những khốn khó mà mẹ chồng nàng dâu phải đối mặt trong hành trình "chạy giặc" Tất cả những nỗi niềm này được gói ghém trong bài hát Trần tình, thể hiện tính nhân bản sâu sắc, khiến "quan Thái Tể Trương Viên" cảm động, quỳ xuống nhận mẹ và vợ đang phải hát xẩm kiếm sống trong cảnh cơ cực.

Như nàng Châu Long "chẳng quản công phu" "vâng lời chàng đi nuôi bạn ăn học", biết kín đáo đoan tiết với chồng:

Tâm hồn rộng lớn và ý chí kiên cường là những phẩm chất quý báu của người phụ nữ Sau khi Lưu Bình hoàn thành tâm nguyện và trở về bên Dương Lễ, hình ảnh người phụ nữ với "dạ sắt gan vàng" đã trở nên nổi bật, thể hiện sự kiên trì và quyết tâm trong cuộc sống.

Như chàng Kim Nhan, vừa nghe Xá Lại báo tin thi đỗ, đã ngẩng cao đầu dõng dạc nói lối (hơi tuồng) câu nửa Hán nửa Nôm:

“Thiếu niên sơ đăng lệ Hoàng gia đắc ý hồi

Võ môn tam cấp lãng, Bình địa nhất thanh lôi

Tôi, Kim Nham vừa chiếm tam khôi, Cho bõ lúc thư trung càn khổ ”

Tới khi được vua cho đi trán nhậm một huyệt, chàng ta lại nói lối xưng danh:

“Bảng Thám hoa tay chiếm, Chức Tri huyện quyết phong Luật ngôn giả ngôn công, Thỉnh tụng cầu vô tụng ”

Từ đó, mọi cử chỉ và lời nói của "quan" phải được nghệ nhân thể hiện một cách chững chạc, phù hợp với phong cách diễn tuồng, nhằm tránh bị chỉ trích bởi những người trong nghề.

Nói chung, chiếu chèo xưa được đưa ra trước bà con nông dân những

"mẫu" thư sinh lý tưởng, cố công học tập để tiến thân, thi đỗ xuất chính và khi là

"Quan" xả thân phục vụ đấng quân vương, cùng với những người vợ hiền thục và dâu hiếu nghĩa, dám hy sinh tất cả để chồng con yên tâm theo đuổi học vấn, làm rạng rỡ tông môn Bên cạnh đó, những kẻ thất đức, bất nhân lại ngáng trở con đường của họ, hoặc chỉ đóng vai trò "đối tỷ" để làm nổi bật sự nỗ lực và cống hiến của những người phụ nữ đáng kính này.

17 vai trò chủ chốt trong các tác phẩm nghệ thuật không chỉ nhằm phản ánh cuộc sống mà còn khuyến khích người xem suy ngẫm và hành động Những nhân vật này có thể là tấm gương để người khác noi theo hoặc là bài học cảnh tỉnh, giúp họ nhận ra những hệ quả tiêu cực từ những quyết định sai lầm Điều này được thể hiện rõ ngay từ những câu chuyện đầu tiên của mỗi vở kịch.

“Tiết nghĩa ai bằng nàng Thi Phương Thờ chồng nuôi mẹ trọn đôi đường ”

“Kim Nham có nghĩa lại có nhân Tiết nghĩa Súy Quỳnh, Súy Vân ”

Các tích chèo và bản trò thường nhấn mạnh tầm quan trọng của phẩm chất đạo đức, khẳng định rằng người tốt, những người sống theo lễ nghĩa và đạo đức, dù gặp nhiều khó khăn, cuối cùng sẽ đạt được hạnh phúc và hòa thuận trong gia đình Ngược lại, kẻ xấu, sống trái quy tắc đạo đức, có thể trải qua những khoảnh khắc thỏa mãn, nhưng cuối cùng sẽ phải chịu sự trừng phạt và rơi vào cảnh nghèo hèn.

Trò tôn giáo như Ðức Chúa Ba và Quan Âm ca ngợi những gương Phật Thánh cứu dân, khơi gợi lòng hiếu nghĩa với cha mẹ và khuyến khích mọi người tu nhân tích đức Ngược lại, các trò khai thác chuyện ngoài đời lại đề cao những thư sinh lý tưởng và thục nữ mẫu mực, sử dụng các tiêu chí như tam cương ngũ thường và tam tòng tứ đức để đo lường phẩm cách đạo đức Mục tiêu của những trò này là "khai tâm luyện chí" cho các tầng lớp trung lưu và thấp hơn trong cộng đồng, đồng thời thúc đẩy mọi người sống có đạo đức và ứng xử đúng mực.

Trong nghệ thuật, 18 đức tính cần được đền bù để con người đạt được hạnh phúc, từ đó các tác phẩm cần khai thác những tình tiết và sự kiện vượt lên thực tế cuộc sống Những gì mà cuộc sống hiện tại chưa mang lại cần được biến thành khả năng vươn tới, ngay cả những kẻ phi đạo đức cũng phải được thể hiện rõ nét để khán giả có niềm tin vào tương lai Không chỉ là nông dân chịu ảnh hưởng của tư tưởng thống trị, mà còn là những nho sĩ tự nguyện nhận lấy "thiên chức" của người "quân tử" để giáo hóa cộng đồng, giúp họ hiểu biết hơn.

Ngày đăng: 24/12/2021, 09:13

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Hình ảnh từ vở chèo Quan Âm Thị Kính - YẾU TỐ VĂN HÓA DÂN GIAN TRONG CHÈO
nh ảnh từ vở chèo Quan Âm Thị Kính (Trang 30)

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

w