VẤN ĐỀ 1: Bồi thường thiệt hại do không thực hiện đúng hợp đồng gây ra VẤN ĐỀ 2: Phạt vi phạm hợp đồng VẤN ĐỀ 3: Sự kiện bất khả kháng VẤN ĐỀ 4: Tìm kiếm bản án liên quan đến chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán Mỗi nhóm tìm ít nhất 01 bản án (quyết định) của Tòa án liên quan đến việc chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán mà Tòa án đã áp dụng BLDS 2015.
Theo quy định hiện hành, những thiệt hại vật chất nào do vi phạm hợp đồng gây ra đươc bồi thường? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời
ra đươc bồi thường? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.
Theo Điều 385 Bộ luật Dân sự 2015, hợp đồng được định nghĩa là thỏa thuận giữa các bên nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự Thêm vào đó, khoản 2 Điều 361 Bộ luật cũng quy định rõ về các điều kiện liên quan đến việc thực hiện hợp đồng.
Thiệt hại về vật chất được định nghĩa là tổn thất thực tế có thể xác định, bao gồm thiệt hại tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn và khắc phục thiệt hại, cùng với thu nhập thực tế bị mất hoặc giảm sút Tài sản có thể là tài sản hiện hữu hoặc tài sản sẽ hình thành trong tương lai, nhưng tài sản hình thành trong tương lai cần phải được xác định là chắc chắn sẽ xảy ra.
BLDS có quy định cho phép yêu cầu bồi thường tổn thất về tinh thần do vi phạm hợp đồng Cụ thể, Điều 592 Bộ luật Dân sự quy định rằng, bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại, bao gồm cả tổn thất về tinh thần, nếu vi phạm đó gây ra tổn thất cho bên kia Do đó, việc yêu cầu bồi thường tổn thất tinh thần là hợp pháp và có cơ sở pháp lý rõ ràng.
Theo Điều 361 BLDS 2015, thiệt hại về tinh thần được định nghĩa là tổn thất do xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín và các lợi ích nhân thân khác Điều 584 của Bộ luật này quy định rằng cá nhân có hành vi xâm phạm các quyền và lợi ích hợp pháp của người khác gây thiệt hại phải có trách nhiệm bồi thường, trừ khi có quy định khác trong Bộ luật hoặc luật liên quan.
5 Theo quy định hiện hành, bà Nguyễn có được bồi thường thiệt hại về tổn thất tinh thần không? Vì sao? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời?
Theo Điều 361 BLDS năm 2015, thiệt hại về tinh thần là tổn thất do xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự và các lợi ích nhân thân khác Bà Nguyễn đã trải qua nhiều bất cập sau khi phẫu thuật thẩm mỹ do ông Lại thực hiện, dẫn đến việc mất núm vú phải Trước đó, bà đã phải phẫu thuật nhiều lần vì đau nhức và vết mổ hở Những sự cố này đã gây tổn hại nghiêm trọng đến sức khỏe và các quyền lợi khác của bà Nguyễn, do đó, bà có quyền yêu cầu bồi thường cho tổn thất về tinh thần.
VẤN ĐỀ 2: Phạt vi phạm hợp đồng
Tóm tắt Bản án số 121/2011/KDTM-PT ngày 26/12/2011 của Toà án nhân dân TP.HCM.
Công ty Tân Việt và công ty Tường Long đã ký Hợp đồng kinh tế số 01-10/TL-TV vào ngày 1/10/2010, cùng với phụ lục hợp đồng ngày 7/10/2010, quy định rõ về đơn giá, số lượng, thời hạn giao hàng và phương thức thanh toán Sau khi thanh toán đợt 1, công ty Tường Long yêu cầu thay đổi đơn giá, nhưng Tân Việt không đồng ý Ngày 3/12/2010, Tường Long thông báo hủy bỏ hợp đồng, dẫn đến việc Tân Việt khởi kiện yêu cầu bồi thường 509.769.640 đồng do vi phạm hợp đồng Tòa án sơ thẩm chấp nhận một phần yêu cầu của Tân Việt, buộc Tường Long thanh toán tiền phạt hủy hợp đồng nhưng bác yêu cầu phạt cọc Tại bản án phúc thẩm, Tòa án không chấp nhận kháng cáo của Tân Việt và giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.
Tóm tắt Phán quyết của Trọng tài quốc tế Việt Nam.
Công ty TNHH Thương mại Hà Việt (Nguyên đơn) đã ký Hợp đồng mua bán hàng hóa số FK-JSC 02/2006 với Công ty TNHH Thương mại Shanghai CJS International (Bị đơn) vào ngày 13/09/2006 Theo hợp đồng, bị đơn phải xếp hàng trước ngày 20/10/2006, nhưng đến thời hạn này, bị đơn vẫn chưa thực hiện nghĩa vụ Vào ngày 20/10/2006, ông Jung đã gửi email yêu cầu tăng giá, nhưng nguyên đơn không chấp nhận Đến ngày 27/10/2006, nguyên đơn nhận được email hủy hợp đồng từ ông Michael Jung, Giám đốc điều hành công ty Fako International Nguyên đơn cho rằng bị đơn đã vi phạm hợp đồng, dẫn đến thiệt hại và tổn thất, do đó đã khởi kiện tại Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam.
Điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về phạt vi phạm hợp đồng
Bộ luật Dân sự 2005 đã được sửa đổi để phù hợp với Luật Thương mại 2005 Theo Khoản 2 Điều 422 của Bộ luật Dân sự 2005, mức phạt vi phạm được các bên tự thỏa thuận Trong khi đó, Điều 301 của Luật Thương mại quy định rằng mức phạt cho vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt cho nhiều vi phạm cũng do các bên thỏa thuận, nhưng không được vượt quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm, trừ những trường hợp đặc biệt được quy định tại Điều 266 của Luật này.
Điều 418 BLDS 2015 đã bổ sung cụm từ “trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác”, cho thấy sự khác biệt trong quy định về mức phạt vi phạm hợp đồng Theo BLDS 2005, mức phạt vi phạm được xác định dựa trên nguyên tắc tự do thỏa thuận, nhưng pháp luật thương mại giới hạn mức phạt ở mức 8% Do đó, việc phân biệt giữa các quan hệ pháp luật dân sự và thương mại là cần thiết Trong pháp luật thương mại, mặc dù thiệt hại thực tế có thể lớn hơn mức phạt, bên vi phạm vẫn chỉ phải chịu mức phạt tối đa theo thỏa thuận, miễn là phù hợp với quy định pháp luật Sự bổ sung này trong BLDS 2015 đã tạo điều kiện cho các bên có thể tự do xác định mức phạt vi phạm hợp đồng trong một số trường hợp nhất định.
Mặt khác, mối quan hệ về chế tài phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại cũng không có sự thống nhất Theo quy định của khoản 1 Điều
Theo Điều 307 Luật Thương mại, nếu các bên không có thỏa thuận về việc phạt vi phạm hợp đồng, bên bị vi phạm chỉ có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại Tuy nhiên, trong trường hợp có quy định khác trong Luật này, các bên cần tuân thủ theo quy định đó.
Theo Điều 422 BLDS 2005, nếu các bên không có thỏa thuận về bồi thường thiệt hại, bên vi phạm chỉ phải nộp tiền phạt Tuy nhiên, BLDS 2015 đã bổ sung nội dung để đồng bộ với Luật Thương mại, cụ thể là tại khoản 3 Điều 418, quy định rằng trong trường hợp có thỏa thuận về phạt vi phạm nhưng không có thỏa thuận về việc vừa chịu phạt vừa bồi thường thiệt hại, bên vi phạm chỉ phải chịu phạt vi phạm.
2Bích Ngọc, bài viết Những điểm bất cập của BLDS 2005 cần được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp, TAND tỉnh Khánh Hoà
Bài viết của 3Bích Ngọc nêu rõ những điểm bất cập trong Bộ luật Dân sự 2005 cần được sửa đổi và bổ sung để phù hợp hơn với thực tiễn Trong hợp đồng, mối quan hệ giữa phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại rất cụ thể, và pháp luật dân sự tôn trọng ý chí của các bên liên quan Hai chế tài này sẽ chỉ được áp dụng khi có thỏa thuận rõ ràng trong hợp đồng, nhằm tránh tình trạng yêu cầu bồi thường thiệt hại khi hợp đồng không có quy định cụ thể.
2 Điểm giống nhau giữa đặt cọc và phạt vi phạm hợp đồng.
Về đối tượng: là một khoản tiền mà buộc phải nộp cho một bên trong hợp đồng
Về hình thức: đều được lập thành văn bản.
Về hậu quả pháp lí: bên vi phạm (bên đặt cọc) bị mất một khoản tiền và không căn cứ vào thiệt hại thực tế.
3 Khoản tiền trả trước 30% được Toà án xác định là tiền đặt cọc hay là nội dung của phạt vi phạm hợp đồng?
Trong bản án số 121/2011/KDTM-PT ngày 26/12/2011, Toà án xác định khoản tiền trả trước 30% là tiền đặt cọc và không chấp nhận yêu cầu của Công ty TNHH Sản xuất Thương mại Dịch vụ Tân Việt về việc yêu cầu Công ty TNHH Tường Long thanh toán tiền phạt cọc 406.920.000 đồng Theo quy định tại khoản 2 Điều 358 BLDS 2005, tài sản đặt cọc sẽ được trả lại cho bên đặt cọc hoặc được trừ vào nghĩa vụ trả tiền, và điều kiện để phạt cọc là bên nhận đặt cọc từ chối giao kết hợp đồng Trong trường hợp này, bị đơn không từ chối giao kết mà đã thực hiện hợp đồng bằng việc giao hàng cho nguyên đơn sau khi nhận tiền cọc, do đó yêu cầu phạt cọc của nguyên đơn không được Toà án chấp nhận.
4 Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án liên quan đến khoản tiền trả trước 30%.
Cách giải quyết của Tòa án chưa hợp lý và thiếu thống nhất trong cách giải quyết.
Tòa án xác định khoản tiền trả trước 30% là tiền đặt cọc nhằm đảm bảo việc thực hiện hợp đồng, nhưng cũng nhận định rằng bị đơn không từ chối thực hiện hợp đồng Theo thỏa thuận, Công ty Tân Việt phải thanh toán 30% giá trị đơn hàng cho Công ty Tường Long, được xem là khoản tiền cho đợt giao hàng đầu tiên Theo quy định tại khoản 2 Điều 328 BLDS 2015, nếu hợp đồng được thực hiện, tài sản đặt cọc sẽ được trả lại hoặc trừ vào nghĩa vụ thanh toán Nếu bên mua từ chối thực hiện hợp đồng, khoản tiền 30% sẽ thuộc về bên bán.
Hai bên đã tiến hành thực hiện hợp đồng, vì vậy khoản tiền 30% cần phải được hoàn trả cho bên mua và không được sử dụng để thanh toán cho giá trị của đơn hàng đầu tiên.
5 Trong Quyết định của Trọng tài, mức phạt vi phạm hợp đồng được giới hạn như thế nào?
Theo Quyết định của Trọng tài, mức phạt hợp đồng không được vượt quá 8% giá trị hợp đồng, như được nêu rõ trong đoạn: “Thỏa thuận phạt 30% giá trị hợp đồng không phù hợp với quy định của Luật Thương mại Việt Nam năm 2005, do đó điều khoản này vô hiệu phần mức phạt cao hơn 8% giá trị hợp đồng.” Do đó, bị đơn phải thanh toán cho nguyên đơn khoản tiền phạt hợp đồng là 2.7800 USD, tương đương với 8% giá trị hợp đồng.
So với văn bản, mức giới hạn phạt vi phạm trong Quyết định có thuyết phục không? Vì sao?
HĐTT quyết định giới hạn mức phạt vi phạm là 8% giá trị của hợp đồng là hợp lý
Theo Điều 422 khoản 2 Bộ luật Dân sự 2005, mức phạt vi phạm trong các quan hệ dân sự được xác định dựa trên thỏa thuận giữa các bên Tuy nhiên, Điều 301 của Luật Thương mại quy định các điều khoản khác liên quan đến mức phạt trong các giao dịch thương mại.
Theo quy định năm 2005, mức phạt cho vi phạm nghĩa vụ hợp đồng không được vượt quá 8% giá trị phần nghĩa vụ bị vi phạm, trừ những trường hợp đặc biệt được nêu trong Điều luật liên quan.
Có sự mâu thuẫn giữa hai văn bản pháp lý trong việc điều chỉnh vấn đề này theo điều 266 của Luật Do đó, cần làm rõ hợp đồng này thuộc sự điều chỉnh của văn bản nào để đảm bảo tính hợp pháp và minh bạch.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật Thương mại 2005, hoạt động mua bán hàng hóa theo hợp đồng số FK-JSC 02/2996 được xác định là hoạt động thương mại và thuộc sự điều chỉnh của Điều 301 Luật Thương mại 2005 Do đó, thỏa thuận giữa các bên về mức phạt hợp đồng là 30% giá trị hợp đồng không hợp lệ HĐTT đã giới hạn mức phạt ở mức 8%, phù hợp với quy định tối đa.
Trong pháp luật dân sự và thương mại, việc phạt vi phạm hợp đồng có thể được kết hợp với bồi thường thiệt hại nếu các bên không có thỏa thuận rõ ràng về vấn đề này Căn cứ pháp lý cho việc này được quy định trong Bộ luật Dân sự và các luật liên quan, cho phép bên bị vi phạm yêu cầu cả hai hình thức xử lý vi phạm nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình.
Trong lĩnh vực pháp luật dân sự, việc phạt vi phạm hợp đồng không thể được kết hợp với bồi thường thiệt hại trừ khi các bên có thỏa thuận rõ ràng về vấn đề này.
Theo khoản 3 Điều 418 Bộ luật Dân sự 2015, các bên có quyền thỏa thuận rằng bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm mà không cần bồi thường thiệt hại, hoặc có thể đồng thời chịu phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại.
Theo quy định của Bộ luật Dân sự, trong trường hợp các bên có thỏa thuận về phạt vi phạm hợp đồng nhưng không đồng ý về việc áp dụng cả phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại, thì bên vi phạm chỉ phải chịu phạt vi phạm Điều này cho thấy phạt vi phạm hợp đồng chỉ có thể được kết hợp với bồi thường thiệt hại nếu các bên đã có thỏa thuận rõ ràng về vấn đề này.
Theo Điều 307, khoản 2 của Luật Thương mại 2005 sửa đổi, các bên có thể thỏa thuận về việc phạt vi phạm Bên bị vi phạm có quyền áp dụng cả chế tài phạt và yêu cầu bồi thường thiệt hại, trừ khi có quy định khác trong luật Điều này cho thấy rằng việc kết hợp giữa phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại là hoàn toàn hợp pháp theo Luật Thương mại.
8 Trong Quyết định trọng tài, phạt vi phạm có được kết hợp với bồi thường thiệt hại không? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời?
Trong Quyết định trọng tài, việc phạt vi phạm được kết hợp với bồi thường thiệt hại Theo Điều 301 Luật Thương mại, bên bị thiệt hại có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại thực tế, nhưng mức bồi thường tối đa đã được thỏa thuận là 30% tổng giá trị hợp đồng Việc cho phép bồi thường cao hơn sẽ gây bất ngờ cho Bị đơn HĐTP cho rằng có thể xem xét bồi thường thiệt hại thực tế cho Nguyên đơn, tuy nhiên tổng mức bồi thường và khoản phạt vi phạm không được vượt quá 30% giá trị hợp đồng.
9 Điểm giống và khác nhau giữa phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại do không thực hiện đúng hợp đồng. Điểm giống:
- Là biện pháp chế tài mà luật dân sự quy định để áp dụng cho các trường hợp vi phạm hợp đồng.
- Cơ sở để áp dụng hai biện pháp này là phải có hành vi vi phạm hợp đồng trên thực tế và phải có lỗi của bên vi phạm.
- Mục đích chung của việc quy định cũng như áp dụng biện pháp này là nhằm ngăn ngừa sự vi phạm hợp đồng.
Tiêu chí Phạt vi phạm hợp đồng Bồi thường thiệt hại do không thực hiện đúng hợp đồng
Phải có sự thỏa thuận của các chủ thể về việc áp dụng biện pháp phạt hợp đồng.
Không cần có thiệt hại do hành vi vi phạm cũng có
Không cần có sự thỏa thuận.
Biện pháp này sẽ được áp dụng khi có hành vi vi phạm gây ra thiệt hại cho chủ thể bị vi phạm trên thực tế thể áp dụng
Ngăn ngừa vi phạm Khắc phục hậu quả thiệt hại do vi phạm
Mức độ thiệt hại về vật chất của người bị áp dụng
Do thỏa thuận của các bên.
Tối đa không quá 5% - 8% giá trị phần hợp đồng bị vi phạm
Mức độ thiệt hại được xác định dựa trên cả thiệt hại thực tế và trực tiếp do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra Ngoài ra, thiệt hại còn bao gồm các khoản lợi mà bên bị vi phạm lẽ ra được hưởng nếu không có hành vi vi phạm xảy ra.
10 Theo văn bản, khoản tiền do kết hợp phạt vi phạm với bồi thường thiệt hại có bị giới hạn không? Vì sao?
Theo quy định tại văn bản 4, khoản tiền phạt vi phạm hợp đồng kết hợp với bồi thường thiệt hại không bị giới hạn, vì việc này do các bên tự thỏa thuận Các bên có quyền tự do xác định các điều khoản phạt kết hợp phù hợp với lợi ích của mình mà không có sự can thiệp của Nhà nước Nếu không có thỏa thuận cụ thể, chỉ có thể áp dụng phạt vi phạm, điều này có thể dẫn đến việc bên bị vi phạm chịu thiệt hại lớn hơn mức phạt đã thỏa thuận.
Trong Quyết định của Trọng tài, việc xác định khoản tiền phạt vi phạm kết hợp với bồi thường thiệt hại có thể bị giới hạn hay không là một vấn đề quan trọng Điều này cần được xem xét kỹ lưỡng để đảm bảo tính công bằng và hợp lý trong quyết định Các giải pháp khả thi cho vấn đề này có thể bao gồm việc áp dụng các quy định pháp lý hiện hành, cân nhắc đến tính chất của vi phạm và mức độ thiệt hại thực tế.
Theo Quyết định của Trọng tài, khoản tiền phạt vi phạm kết hợp với bồi thường thiệt hại sẽ bị giới hạn Cụ thể, trong Quyết định có nêu rõ: “Tuy nhiên, Điều 301 Luật…”
Theo Điều 307 của Văn bản hợp nhất số 03-VBHN-VPQH, nếu các bên không thỏa thuận về việc phạt vi phạm, bên bị vi phạm chỉ có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại, trừ khi có quy định khác trong Luật.
Những điều kiện để một sự kiện được coi là bất khả kháng? Và cho biết các bên có thể thỏa thuận với nhau về trường hợp có sự kiện bất khả kháng không? Nêu rõ cơ sở
có thể thỏa thuận với nhau về trường hợp có sự kiện bất khả kháng không? Nêu rõ cơ sở khi trả lời.
Một sự kiện được xem là bất khả kháng khi thỏa mãn ba điều kiện: đó là sự kiện khách quan, xảy ra ngoài ý chí của bên vi phạm; bên vi phạm không thể lường trước được sự kiện này; và bên vi phạm không thể khắc phục hậu quả dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả thi.
Theo Khoản 2 Điều 351 Bộ luật Dân sự 2015, nếu các bên không thực hiện đúng nghĩa vụ dân sự do sự kiện bất khả kháng, họ sẽ không phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ khi có thỏa thuận khác hoặc quy định khác của pháp luật.
Theo Khoản 2 Điều 584 Bộ luật Dân sự 2005, người gây thiệt hại không phải bồi thường nếu thiệt hại xảy ra do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại, trừ khi có thỏa thuận khác hoặc quy định khác của pháp luật.
Dựa trên hai điều khoản đã đề cập, có thể khẳng định rằng các bên có quyền thỏa thuận với nhau trong trường hợp xảy ra sự kiện bất khả kháng.
2 Những hệ quả pháp lý trong trường hợp hợp đồng không thể thực hiện được do sự kiện bất khả kháng trong BLDS và Luật Thương mại sửa đổi.
Hệ quả pháp lý trong trường hợp hợp đồng không thực hiện được do sự kiện bất khả kháng trong BLDS:
6 Lê Thị Diễm Phương, Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Nxb Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2017, tr.365
Khi xảy ra sự kiện bất khả kháng, bên có nghĩa vụ sẽ được miễn trách nhiệm nếu không thể thực hiện nghĩa vụ đúng hạn hoặc đầy đủ Đồng thời, thời hạn thực hiện hợp đồng cũng có thể được kéo dài nếu việc thực hiện bị chậm trễ do sự kiện bất khả kháng.
Nếu sự kiện bất khả kháng kéo dài hoặc gây ra hậu quả nghiêm trọng, dẫn đến việc thực hiện hợp đồng không còn lợi ích cho các bên, thì các bên có quyền chấm dứt hợp đồng.
Trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thể thực hiện nghĩa vụ dân sự do sự kiện bất khả kháng, họ sẽ không phải chịu trách nhiệm dân sự Tuy nhiên, điều này không áp dụng nếu có thỏa thuận khác giữa các bên hoặc nếu pháp luật có quy định khác.
Theo Điều 294 của Luật Thương mại sửa đổi, trong trường hợp hợp đồng không thể thực hiện do sự kiện bất khả kháng, bên vi phạm sẽ được miễn trách nhiệm pháp lý.
Trong trường hợp số hàng trên có bị hư hỏng, cần phân tích các điều kiện để xác định sự kiện bất khả kháng Sự kiện bất khả kháng thường bao gồm các yếu tố như thiên tai, chiến tranh, hoặc các sự kiện ngoài tầm kiểm soát, ảnh hưởng đến khả năng bảo quản và vận chuyển hàng hóa Việc xác định rõ ràng nguyên nhân hư hỏng sẽ giúp xác minh trách nhiệm và quyền lợi của các bên liên quan.
Số hàng trên có bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng.
Sự kiện bất khả kháng được định nghĩa bởi ba tiêu chí chính: nó phải xảy ra một cách khách quan, không thể dự đoán trước và không thể khắc phục, ngay cả khi đã áp dụng tất cả các biện pháp cần thiết và khả thi.
1 Tàu bị gió nhấn chìm dẫn đến hỏng toàn bộ tài sản Đây là một sự kiện xảy ra một cách khách quan.
2 Đây là sự kiện “không thể lường trước được” do thế giới khách quan tác động diễn ra ngoài ý chí chủ quan của con người.
7Khoản 1 Điều 156 Bộ luật Dân sự 2015
Bản án không làm rõ liệu việc tàu chìm làm hư hỏng toàn bộ hàng hóa có thực sự là sự kiện "không thể khắc phục được" hay không Nếu hàng hóa có thể khắc phục, thì đây không được coi là sự kiện bất khả kháng; ngược lại, nếu hàng hóa không thể khắc phục, thì đây sẽ được xem là sự kiện bất khả kháng Việc bên vận chuyển biết rõ thiệt hại có thể tránh được nhưng vẫn để xảy ra thiệt hại là điều không hợp lý.
Nếu hàng hóa bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng, anh Văn không phải bồi thường cho anh Bình về thiệt hại này Căn cứ theo Bộ luật Dân sự Việt Nam, điều 156 quy định rõ về trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp xảy ra sự kiện bất khả kháng, cho thấy rằng bên bị thiệt hại không có quyền yêu cầu bồi thường khi sự việc nằm ngoài khả năng kiểm soát của bên gây ra thiệt hại.
Nếu hàng hóa bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng, anh Văn không phải bồi thường cho anh Bình Theo khoản 2 Điều 351 BLDS 2015, bên có nghĩa vụ không thực hiện đúng nghĩa vụ do sự kiện bất khả kháng sẽ không phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ khi có thỏa thuận khác hoặc quy định pháp luật khác.
Nếu hàng hóa bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng và anh Văn bồi thường cho anh Bình giá trị hàng hóa bị hư hỏng, câu hỏi đặt ra là liệu anh Văn có nhận được khoản thanh toán từ Công ty bảo hiểm hay không Để trả lời, cần xem xét cả văn bản pháp lý liên quan và thực tiễn xét xử trong các trường hợp tương tự.
Theo khoản 2 Điều 580 BLDS 2005, anh Văn sẽ được công ty Bảo hiểm hoàn trả số tiền bồi thường nếu anh thực hiện đúng các thủ tục và yêu cầu của công ty, tuân thủ hợp đồng bảo hiểm, và thiệt hại mà anh bồi thường phát sinh từ sự kiện bất khả kháng.