Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở các tỉnh Bắc Trung Bộ. Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở các tỉnh Bắc Trung Bộ. Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở các tỉnh Bắc Trung Bộ. Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở các tỉnh Bắc Trung Bộ. Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở các tỉnh Bắc Trung Bộ. Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở các tỉnh Bắc Trung Bộ.
Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1 Nguồn tư liệu nghiên cứu
79 - Nguồn tài liệu thành văn
80 + Tài liệu đã công bố
Bài viết bao gồm các văn kiện của Đảng, tác phẩm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các lãnh đạo Đảng, Nhà nước; sách lịch sử Đảng bộ các tỉnh, thành phố, thị xã, huyện ở Bắc Trung Bộ; công trình nghiên cứu đã xuất bản trong và ngoài nước; luận án, luận văn đã bảo vệ thành công; cùng các bài viết đăng trên báo, tạp chí về Cách mạng tháng Tám năm 1945, tập trung vào cả nước và đặc biệt là các tỉnh Bắc Trung Bộ.
Các nghị quyết, chỉ thị, kế hoạch và thông cáo liên quan đến Cách mạng tháng Tám năm 1945 của Đảng và Việt Minh, cùng với hồi ký chưa công bố và tài liệu của thực dân Pháp, đều có liên quan đến phong trào cách mạng ở Bắc Trung Bộ Những tài liệu này được lưu trữ tại các cơ quan như Văn phòng Tỉnh ủy các tỉnh từ Thanh Hóa đến Thừa Thiên Huế, Thư viện, Bảo tàng, Kho Lưu trữ Viện Lịch sử Đảng, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I tại Hà Nội, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia IV tại Đà Lạt và Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng Tác giả coi đây là nguồn tài liệu quan trọng để hoàn thành nhiệm vụ của luận án.
- Nguồn tài liệu khảo sát điền dã
Tác giả luận án đã tiến hành khảo sát thực địa tại một số di tích lịch sử và phỏng vấn các nhân chứng để xác minh các sự kiện liên quan đến Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở các tỉnh Bắc Trung Bộ.
Phương pháp luận của luận án dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng Cộng sản Việt Nam và tư tưởng Hồ Chí Minh, tập trung vào bạo lực cách mạng, xây dựng Đảng, vận động quần chúng và xây dựng lực lượng vũ trang, đặc biệt là trong bối cảnh khởi nghĩa giành chính quyền của Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Trong luận án, chúng tôi áp dụng phương pháp lịch sử, phương pháp lôgic và các phương pháp chuyên ngành như miêu tả, phân tích và tổng hợp để khôi phục bức tranh lịch sử của Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Bắc Trung Bộ Chúng tôi cũng sử dụng phương pháp thống kê để định lượng các sự kiện lịch sử nổi bật liên quan đến tổ chức Đảng, quần chúng, số lượng đảng viên và tù chính trị tại các địa phương, từ đó đưa ra những nhận xét và đánh giá về các vấn đề lịch sử liên quan Bên cạnh đó, tác giả còn áp dụng phương pháp so sánh để đối chiếu phong trào cách mạng giữa các tỉnh trong khu vực và giữa Bắc Trung Bộ với các tỉnh khác.
Đồng bằng Bắc Bộ, Nam Trung Bộ và Nam Bộ là những khu vực quan trọng trong việc nghiên cứu lịch sử Các phương pháp liên ngành như điền dã và phỏng vấn nhân chứng được áp dụng để tìm hiểu và xác minh các nhân vật cũng như sự kiện lịch sử.
Đóng góp của luận án
- Thứ nhất, tái hiện toàn cảnh bức tranh lịch sử về Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở các tỉnh Bắc Trung Bộ.
Nội dung nghiên cứu chỉ ra đặc điểm của Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở các tỉnh Bắc Trung Bộ khi so sánh với các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ, các tỉnh ven biển Nam Trung Bộ và các tỉnh Nam Bộ Bài viết nêu rõ ưu điểm và hạn chế của cuộc cách mạng, đồng thời phân tích vai trò và những bài học kinh nghiệm quý giá từ sự kiện lịch sử này.
1945 ở các tỉnh Bắc Trung Bộ.
- Thứ ba, cung cấp hệ thống tư liệu tương đối hoàn chỉnh về Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở các tỉnh Bắc Trung Bộ.
Luận án là tài liệu tham khảo quan trọng cho nghiên cứu và học tập về Cách mạng tháng Tám năm 1945 tại các bậc đại học và cao đẳng Nó đóng góp vào việc giáo dục truyền thống yêu nước và cách mạng cho nhân dân ở Bắc Trung Bộ, đồng thời là nguồn tài liệu hữu ích giúp giáo viên trung học phổ thông biên soạn và giảng dạy lịch sử địa phương trong chương trình học.
Bố cục của luận án
Vấn đề nghiên cứu
- Các tỉnh Bắc Trung Bộ n m dọc theo ven biển, từ 16 0 đến 20 0 30 ’ vĩ độ Bắc và từ 106 0 02 ’ đến 108 0 02 ’ kinh độ Đông bao gồm các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ
Khu vực Bắc Trung Bộ bao gồm các tỉnh An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên, với tổng diện tích đất liền khoảng 49.600 km² Vùng này nổi bật với đường bờ biển dài hơn 632 km và có 27 hòn đảo lớn nhỏ Trong số đó, các đảo tiêu biểu như Cồn Cỏ (Quảng Trị) với diện tích 4 km², Hòn Ngư (Nghệ An) với diện tích 2,5 km² và Sơn Dương (Hà Tĩnh) cũng có diện tích đáng chú ý.
Cách mạng tháng Tám năm 1945, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, là cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân quan trọng Sự thành công của cuộc cách mạng này đã dẫn đến sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào ngày 2-9-1945, đánh dấu một thời kỳ mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công là thành quả của 15 năm vận động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, phản ánh sự kết hợp giữa các yếu tố chủ quan và khách quan.
Chiến tranh thế giới thứ hai đã làm suy yếu chủ nghĩa đế quốc, trong khi cuộc chiến đấu của nhân dân Liên Xô và lực lượng dân chủ đã từng bước đánh bại các lực lượng phát xít Đức, Ý và Nhật Điều này tạo ra những điều kiện thuận lợi cho cuộc khởi nghĩa giành chính quyền Lực lượng phát xít Nhật tại Đông Dương và Chính phủ Trần Trọng Kim rơi vào trạng thái hoang mang và tê liệt, mở ra thời cơ cho cuộc khởi nghĩa.
Đảng Cộng sản Đông Dương đã nhanh chóng nắm bắt cơ hội "ngàn năm có một" để phát động toàn dân nổi dậy khởi nghĩa, từ đó giành được thắng lợi nhanh chóng với ít đổ máu Tuy nhiên, để phát huy được những điều kiện khách quan này, cần có sự kết hợp với các yếu tố chủ quan.
Đảng Cộng sản Đông Dương, dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh, đã chuyển hướng chỉ đạo cách mạng dựa trên Cương lĩnh đầu tiên (2-1930) thông qua các nghị quyết của Hội nghị Trung ương vào tháng 11-1939, tháng 11-1940 và Hội nghị Trung ương 8 (5-1941) Đường lối này đã khẳng định tầm quan trọng của việc giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, thể hiện sự đúng đắn và sáng tạo, phù hợp với thực tế của Việt Nam.
Trong bối cảnh phát triển toàn cầu, Đảng Cộng sản Đông Dương đã khơi dậy và phát huy truyền thống đoàn kết chống ngoại xâm của dân tộc, đồng thời khuyến khích tinh thần yêu nước của nhân dân Điều này đã dẫn đến sự bùng nổ phong trào yêu nước và cách mạng của quần chúng trong giai đoạn 1930 - 1935, cùng với phong trào dân chủ mạnh mẽ.
Từ năm 1936 đến 1939, cuộc vận động giải phóng dân tộc diễn ra mạnh mẽ từ 1939 đến 1945 với sự chuẩn bị khẩn trương và toàn diện Đảng Cộng sản Đông Dương, Mặt trận Việt Minh và lãnh tụ Hồ Chí Minh đã tập trung xây dựng lực lượng cách mạng, trước hết là lực lượng chính trị của quần chúng Dựa trên nền tảng này, lực lượng vũ trang cũng dần được hình thành Hai lực lượng cách mạng này được Đảng Cộng sản Đông Dương sử dụng một cách hợp lý, kết hợp giữa chính trị và vũ trang, từ khởi nghĩa từng phần đến tổng khởi nghĩa khi có thời cơ, nhằm giành chính quyền trên toàn quốc.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 là sự kiện lịch sử trọng đại, đánh dấu sự kết thúc ách thống trị của phát xít Nhật và chế độ phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Sự kiện này đã giúp nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ trở thành chủ nhân đất nước, chuyển đổi Việt Nam từ thuộc địa thành một quốc gia độc lập tự do Đảng Cộng sản Đông Dương đã trở thành lực lượng lãnh đạo chính quyền toàn quốc, đưa dân tộc Việt Nam vào hàng ngũ các dân tộc tiên phong trên thế giới Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám không chỉ mang lại niềm tự hào cho giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam mà còn cho các dân tộc bị áp bức khác, khẳng định rằng một đảng mới chỉ 15 tuổi đã lãnh đạo thành công cách mạng và nắm quyền lực toàn quốc lần đầu tiên trong lịch sử.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 có đặc điểm nổi bật là tính toàn quốc kết hợp với những nét đặc trưng của từng địa phương Sự đa dạng về điều kiện tự nhiên, dân cư và kinh tế - xã hội ở các vùng miền đã tạo ra nhiều hình thức tổ chức hoạt động phong phú trong cuộc vận động này, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương.
Theo phân chia khu vực hành chính, lịch sử nghiên cứu bao gồm toàn quốc, khu vực, tỉnh, huyện, xã Luận án tập trung vào cuộc vận động Cách mạng tháng Tám năm 1945 tại khu vực Bắc Trung Bộ, nơi có những đặc điểm lịch sử, kinh tế, xã hội riêng biệt so với các khu vực khác như đồng bằng Bắc Bộ, trung du miền núi Bắc Bộ, duyên hải Nam Trung Bộ, Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ Sự đa dạng này tạo nên tính phong phú của Cách mạng tháng Tám, thể hiện qua quá trình chuẩn bị, thời gian giành chính quyền, phương thức thực hiện, hình thái vận động và sự sáng tạo của các địa phương trong việc áp dụng đường lối của Đảng Ví dụ, ở Hà Nội và Huế, hình thái khởi nghĩa giành chính quyền diễn ra từ nông thôn vào thành thị, trong khi ở Sài Gòn, nó lại diễn ra từ thành thị về nông thôn.
- Về vấn đề địa giới Bắc Trung Bộ, theo Hiệp ước Patenôtre ngày 6-6-
Năm 1884, vùng Trung Kỳ (L'Annam) bao gồm các tỉnh từ Thanh Hóa đến Bình Thuận Theo phân chia của người Pháp, Trung Kỳ được chia thành ba khu vực: Bắc Trung Kỳ, Trung Trung Kỳ và Nam Trung Kỳ.
Khu vực Annam bao gồm các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh; Trung Trung Kì gồm Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam và Quảng Ngãi; trong khi Nam Trung Kì bao gồm Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận và Bình Thuận Trong quá trình lãnh đạo phong trào cách mạng tại miền Trung, Xứ ủy Trung Kì thiết lập hai trụ sở: trụ sở chính tại thành phố Vinh (Nghệ An) để chỉ đạo chung các tỉnh Trung Kì và các tỉnh Bắc Trung Kì, và trụ sở thứ hai tại thành phố Đà Nẵng (Quảng Nam) để trực tiếp chỉ đạo các tỉnh Nam Trung Kì.
- Cuộc vận động Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở các tỉnh Bắc Trung
Bài viết nhấn mạnh vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương và Xứ ủy Trung Kỳ trong phong trào đấu tranh cách mạng tại các tỉnh Để làm rõ sự lãnh đạo của Xứ ủy, luận án phân chia Trung Kỳ thành hai khu vực, từ đó phản ánh ảnh hưởng của tổ chức Đảng địa phương trong việc định hình các hoạt động cách mạng.
Từ tháng 6-1884 đến tháng 3-1945, chính quyền thực dân Pháp gọi vùng này là Bắc Trung Kì, sau đó từ tháng 4-1945, Chính phủ Trần Trọng Kim đổi tên thành Bắc Trung Bộ Theo Hiến pháp năm 1946 của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, được Quốc hội thông qua vào ngày 9-11-1946, Việt Nam được tổ chức hành chính thành nhiều đơn vị khác nhau.
- 3 bộ: Bắc, Trung, Nam Để đảm bảo sự thống nhất và phù hợp với tên gọi hiện nay, trong luận án, chúng tôi dùng tên gọi Bắc Trung Bộ.
Tình hình nghiên cứu
Cách mạng tháng Tám năm 1945 là một chủ đề khoa học hấp dẫn, thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu Nhiều công trình đã được công bố, khám phá các khía cạnh khác nhau của Cách mạng tháng Tám, đặc biệt là ở các tỉnh Bắc Trung Bộ.
1.2.1 Những công trình về Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam
1.2.1.1 Các công trình nghiên cứu trong nước
Nhân kỷ niệm một năm Cách mạng tháng Tám 1945, Trường Chinh đã phát hành tác phẩm “Cách mạng tháng Tám” vào năm 1946, tập hợp những bài viết trên báo “Sự thật” Tác phẩm này không chỉ tái hiện cuộc đấu tranh vĩ đại của dân tộc mà còn phân tích tính chất và ý nghĩa lịch sử của sự kiện Theo tác giả, ưu điểm nổi bật của Cách mạng tháng Tám là sự chuẩn bị chu đáo, tính mau lẹ và kịp thời, cùng với sự tham gia của toàn dân Tuy nhiên, tác phẩm cũng chỉ ra những nhược điểm như tinh thần kiên quyết không đồng đều, việc không triệt để tước vũ khí quân đội Nhật, thiếu quyết liệt trong việc trấn áp bọn phản cách mạng, và không chiếm được nhà ngân hàng.
Năm 1946, Nhà xuất bản Sự thật phát hành cuốn sách “Chặt xiềng”, chứa đựng nhiều tư liệu lịch sử quan trọng Cuốn sách ghi lại các sự kiện từ cuộc đảo chính của Nhật đối với Pháp vào ngày 9 tháng 3 năm 1945 cho đến thành công của Cách mạng tháng Tám trên toàn quốc Những tài liệu này cung cấp cái nhìn sâu sắc về bối cảnh lịch sử của thời kỳ này.
“Chặt xiềng” thể hiện những phân tích chính xác của Đảng Cộng sản Đông Dương về tình hình cách mạng, đồng thời khẳng định sự kiên quyết trong việc lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa giành chính quyền khi thời cơ đến Công trình này có giá trị tư liệu lớn, góp phần vào việc hiểu rõ bối cảnh lịch sử và cách mạng của đất nước.
Năm 1957, Nhà xuất bản Văn Sử Địa đã phát hành công trình "Cách mạng cận đại Việt Nam: Tài liệu tham khảo lịch sử" do Trần Huy Liệu biên soạn, đây là nghiên cứu đồ sộ và công phu nhất về lịch sử Việt Nam cận đại, đặc biệt là cuộc vận động Cách mạng tháng Tám năm 1945 Các tập 10, 11, 12 của công trình đã khắc họa một cách sinh động bức tranh toàn cảnh về phong trào chống phát xít, chống chiến tranh, cùng với các sự kiện quan trọng như cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kì, binh biến Đô Lương, và cao trào kháng Nhật cứu nước, dẫn đến Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945.
Trong tập 12, các nhà nghiên cứu đã phân tích và đánh giá về cuộc tổng khởi nghĩa trên toàn quốc, đặc biệt là ở các tỉnh Bắc Trung Bộ Họ đã chỉ ra những đặc điểm, nguyên nhân dẫn đến thắng lợi, ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm của Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Năm 1960, Nhà xuất bản Sử học phát hành công trình “Lịch sử Cách mạng tháng Tám” của các tác giả Văn Tạo, Thành Thế Vĩ, Nguyễn Công Bình, với mục tiêu làm rõ bối cảnh lịch sử và kết quả của quá trình chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 Các tác giả đã kế thừa có chọn lọc các thành tựu nghiên cứu trước đó và đặc biệt dành 20 trang để phân tích những đặc điểm nổi bật của cuộc tổng khởi nghĩa này.
"Thống nhất hành động và phản ứng kịp thời là yếu tố quan trọng trong cuộc đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang Thắng lợi chính trị đóng vai trò chủ yếu, thể hiện sự gắn bó chặt chẽ giữa lãnh đạo và quần chúng trong Tổng khởi nghĩa tháng Tám."
Từ nông thôn ra thành thị và từ thành thị về nông thôn là những luận điểm quan trọng giúp tác giả luận án có cái nhìn tổng quan về đặc điểm của Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở các tỉnh Bắc Trung Bộ Những luận điểm này làm nổi bật cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong toàn quốc, góp phần làm rõ hơn bối cảnh lịch sử của sự kiện quan trọng này.
- 1960, Tổ Lịch sử Cách mạng tháng Tám của Viện Sử học đã xuất bản công trình
“Cách mạng tháng Tám - Tổng khởi nghĩa ở Hà Nội và các địa phương” (quyển 1,
Công trình nghiên cứu là kết quả phối hợp giữa các nhà sử học, Ban Tuyên giáo và Hội đồng hương các tỉnh, thành tại Hà Nội, đã tập hợp nguồn tư liệu phong phú, bao gồm nhiều tài liệu nhân chứng và điền dã Diễn biến cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở các địa phương được trình bày cụ thể và sinh động hơn so với các công trình trước đó Tuy nhiên, một số tư liệu chưa được kiểm chứng dẫn đến sai sót trong các sự kiện lịch sử ở một vài địa phương, như cuộc khởi nghĩa ở huyện Tuyên Hóa (Quảng Bình) diễn ra ngày 23-8-1945 nhưng ghi sai ngày 25-8-1945 Dù vậy, công trình vẫn là tài liệu quý giá cho tác giả luận án tham khảo về diễn biến cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở các tỉnh.
Năm 1967, Nhà xuất bản Sự thật đã phát hành hai công trình quan trọng là “Tìm hiểu Cách mạng tháng Tám” và “Tìm hiểu tính chất và đặc điểm của Cách mạng tháng Tám”, góp phần làm rõ những giá trị và đặc trưng của sự kiện lịch sử này.
Hai công trình nghiên cứu đã phân tích sâu sắc quá trình chuẩn bị và diễn biến của cuộc khởi nghĩa giành chính quyền trong toàn quốc, đặc biệt là ở các tỉnh Bắc Trung Bộ, cùng với những nguyên nhân thắng lợi và bài học kinh nghiệm từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 Các tác giả của “Tìm hiểu Cách mạng tháng Tám” khẳng định rằng thắng lợi này là kết quả tất yếu của sự phát triển xã hội, nhờ vào đường lối chính trị đúng đắn của Đảng và vai trò gương mẫu của đảng viên, tạo nên sự gắn bó chặt chẽ giữa Đảng và quần chúng Họ cũng chỉ ra rằng, mặc dù có những điều kiện khách quan thuận lợi, nhưng các công trình chưa đi sâu vào việc phân tích quá trình vận động quần chúng, đặc biệt là vai trò của các tầng lớp trung gian và thanh niên trí thức trong cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở các địa phương.
Năm 1970, Nhà xuất bản Tiền phong đã phát hành công trình “Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập, tự do, vì chủ nghĩa xã hội, tiến lên giành những thắng lợi mới” của Lê Duẩn, trong đó tác giả nêu ra những kinh nghiệm cơ bản của Đảng về cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Công trình phân tích sâu sắc và khoa học các vấn đề liên quan, đồng thời tổng kết những chân lý phổ biến của lý luận cách mạng Việt Nam Đặc biệt, tác giả nhấn mạnh vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương trong thời kỳ tiền khởi nghĩa, cho rằng Đảng đã nhanh chóng tận dụng thời cơ khi Nhật hất cẳng Pháp, phát động cao trào kháng Nhật, cứu nước, động viên quần chúng và phát triển lực lượng chính trị rộng rãi ở cả nông thôn lẫn thành phố, kết hợp với việc xây dựng lực lượng vũ trang để chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã được đề cập một cách toàn diện trong công trình nghiên cứu do Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng ấn hành Tác phẩm này là kết quả của sự hợp tác giữa các nhà khoa học uy tín trong nước, dựa trên những tư liệu và nghiên cứu sâu sắc.
Bài viết làm nổi bật vai trò lãnh đạo cách mạng của Đảng, cùng với sự sáng tạo của Đảng bộ và nhân dân tại các địa phương Đồng thời, tác giả cũng phân tích và đánh giá tầm vóc cũng như ý nghĩa lịch sử của Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu
Nghiên cứu chính sách thống trị của thực dân Pháp, phát xít Nhật và Nam triều tại các tỉnh Bắc Trung Bộ từ năm 1939 đến 1945 cho thấy nhiều vấn đề cần được làm rõ Cụ thể, các thủ đoạn đàn áp khủng bố mạnh mẽ nhằm vào lực lượng cách mạng, cùng với những âm mưu mua chuộc và lôi kéo những cá nhân nhẹ dạ, đã góp phần phá hoại sự đoàn kết trong tổ chức Đảng và khối đại đoàn kết các dân tộc ở Bắc Trung Bộ.
Bộ của thực dân Pháp và phát xít Nhật.
Bài viết tái hiện chi tiết quá trình chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền ở các tỉnh Bắc Trung Bộ năm 1945, nhấn mạnh sự vận dụng đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Đông Dương Nó phân tích quá trình xây dựng và thống nhất tổ chức cơ sở Đảng, cùng với việc hình thành lực lượng chính trị và vũ trang, cũng như việc xác định căn cứ địa Bên cạnh đó, bài viết cũng đề cập đến việc tập dượt quần chúng đấu tranh, đồng thời phân tích những ưu điểm và hạn chế trong quá trình chuẩn bị khởi nghĩa.
Quá trình khởi nghĩa giành chính quyền ở các tỉnh Bắc Trung Bộ cần được làm sáng tỏ qua các khía cạnh như phong trào khởi nghĩa từng phần, việc nhận định tình hình, chớp thời cơ và chủ động đề ra kế hoạch khởi nghĩa Bên cạnh đó, vai trò của tầng lớp thanh niên trí thức trong công cuộc giành chính quyền tại một số địa phương cũng cần được phân tích Cuối cùng, cần rút ra những ưu điểm và hạn chế của Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 ở các tỉnh này để có cái nhìn toàn diện hơn về sự kiện lịch sử quan trọng này.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 nổi bật với quá trình chuẩn bị kỹ lưỡng, hình thái vận động đa dạng và phương thức khởi nghĩa sáng tạo nhằm giành chính quyền Việc xác định rõ những đặc điểm này không chỉ giúp hiểu rõ hơn về sự kiện lịch sử quan trọng này mà còn tạo nền tảng cho việc nghiên cứu và đánh giá vai trò của Cách mạng trong bối cảnh xã hội lúc bấy giờ.
Năm 1945, các tỉnh Bắc Trung Bộ có sự tương đồng với Cách mạng tháng Tám ở các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ, ven biển Nam Trung Bộ và Nam Bộ Bài viết phân tích vai trò quan trọng của Cách mạng tháng Tám năm 1945 tại Bắc Trung Bộ đối với toàn quốc và ảnh hưởng đến sự nghiệp cách mạng của Lào Đồng thời, tác giả rút ra bài học kinh nghiệm từ quá trình chuẩn bị và khởi nghĩa giành chính quyền ở các tỉnh, những kinh nghiệm này có thể áp dụng vào công cuộc xây dựng và phát triển Bắc Trung Bộ hiện nay.
- QUÁ TRÌNH CHUẨN BỊ KHỞI NGHĨA GIÀNH CHÍNH
QUYỀN Ở CÁC TỈNH BẮC TRUNG BỘ
Tình hình các tỉnh Bắc Trung Bộ trước Chiến tranh thế giới thứ hai
2.1.1 Điều kiện tự nhiên, tình hình chính trị, kinh tế, xã hội và truyền thống yêu nước, cách mạng của các tỉnh Bắc Trung Bộ trước năm 1930
Bắc Trung Bộ Việt Nam sở hữu một địa hình đa dạng với rừng núi, trung du, đồng bằng và thềm lục địa Khu vực này nổi bật với nhiều dãy núi chạy ra biển, tạo nên ranh giới tự nhiên giữa các tỉnh qua các đèo Đặc điểm phức tạp của địa hình cũng dẫn đến khí hậu thất thường, ảnh hưởng đến đời sống và sản xuất của người dân nơi đây.
Bắc Trung Bộ nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa với lượng mưa lớn và đồng bằng hẹp ngang, tạo nên hệ thống sông ngòi đặc thù Các con sông chủ yếu chảy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, đi qua nhiều miền địa hình rừng núi, do đó thường ngắn, dốc và có nước chảy xiết Lưu lượng nước của các sông phụ thuộc vào chế độ mưa, với các hệ thống sông chính như sông Mã, sông Cả, sông Gianh, và sông Bồ Hệ thống sông ngòi ở Bắc Trung Bộ có mật độ dày, đóng vai trò quan trọng trong hoạt động dân sinh và quốc phòng.
Dựa vào địa hình hiểm trở và hệ thống sông ngòi, lực lượng kháng chiến đã xây dựng các căn cứ địa và tiến hành chiến tranh du kích hiệu quả Đồng bằng Bắc Trung Bộ đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển phong trào yêu nước và cách mạng, đặc biệt khi đối phương gia tăng hoạt động quân sự.
- 1 Dãy Hoàng Mai (Nghệ An), dãy Hồng Lĩnh (Hà Tĩnh), dãy Hoành Sơn (Quảng Bình), dãy Bạch Mã (Thừa Thiên).
Khủng bố và lực lượng kháng chiến có thể củng cố vị trí ở đồng bằng, nhưng khí hậu nóng ẩm là bất lợi cho đối phương Địa hình đa dạng với rừng núi, trung du, đồng bằng và hệ thống sông ngòi dày đặc tạo điều kiện cho đối phương tiến hành khủng bố, làm cô lập phong trào đấu tranh của nhân dân giữa các vùng Trong cuộc vận động Cách mạng tháng Tám năm 1945, các tỉnh Bắc Trung Bộ thường xuyên mất liên lạc với Xứ ủy Trung Kì và Trung ương Đảng, cho thấy sự liên kết phong trào giữa các tỉnh chưa rõ nét, một phần do điều kiện tự nhiên của khu vực.
2.1.1.2 Tình hình chính trị, kinh tế, xã hội
Khu vực Bắc Trung Bộ có thành phố Huế, thủ phủ của Nam triều và trung tâm đầu não của xứ Trung Kì bảo hộ Triều đình phong kiến do nhà vua lãnh đạo, với hệ thống quan lại, hoàng tộc và 6 bộ, đã trở thành công cụ phục vụ cho chính sách thống trị của thực dân Pháp Mọi hoạt động của triều đình đều bị chi phối bởi Khâm sứ Trung Kì, ảnh hưởng đến chính quyền tại các tỉnh.
Thực dân Pháp đã thiết lập chế độ "bảo hộ", kiểm soát hoàn toàn quyền hành chính và tư pháp, khiến chính quyền phong kiến trở thành bù nhìn Đến tháng 4 năm 1945, Huế trở thành trung tâm của Chính phủ thân Nhật do Trần Trọng Kim lãnh đạo, điều này đã tác động lớn đến quá trình chuẩn bị và giành chính quyền tại địa phương.
- Sau khi cơ bản hoàn thành công cuộc bình định Việt Nam b ng quân sự
(1896), thực dân Pháp tiến hành khai thác thuộc địa với quy mô ngày càng lớn.
Thực dân Pháp đã mở rộng khai thác bằng cách cướp đoạt ruộng đất của nông dân để lập đồn điền, đặc biệt tại Thanh Hóa, nơi họ đã chiếm 24.000 ha ruộng đất, trong đó có hơn 10.000 ha trồng cây cà phê Đến năm 1925, tại Nghệ An, đã có 13 đồn điền của Pháp với tổng diện tích 3.761 ha.
Đến năm 1929, số lượng đồn điền tại Hà Tĩnh đã tăng lên 36 với tổng diện tích 6.934 ha, trong đó có 19 đồn điền của Pháp, lớn nhất là đồn điền Sông Con thuộc Hương Sơn Tại Quảng Bình, vào năm 1925, một số đồn điền nhỏ của tư bản Pháp đã được hình thành Ở Quảng Trị, tư bản Pháp đã chiếm đoạt 6.878 ha đất để lập 10 đồn điền trồng cây công nghiệp và chăn nuôi dọc quốc lộ 9 Địa chủ và quan lại đã lợi dụng sức mạnh của thực dân Pháp để bóc lột nông dân thông qua tô tức và chiếm đoạt đất đai.
Để thúc đẩy sự phát triển nông nghiệp, thực dân Pháp đã triển khai xây dựng một số công trình thủy nông tại Bắc Trung Bộ Trước khi Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra, họ đã hoàn thành hệ thống thủy nông Bái Thượng ở Thanh Hóa.
Hóa) tưới cho 50.000 ha, hệ thống Đô Lương (Nghệ An) tưới cho 35.600 ha, hệ thống Đồng Cạm (Hà Tĩnh) tưới 20.000 ha” [62, tr.91].
Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, tiểu thủ công nghiệp ở Việt Nam đã có nhiều chuyển biến đáng kể, bên cạnh nông nghiệp Ngoài các nghề truyền thống như chế biến gạo và nấu rượu, một số nghề mới như chăn tằm, gốm sứ và dệt tơ lụa đã xuất hiện Theo nghiên cứu của Ch.Robequain, vào giữa những năm 1930, tỉnh Thanh Hóa có khoảng 1.200 khung dệt lụa, chủ yếu tập trung ở hai huyện Thiệu Hóa và Hoằng Hóa Nhiều nghề thủ công gia đình như mộc, điêu khắc, vẽ, chạm, khảm và đan lát cũng đã phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ này.
Sau Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, các ngành kinh tế hiện đại tại Thanh Hóa, Nghệ An đã phát triển mạnh mẽ với sự ra đời của nhiều công ty khai thác và thương mại của Pháp Cảng Bến Thủy, được đánh giá là quan trọng chỉ sau cảng Hải Phòng và Sài Gòn, có tiềm năng lớn với vai trò là "chìa khóa" kết nối Lào qua hai tuyến đường chính Điều này cho thấy Bến Thủy không chỉ có vị trí địa lý thuận lợi mà còn là trung tâm giao thông quan trọng, góp phần thúc đẩy kinh tế khu vực.
Tư bản Pháp đã nhanh chóng phát triển cơ sở công thương nghiệp tại Vinh - Bến Thủy, với hàng chục nhà máy được thành lập vào năm 1924, bao gồm các ngành như diêm, cưa, sửa chữa xe lửa, điện, cá hộp và rượu Trong số đó, một số nhà máy lớn, như Nhà máy sửa chữa xe lửa Trường Thi và Nhà máy diêm, đã thu hút hàng ngàn công nhân Đặc biệt, Công ti vô danh rừng và diêm, tập đoàn tư bản lớn nhất miền Trung, đã đầu tư mạnh mẽ vào Nghệ An, nơi họ không chỉ sản xuất diêm và khai thác gỗ, mà còn kinh doanh hàng nhập khẩu và mở đồn điền để xuất khẩu lâm sản quý.
Tại các tỉnh Thanh Hóa, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên, thực dân Pháp đã xây dựng nhiều cơ sở hạ tầng và nhà máy phục vụ nhu cầu sinh hoạt đô thị, bao gồm nhà máy điện, nhà máy nước, nhà máy rượu, và xưởng chế biến nước mắm.
Máy vôi thủy Long Thọ được xây dựng và mở rộng song song với việc khai thác mỏ, trong đó tư bản Pháp đã độc chiếm 35 khu mỏ tại Thanh Hóa Tại Nghệ An, số lượng đơn xin khai thác mỏ đã tăng từ 17 đơn vào năm 1923 lên 71 đơn vào năm 1926.
Tư bản Pháp độc quyền kinh doanh nhiều mặt hàng thiết yếu như rượu, muối và thuốc phiện, trong đó rượu Fontaine được phân bổ theo đầu người, buộc các làng phải tiêu thụ hết sản phẩm Chỉ riêng tỉnh Nghệ An, năm 1912 phải tiêu thụ 13.269 lít, và đến năm 1927 con số này đã vượt quá 1 triệu lít Đối với muối, người dân phải bán toàn bộ sản phẩm cho các sở thương chánh với giá mua vào chỉ 0,62 đồng/1 tạ, nhưng bán ra lên tới 3,62 đồng/1 tạ ở đồng bằng và 6,26 đồng/1 tạ ở miền núi, cho thấy thực dân Pháp đã lợi dụng muối như một công cụ để kiểm soát người dân tộc miền núi.
Quá trình chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền
2.2.1 Bối cảnh lịch sử và sự chuyển hướng chỉ đạo cách mạng Việt Nam của Đảng
2.2.1.1 Tình hình trong nước và các tỉnh Bắc Trung Bộ
Ngay sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, thực dân Pháp đã tiến công vào phong trào cách mạng Việt Nam, với mục tiêu tiêu diệt Đảng Cộng sản Đông Dương Vào ngày 28-9-1939, Toàn quyền Đông Dương Catroux đã ban hành sắc lệnh cấm các tổ chức cộng sản và giải tán các tổ chức nghiệp đoàn.
Trong tuyên bố ngày 4-1-1940 tại Hội đồng Chính phủ Đông Dương, Catroux nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tiêu diệt các tổ chức cộng sản để đảm bảo sự ổn định và trung thành của Đông Dương với nước Pháp Ông khẳng định rằng chiến tranh buộc chúng ta phải hành động quyết liệt và không khoan nhượng, bởi sự thắng lợi là điều không thể thiếu trong cuộc đấu tranh này.
Thực dân Pháp đã xây dựng nhiều nhà tù và trại giam ở những vùng xa xôi, nhằm giam giữ và tra tấn những người yêu nước và tham gia cách mạng.
- Chính quyền thuộc địa thực hiện chính sách “kinh tế chiến tranh” rồi
Chế độ "kinh tế chỉ huy" đã tận dụng tối đa tiềm lực của Đông Dương để phục vụ cho chính quốc Hệ thống này đã cướp đoạt tài sản và của cải của nhân dân, đồng thời gia tăng phát hành giấy bạc, kiểm soát chặt chẽ sản xuất và phân phối Giá cả được ấn định một cách độc đoán, thuế suất tăng cao và nhiều loại thuế mới được áp dụng, kèm theo các hoạt động lạc quyên, công trái và xổ số.
Vào tháng 9 năm 1940, phát xít Nhật đã xâm lược Đông Dương và thực hiện một chính sách chiếm đóng trái ngược với tuyên bố về “Khu vực Đại Đông Á thịnh vượng chung” Nhật Bản đã chọn “cộng tác - cộng trị” với thực dân Pháp như một chiến lược hợp lý nhằm đạt được mục tiêu chiến lược tại Đông Dương một cách hiệu quả và tiết kiệm Nhờ đó, họ dễ dàng chiếm được Đông Dương và lợi dụng bộ máy đàn áp của thực dân Pháp, khai thác triệt để nguồn lợi của Việt Nam phục vụ cho cuộc chiến tranh, đồng thời giảm thiểu chi phí quản lý Tuy nhiên, việc duy trì chế độ thực dân Pháp và cộng tác với chế độ này đã phơi bày bộ mặt giả dối của phát xít Nhật Đảng Cộng sản Đông Dương đã chỉ trích rằng “Chính sách của Nhật ở Đông Dương là cướp bóc, đánh giết, làm nhục và lừa dối”.
Dưới sự hỗ trợ của thực dân Pháp và phát xít Nhật, nhiều đảng phái và nhóm chính trị đã được thành lập, tích cực tuyên truyền cho Chính phủ phản động Pétain và ca ngợi Đại Nhật Bản Dù là tổ chức thân Pháp hay thân Nhật, tất cả đều sử dụng chiêu bài “quốc gia”, “dân tộc” giả hiệu để trở thành tay sai cho kẻ thù, phản bội tổ quốc Ngày 15-9-1939, Bảo Đại đã ra
Bảo Đại thể hiện quyết tâm hỗ trợ Pháp trong cuộc chiến bằng thông cáo khẳng định: “Bổn phận của chúng ta đã được vạch rõ rằng: Chúng ta xiết chặt hàng ngũ bên cạnh nước Pháp để đem tới cho nó sự giúp đỡ của tất cả các năng lực của chúng ta trong cuộc chiến đấu vĩ đại này.” Ngày 5-10-1939, ông ban hành đạo dụ cấm tất cả các cuộc hội họp tuyên truyền cộng sản ở Trung Kì và tiến hành tịch thu các loại sách báo tiến bộ.
Tại Bắc Trung Bộ, Toàn quyền Catroux đã thực hiện cuộc Tổng điều tra dân số năm 1943 nhằm quản lý chặt chẽ tình hình chính trị, kinh tế, xã hội, với tổng dân số đạt 3.627.940 người, chủ yếu là người Việt, cùng một số dân tộc thiểu số như Mường, Thái, HMông, Dao, Khơmú, Thổ, Chứt, Bru-Vân Kiều, Tà-ôi, Cơ-tu và một ít kiều dân Pháp, Nhật, Hoa, Ấn Độ Thực dân Pháp và Nam triều đã tái cấu trúc hệ thống hành chính tại các tỉnh để củng cố bộ máy chính quyền làng xã và tăng cường nguồn nhân lực cho chính sách khai thác, bóc lột Cụ thể, tỉnh Thanh Hóa có 1 thị xã, 7 phủ, 7 huyện, 6 châu; tỉnh Nghệ An gồm 1 thành phố, 5 phủ, 6 huyện; tỉnh Hà Tĩnh được chia thành 2 phủ, 6 huyện; tỉnh Quảng Bình có 2 phủ, 3 huyện; và tỉnh Quảng Trị gồm 3 phủ, 3 huyện, trong khi tỉnh Thừa Thiên có 1 thành phố và 6 huyện.
Sau khi Nghị định của Toàn quyền Đông Dương và đạo dụ của Nam triều được ban hành, phong trào cách mạng ở Bắc Trung Bộ chịu sự khủng bố nghiêm trọng Hàng trăm tổ chức nghiệp đoàn và hội ái hữu bị phá vỡ, tài sản bị tịch thu; hàng ngàn cán bộ và đảng viên tích cực trong phong trào Mặt trận Dân chủ bị bắt giam Tại Quảng Trị, từ tháng 9-1939 đến tháng 11-1940, có 65 người bị bắt, trong đó 20 cựu chính trị phạm bị bắt lại Tại Nghệ An, từ tháng 9-1939 đến tháng 5-1941, 743 người bị bắt, với 264 người bị kết án và 117 người được trắng án Trong các nhà tù, những chính trị phạm sắp mãn hạn bị giữ lại, và những tù chính trị bị liệt vào hàng "quan trọng" hoặc có thái độ chống đối bị quản lý chặt chẽ.
Bí mật trong việc thủ tiêu hoặc giam giữ những cá nhân tại các trại tập trung đặc biệt là một vấn đề nghiêm trọng Đối với những người bị nghi ngờ nhưng chưa bị bắt, chúng ta áp dụng lệnh quản thúc chặt chẽ để đảm bảo an ninh.
Tại Bắc Trung Bộ, thực dân Pháp đã gia tăng sự đàn áp nhằm kiềm chế phong trào đấu tranh của nhân dân, phục hồi các tổ chức từng được sử dụng để đàn áp cách mạng 1930 - 1931 như hệ thống đồn binh và bang tá Họ đã xây dựng chòi canh và điếm gác ở những nơi đông dân cư, đồng thời thiết lập mạng lưới mật thám dày đặc từ thành phố đến nông thôn Ngoài ra, thực dân Pháp còn sửa đổi “hương ước”, bổ nhiệm thêm chức chánh, phó hương hội và tăng cường quyền lực cho tổng lý, hương chức nhằm kiểm soát an ninh thôn xã.
Để tạo ra sự hoang mang và nghi ngờ trong hàng ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân, thực dân Pháp đã sử dụng những kẻ phản bội làm chỉ điểm và bắt giữ cả những chiến sĩ trung kiên trong các trận đánh phá Chúng thả lỏng những người đã khai báo để dụ dỗ và điều tra những người còn lại, đồng thời dùng tiền tài và danh vọng để mua chuộc những phần tử thoái hóa, biến chất Đối với các cựu chính trị phạm, thực dân vừa kiểm soát tinh thần vừa tạo điều kiện cho họ làm ăn, nhằm xa lánh hoạt động chính trị Chúng cũng phát tán luận điệu thâm độc rằng việc khai báo khi bị bắt không có gì nghiêm trọng, nhằm kích thích tư tưởng cầu an và thỏa hiệp trong những người bị giam giữ hoặc tra tấn.
Sau khi Toàn quyền Decoux ký hiệp ước đầu hàng vào ngày 23-7-1941, phát xít Nhật đã triển khai quân đội vào các tỉnh Bắc Trung Bộ, thiết lập sự hiện diện tại các thành phố, sân bay, hải cảng và các tuyến giao thông quan trọng Các tỉnh Thừa Thiên, Quảng Trị, Nghệ An và Thanh Hóa đã trở thành những căn cứ quân sự chiến lược của Nhật Bản trong giai đoạn này.
Ngô Đình Diệm, một nhân vật quan trọng trong Bắc Trung Bộ, đã tập hợp các nhân sĩ, trí thức và sĩ quan người Việt trong quân đội thuộc địa vào giữa năm 1943 Ông cử Phan Thúc Ngộ sang Nhật để liên lạc với Cường Để và giao cho Đỗ Mậu nhiệm vụ soạn thảo một kế hoạch hoạt động chi tiết nhằm phối hợp với quân đội.
Nhật làm đảo chính tấn công quân Pháp và một dự án dài hạn khác
- về việc tái tổ chức quân đội bảo an chuẩn bị cho Cường Để về nước lập chính phủ thân Nhật” [85, tr.26].
Trong bối cảnh chính sách khủng bố chính trị, thực dân Pháp đã gia tăng việc bóc lột kinh tế nhằm phục vụ cho nhu cầu chiến tranh Họ đã trưng thu và mua lương thực từ nông dân với giá rẻ mạt, đồng thời tăng cường các loại thuế Nhiều loại thuế mới được ban hành, bao gồm thuế quốc phòng, thuế cư trú, thuế súc vật, thuế bán hàng rong và thuế cây ăn quả, gây áp lực lớn lên đời sống của người dân.
Chủ trương của Đảng Cộng sản Đông Dương sau khi Nhật đảo chính Pháp 73 1 Âm mưu và thủ đoạn của phát xít Nhật
3.1.1 Âm mưu và thủ đoạn của phát xít Nhật
Vào đêm 9-3-1945, quân Nhật đã đồng loạt tấn công quân Pháp trên toàn Đông Dương, khiến quân Pháp chỉ có thể chống cự yếu ớt và nhanh chóng đầu hàng sau hơn một ngày Ngay sau cuộc đảo chính, Chính phủ Nhật tuyên bố sẽ "trao trả độc lập" cho Việt Nam, nhằm mục đích kích thích lòng yêu nước của người dân Đông Dương và lôi kéo họ vào cuộc chiến tranh.
Bảo Đại, vua bù nhìn của thực dân Pháp, sau đó trở thành vua bù nhìn của phát xít Nhật, đã gửi thông điệp nhân dịp năm mới 1945, bày tỏ lòng biết ơn đối với Đô đốc Decoux, người đã giúp Đông Dương vượt qua những khó khăn trong bối cảnh thế giới hỗn loạn Ông nhấn mạnh rằng nhờ có Đô đốc, Đông Dương mới có thể tận hưởng hòa bình và an ninh.
Vào ngày 11-3-1945, Bảo Đại đã công bố "Tuyên cáo Việt Nam độc lập", chính thức xóa bỏ hiệp ước ký với Pháp năm 1884 Ông cam kết sẽ hợp tác chặt chẽ với Nhật Bản và bày tỏ lòng tin tưởng vào đế quốc Nhật Bản, đồng thời ca ngợi sự giải phóng của đất nước nhờ vào sự hỗ trợ của quân đội Nhật.
Vào ngày 17-4-1945, Chính phủ thân Nhật do Trần Trọng Kim làm Thủ tướng được thành lập, với tuyên cáo kêu gọi quốc dân phải nỗ lực làm việc và hợp tác với Nhật Bản để xây dựng nền Đại Đông Á, nhằm đảm bảo sự độc lập bền vững cho đất nước Trong bối cảnh khó khăn sau cuộc đảo chính, Nội các Trần Trọng Kim cam kết lập kỷ niệm đài để ghi công các anh hùng dân tộc, nhằm khơi dậy tinh thần yêu nước và thống nhất mọi tầng lớp xã hội để củng cố độc lập quốc gia.
Nội các Trần Trọng Kim đã nhận thức đúng đắn nguyện vọng và ý chí của dân tộc Việt Nam trong bối cảnh lịch sử, đồng thời hiểu rõ tầm quan trọng của việc phát huy tinh thần yêu nước và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân Điều này góp phần xây dựng và bảo vệ nền độc lập dân tộc.
Nội các Trần Trọng Kim đã thực hiện nhiều hoạt động tích cực, trong đó có việc thay đổi tên đường phố vào ngày 29-5-1945 Họ đã ra lệnh xóa bỏ tên các quan chức thực dân Pháp và tay sai, thay vào đó là tên các anh hùng dân tộc và danh nhân Việt Nam Đến đầu tháng 8-1945, hầu hết các biểu tượng liên quan đến chủ nghĩa thực dân Pháp đã bị xóa bỏ Mặc dù đây chỉ là những thay đổi mang tính hình thức, nhưng chúng đã góp phần mạnh mẽ vào việc nâng cao tinh thần yêu nước của nhân dân, đặc biệt là ở các thành phố.
- Một nỗ lực khác của Nội các Trần Trọng Kim là thương lượng với Tổng
Từ đầu tháng 5 đến đầu tháng 8 năm 1945, quân đội Nhật Bản đã tiến hành sáp nhập Bắc Bộ, ba thành phố nhượng địa Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng và Nam Bộ vào Việt Nam đế quốc Dù Nội các Trần Trọng Kim có mục đích thương lượng với người Nhật để thống nhất lãnh thổ, những thành công và đóng góp của Nội các trong bối cảnh lịch sử lúc đó vẫn rất đáng ghi nhận.
Nội các Trần Trọng Kim đã nỗ lực thể hiện lòng yêu nước và tinh thần dân tộc, nhưng do những sai lầm nghiêm trọng và điều kiện khách quan không thuận lợi, họ không thể vượt qua vai trò lịch sử của mình Chính phủ này bị coi là bất lực và bế tắc trong việc thực hiện nhiệm vụ, dẫn đến tình trạng hỗn loạn và suy giảm quyền lực Bảo Đại đã thừa nhận rằng thuế không thu được, kiện tụng lan rộng, và chính phủ thiếu lực lượng để duy trì trật tự.
Các tỉnh Bắc Trung Bộ đóng vai trò quan trọng trong chiến lược giữ vững Đông Dương Sau cuộc đảo chính của Pháp, quân đội phát xít Nhật đã triển khai một lượng lớn quân chiếm đóng tại các vị trí then chốt trong khu vực Theo thống kê chưa đầy đủ, tại Huế, có khoảng 4.500 quân Nhật hiện diện.
Quảng Trị có khoảng 1.500 quân, Thanh Hóa khoảng 1.000 quân, Hà Tĩnh khoảng 300 quân và Quảng Bình khoảng 600 quân Tại Nghệ An, sau ngày 9-3-1945, có khoảng 1 vạn quân Nhật chiếm đóng ở các vị trí quan trọng, nhưng con số này được cho là quá lớn so với thực tế Tổng số quân Nhật chiếm đóng ở Đông Dương là 6 vạn quân, trong khi các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Huế, Đà Nẵng, Khánh Hòa, Vũng Tàu và Sài Gòn cũng được Nhật chú ý Do đó, chúng tôi đồng ý với nghiên cứu của Viện Lịch sử Đảng năm 1985 cho rằng sau ngày 9-3-1945, quân Nhật chỉ có khoảng 1.000 quân đóng ở Vinh, Cửa Lò, Bến Thủy và một số vị trí dọc bờ biển và các đường số 1, số 7, số 8.
Sau khi đảo chính, phát xít Nhật duy trì bộ máy cai trị giống như thực dân Pháp trước đó Để thu hút quần chúng, họ đã cách chức một số quan lại Việt Nam bị tố cáo tham nhũng Chính phủ Trần Trọng Kim đã đổi tên các cấp hành chính do Pháp đặt thành Bộ (Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ) và thay đổi các chức vụ như tổng đốc, tuần phủ thành tỉnh trưởng; tri phủ, tri huyện thành phủ trưởng, huyện trưởng Các lính khố xanh thời Pháp cũng được thay thế bằng lính bảo an do sĩ quan người Việt chỉ huy Trần Trọng Kim cung cấp thông tin về số lượng lính bảo an đóng tại các tỉnh, thành.
Kinh đô Huế có hơn 100 lính bảo an và khoảng 70 khẩu súng cũ, đạn cũ Tại các tỉnh, mỗi tỉnh có khoảng 50 lính bảo an, còn các phủ huyện có vài chục người Chính phủ Trần Trọng Kim chưa thể can thiệp vào bộ máy hào lí ở làng xã do chưa có cơ sở để thực hiện điều này.
Trong bối cảnh kinh tế, phát xít Nhật đã tiến hành kiểm soát đất đai, buộc người dân phải chuyển đổi cây trồng từ lúa, ngô sang thầu dầu và thu mua các loại cây có sợi, hạt dầu như bông, lạc, vừng Họ cấm người dân mua bán và vận chuyển các nguyên liệu này Tại các huyện ven biển, người dân phải di dời nhà cửa, chặt cây và phá hoa màu để quân Nhật xây dựng doanh trại, công sự và mở rộng sân bay Hàng ngày, lính Nhật vào làng xã để ép buộc dân chúng tham gia phục vụ cho các công trình quân sự, dẫn đến tình trạng bạo lực, đánh đập và chôn sống công nhân ngày càng gia tăng.
Trong bối cảnh chiến tranh, cảnh tượng bi thảm tại doanh trại quân đội Nhật Bản và các công trường xây dựng hầm trại tại sân bay Lai Thành, Thanh Hóa đã diễn ra một cách tàn bạo Những người lao động phải làm việc dưới sự giám sát của lính Nhật, không dám trò chuyện và luôn sống trong nỗi sợ hãi, vì chỉ cần chậm tay một chút là có thể bị đe dọa đến tính mạng Hàng ngày, lính Nhật vào các gia đình, cướp bóc tài sản, đuổi người dân ra khỏi nhà và chiếm lấy mọi thứ từ bàn ghế đến đồ dùng sinh hoạt, tạo nên một bức tranh kinh hoàng về sự chiếm đóng và áp bức.
- Được sự hậu thuẫn của phát xít Nhật, các đảng phái chính trị thân Nhật được thành lập, hoạt động mạnh và có mặt ở hầu khắp các tỉnh.
Vào tháng 6 năm 1945, Luật sư Phan Anh, Bộ trưởng Bộ Thanh niên trong Chính phủ Trần Trọng Kim, đã khởi xướng phong trào Thanh niên xã hội với sự lãnh đạo của Tạ Quang Bửu Phong trào này kêu gọi thanh niên tham gia vào công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước, nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ từ giới trẻ ở các tỉnh Bắc Trung Bộ, với tổ chức cơ sở lan rộng xuống tận huyện và xã.
Gấp rút xây dựng lực lượng về mọi mặt tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền
Trước tình hình mới, cán bộ và đảng viên tại các tỉnh Bắc Trung Bộ đang nỗ lực tăng cường hoạt động trên mọi lĩnh vực nhằm tiến tới khởi nghĩa giành lại chính quyền.
3.2.1 Xây dựng và củng cố tổ chức cơ sở Đảng
Sau ngày 9-3-1945, nhiều cán bộ và đảng viên dày dạn kinh nghiệm đã trở về từ các nhà tù của đế quốc để tiếp tục hoạt động cách mạng Tại nhà đày Buôn Ma Thuột, từ ngày 15 đến 20-3-1945, gần 300 chiến sĩ cộng sản đã được trả tự do sau thời gian dài bị giam cầm Bên cạnh đó, nhiều chiến sĩ cộng sản và quần chúng cách mạng khác cũng đã thoát khỏi các nhà lao để tham gia vào phong trào cách mạng Vào ngày 2-4-1945, hàng trăm tù chính trị từ các nhà tù khác cũng đã được giải phóng.
Nhà lao Trung Bộ, đặc biệt là nhà lao Kon Tum, đã trở thành nơi giam giữ chính cho các tù chính trị từ hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh, với thành phố Vinh là điểm tập trung chính Theo điều tra của Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Tỉnh ủy Nghệ An, thông tin này được ghi nhận rõ ràng trong tài liệu nghiên cứu.
1964 thì tổng số tù chính trị quê ở Nghệ An được trả tự do sau ngày 9-3-1945 là 307 người thuộc 81 xã đồng b ng [27, tr.35].
Trước tình hình Xứ ủy Trung Kì chưa được tái lập và sự thiếu thống nhất trong các tổ chức Đảng, với không khí hoài nghi và chia rẽ tràn ngập, vào tháng 3 năm 1945, Trung ương Đảng đã chỉ đạo thành lập Ủy ban thống nhất Trung Kì Ủy ban này có nhiệm vụ chuẩn bị cho một cuộc cách mạng hội nghị hoặc đại biểu hội nghị toàn xứ nhằm kiến thiết một Đảng bộ Trung Kì vững mạnh.
Kì thống nhất” [148] Ngày 27-3-1945, Ủy ban thống nhất Trung Kì ra lời kêu gọi
Ủy ban thống nhất Trung Kì kêu gọi các đồng chí cộng sản trong khu vực nhanh chóng thống nhất, nhấn mạnh việc cần thiết phải xóa bỏ mọi mâu thuẫn cá nhân và thái độ hoài nghi Họ khuyến khích các tỉnh bộ cộng sản Trung Kì đoàn kết, quyết liệt loại bỏ các xu hướng biệt phái địa phương để củng cố sức mạnh chung.
Dưới sự chỉ đạo của Ủy ban thống nhất Trung Kì, hệ thống tổ chức Đảng tại một số tỉnh đã được bổ sung cán bộ và từng bước khôi phục, củng cố.
Sau khi Nhật đảo chính Pháp vào ngày 12-3-1945, Chi bộ nhà lao Quảng Trị đã tổ chức hội nghị để đánh giá tình hình và xác định phương hướng hoạt động sắp tới Cuộc họp tập trung vào hai vấn đề chính: đầu tiên là nhận diện kẻ thù của nhân dân Việt Nam, đó là phát xít Nhật, và thứ hai là ra nghị quyết rằng sau khi thoát khỏi nhà lao, các đảng viên cần nỗ lực kết nối cơ sở để xây dựng thực lực, chuẩn bị cho cuộc tổng khởi nghĩa sắp diễn ra.
Năm 1945, Hội nghị cán bộ chủ chốt toàn tỉnh được tổ chức tại Liêm Công Đông (Vĩnh Linh) với mục tiêu đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng, củng cố và phát triển các chi bộ đảng, cũng như thành lập và củng cố các phủ ủy, huyện ủy Hội nghị đã quyết định thành lập Tỉnh ủy lâm thời, với Bùi Trung Lập được cử làm Bí thư Sự kiện này đánh dấu giai đoạn phục hồi quan trọng của Đảng bộ Quảng Trị và phong trào cách mạng trong toàn tỉnh.
Tình trạng thiếu lãnh đạo của Tỉnh ủy đã kéo dài trong một thời gian, nhưng sau hội nghị, các Phủ ủy Vĩnh Linh, Triệu Phong, Hải Lăng và Huyện ủy Gio Linh đã được khôi phục, đánh dấu một bước tiến quan trọng trong việc củng cố sự lãnh đạo địa phương.
Thanh Hóa là tỉnh đầu tiên trong khu vực nhận Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” vào tháng 4-1945 Tỉnh ủy Thanh Hóa đã tổ chức hội nghị để triển khai chỉ thị của Ban Thường vụ Trung ương Đảng, với mục tiêu củng cố và mở rộng tổ chức cơ sở Đảng cùng quần chúng tại các phủ huyện Hội nghị đã vạch mặt bọn Đại Việt, chống Nhật, mở rộng ảnh hưởng của Việt Minh, thành lập Ủy ban giải phóng tỉnh và huyện, phát triển các đội tự vệ, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, xây dựng chiến khu và trang bị cho toàn dân nhằm tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền.
Sau hội nghị, Tỉnh ủy lâm thời được củng cố và cán bộ, đảng viên đã tích cực xây dựng tổ chức cơ sở Đảng tại các địa phương như Thạch Thành, Vĩnh Lộc, Thiệu Hóa, Hoàng Hóa, Yên Định, Hà Trung, Hậu Lộc, Nga Sơn, và Nông Cống Đặc biệt, Thạch Thành và Thiệu Hóa đã thành lập huyện ủy, trong khi một số địa phương khác đã thiết lập tổng ủy Trước khi diễn ra tổng khởi nghĩa, Thanh Hóa đã trở thành tỉnh có số lượng tổ chức cơ sở Đảng và đảng viên đông nhất trong 6 tỉnh Bắc Trung Bộ.
Ngày 23-5-1945, Hội nghị cán bộ toàn tỉnh Thừa Thiên được tổ chức tại đầm Cầu Hai dưới sự chủ trì của Bí thư Tỉnh ủy Nguyễn Sơn Hội nghị nhấn mạnh tầm quan trọng của việc cán bộ, đảng viên chủ động tiếp xúc với quần chúng và tuyên truyền chính sách đoàn kết cứu nước của Mặt trận Việt Minh Đồng thời, cần vận động nhân dân tham gia các tổ chức cứu quốc và xây dựng cơ sở Việt Minh trong các tầng lớp thanh niên, học sinh, công chức, binh lính, thân sĩ và trí thức Đối với những người trở về từ nhà tù, cần liên lạc và giao nhiệm vụ cụ thể, huy động lực lượng cán bộ để phát triển phong trào cứu nước.
Sau hội nghị, Tỉnh ủy lâm thời Thừa Thiên được củng cố, với việc phân công các tỉnh ủy viên phụ trách các ban chuyên trách của Đảng Các thành viên này đã triển khai xuống các địa phương để xây dựng tổ chức cơ sở Đảng tại các huyện và thị xã Đặc biệt, thành phố Huế và huyện Phú Lộc đã thành lập thị ủy và huyện ủy lâm thời.
Tại Nghệ An và Hà Tĩnh, hiện vẫn chưa tồn tại một tổ chức lãnh đạo chung cho phong trào cách mạng ở hai tỉnh này, đồng thời cũng chưa có cán bộ hay đảng viên nào được cử đi hoạt động.
Để liên lạc với Trung ương Đảng, các cá nhân và nhóm ở địa phương đã chủ động kết nối với nhau dựa trên mối quan hệ và sự hiểu biết từ các nhà tù đế quốc cũng như các phong trào cách mạng trước đây Sự chủ động này giúp họ phối hợp hoạt động hiệu quả hơn trong bối cảnh cách mạng.
Cao trào kháng Nhật cứu nước
Dựa trên Chỉ thị "Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta" (12-3-1945) của Ban Thường vụ Trung ương Đảng, các cấp bộ đảng đã chuyển mọi hoạt động sang giai đoạn tiền khởi nghĩa nhằm tận dụng thời cơ cách mạng Sự kịp thời và chính xác của chỉ thị này đã thúc đẩy phong trào cách mạng trên toàn quốc, đặc biệt tại các tỉnh Bắc Trung Bộ, với nhiều hình thức đấu tranh đa dạng và quyết liệt, thể hiện sự sáng tạo của từng địa phương trong cuộc kháng Nhật cứu nước.
3.3.1 Phong trào phá kho thóc giải quyết nạn đói
Trước tình hình nạn đói ngày càng nghiêm trọng, tổ chức Đảng và Việt Minh ở các tỉnh Bắc Trung Bộ đã khởi xướng phong trào đấu tranh cứu đói mạnh mẽ, thu hút sự tham gia của nhiều tầng lớp nhân dân với hình thức đấu tranh đa dạng.
Vào ngày 4 tháng 3 năm 1945, Tỉnh ủy Thanh Hóa đã ban hành Chỉ thị “Đòi ăn” nhằm đối phó với nạn đói nghiêm trọng đang hoành hành Chỉ thị chỉ rõ rằng hàng triệu người dân đang phải chịu đựng nỗi khổ đói, số người chết vì đói ngày càng tăng, và tình hình khẩn cấp này cùng với chính sách cướp bóc của kẻ thù đòi hỏi một phản ứng kịp thời.
“Chỉ có đấu tranh với Pháp - Nhật và bất đắc dĩ với các nhà giàu mới giải quyết được nạn đói cho đồng bào và đồng chí chúng ta ” [137].
Chỉ thị “Đòi ăn” đã khơi dậy phong trào quần chúng mạnh mẽ, thúc đẩy cán bộ và đảng viên đoàn kết, hỗ trợ lẫn nhau Nông dân kiên quyết đứng lên đấu tranh, nhiều nơi đã gửi đơn và cử đại biểu đến gặp các lãnh đạo địa phương yêu cầu cứu trợ và vay thóc, ngô Các cuộc biểu tình thị uy nhằm tịch thu và cưỡng vay thóc gạo cũng diễn ra tại các phủ, huyện Thiệu Hóa.
Nông dân tại Hoằng Hóa, Hậu Lộc đã kiên quyết chặn xe để giành lại số thóc bị Nhật cướp, trong khi nông dân ở Thiệu Hóa đang đấu tranh yêu cầu địa chủ cho vay thóc gạo.
Tại Nghệ An, các cuộc đấu tranh đòi vay lúa từ địa chủ để cứu trợ dân nghèo diễn ra sôi nổi ở Nghi Lộc và Quỳnh Lưu Ở Thanh Chương, dưới sự lãnh đạo của Việt Minh, người dân các làng như Thanh Cao, Tiên Hội, và Võ Liệt đã tập trung tại nhà tổng lí để yêu cầu sử dụng tiền lúa công nhằm hỗ trợ những người bị đói, đồng thời kiên quyết trừng phạt những tổng lí thu gom thóc gạo cho Nhật.
Phong trào phá kho thóc của Nhật đã góp phần quan trọng trong việc giải quyết nạn đói ở Hà Tĩnh, đặc biệt tại các huyện như Hương Sơn, Hương Khê và Cẩm Xuyên, nơi người dân đã phá hủy hàng chục kho thóc để phân phát cho các gia đình đang gặp khó khăn Tại Kì Anh, nhân dân đã phá các kho thóc của Nhật tại Voi, huyện lị và đồn điền chợ Gia Trong các vùng nông thôn, nông dân cũng đã ép buộc hào lí phải chia sẻ các loại thóc quỹ để cứu đói cho cộng đồng.
Tại Quảng Bình, Hội đồng cứu đói, do tổ chức Đảng hoặc đảng viên dẫn dắt, đã được thành lập ở hầu hết các phủ, huyện, thị, với nỗ lực vận động hàng trăm người dân tham gia phá kho thóc của Nhật để chia sẻ với đồng bào Đồng thời, các Hội đồng này còn phát động phong trào tương trợ trong cộng đồng người nghèo và kêu gọi tầng lớp hữu sản ủng hộ tiền, thóc nhằm giúp đỡ nhân dân Họ yêu cầu Tỉnh trưởng Nguyễn Thơ cung cấp gạo cho dân và tổ chức cuộc “hưng công đại chẩn” để hỗ trợ những người gặp khó khăn.
Các đội tự vệ đã tổ chức các cuộc phục kích nhằm tấn công các đồn lẻ của địch, thu giữ tài sản và bắt giữ các tàu chở gạo của phát xít Nhật, sau đó phân phát cho những người dân nghèo.
Tại Thanh Hóa, dưới sự lãnh đạo của Đinh Chương Lân, lực lượng tự vệ đã bao vây đồn Lạch Trường, thu giữ 7 khẩu súng, 4 kho thóc và 1 kho muối Vào tháng 6 năm 1945, Việt Minh Hoàng Hóa tổ chức một cuộc mít tinh với hơn 1.000 người tham gia, công bố việc tịch thu thóc của hai tên Việt gian là cai Bái và bản Doan để chia cho dân nghèo Tại Nghệ An, tự vệ tổng Xâm Lâm (Thanh Chương) đã chặn bắt bốn thuyền gạo của Nhật.
Vào tháng 6 năm 1945, đội tự vệ Mai Xá do Trương Công Tự chỉ huy đã phục kích và đánh đắm thuyền chở gạo của phát xít Nhật, nhằm cung cấp lương thực cho dân đói Tiếp theo, giữa tháng 7 năm 1945, đội tự vệ Phú Hội tại Quảng Bình đã chặn các ghe thuyền của chính quyền thân Nhật, vận động trao lại 600 tấn muối và gạo cho Việt Minh Đặc biệt, vào ngày 25 tháng 7 năm 1945, đội tự vệ Nghi Giang tại Phú Lộc đã bắt giữ hai đò thóc với 30 tấn lương thực từ tay sai thân Nhật, phân phát cho người dân nghèo.
Phong trào đấu tranh cứu đói ở Bắc Trung Bộ đã đạt được nhiều thắng lợi quan trọng, không chỉ giúp giải quyết nạn đói tạm thời mà còn khơi dậy một phong trào quần chúng mạnh mẽ Những thành công này đã tạo ra động lực thực sự, góp phần thổi bùng ngọn lửa đấu tranh cách mạng trong khu vực.
3.3.2 Đẩy mạnh tuyên truyền xung phong, khởi nghĩa từng phần, lập chính quyền cách mạng
Trong cao trào kháng Nhật cứu nước, các tỉnh Bắc Trung Bộ không chỉ tập trung vào phong trào phá kho thóc để giải quyết nạn đói mà còn tích cực tuyên truyền, khởi nghĩa từng phần và thành lập chính quyền cách mạng.
Các đội tuyên truyền xung phong đã tích cực hoạt động tại các làng, tổ chức mít tinh đông người, treo cờ đỏ sao vàng và giăng biểu ngữ nhằm giải thích chủ trương kháng Nhật cứu nước của Mặt trận Việt Minh Họ đã đột nhập vào các cuộc hiểu dụ của quan lại địa phương và biến chúng thành những cuộc mít tinh tuyên truyền, kêu gọi quần chúng tham gia cách mạng Đặc biệt, vào cuối tháng 6-1945, tự vệ huyện Nga Sơn đã chuyển hóa cuộc hiểu dụ tổng lí thành diễn thuyết xung phong của Việt Minh Các hoạt động tuyên truyền diễn ra sôi nổi tại các chợ và buổi cắm trại của thanh niên, với sự tham gia bảo vệ của thanh niên cứu quốc Tại Hoàn Lão, Huyện đoàn Thanh niên xã hội Bố Trạch đã tổ chức đốt lửa trại, tạo điều kiện cho đồng chí Nguyễn Đức Thưởng diễn thuyết, kêu gọi đoàn kết chống Nhật và cứu nước.
(Quảng Ninh) tổ chức tại trường Đại Phúc, cán bộ Việt Minh “đã đến dự và tự động
- lên nói chuyện với hội nghị, vạch rõ sai lầm của chính quyền Trần Trọng Kim, sai lầm của thanh niên Phan Anh, kêu gọi ủng hộ Việt Minh” [121].
Các cuộc mít tinh và biểu tình diễn ra đồng loạt tại nhiều phủ, huyện, thị của các tỉnh, thể hiện khí thế mạnh mẽ nhằm uy hiếp tinh thần của chính quyền địa phương Những cuộc đấu tranh này không chỉ dừng lại ở yêu cầu về dân sinh và dân chủ mà còn trực diện tấn công vào chính quyền cơ sở, quyết liệt chống lại các hành vi như bắt xâu, vơ vét lúa gạo và nhổ lúa để trồng bông Theo điều tra của Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Tỉnh ủy Nghệ An năm 1964, từ tháng 5 đến tháng 7-1945, đã có 262 cuộc đấu tranh diễn ra tại các phủ huyện đồng bằng, trong đó có 64 cuộc chống thuế, 29 cuộc chống bắt phu bắt lính, 65 cuộc chống Nhật thu thóc, và 104 cuộc kiện cáo các hào lý làm hại nhân dân.
Thời cơ và kế hoạch khởi nghĩa của Đảng bộ, Mặt trận Việt Minh các tỉnh Bắc Trung Bộ
VIỆT MINH CÁC TỈNH BẮC TRUNG BỘ
3.4.1 Thời cơ của cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở các tỉnh Bắc Trung Bộ
Đến đầu tháng 8 năm 1945, các yếu tố chủ quan cho một cuộc khởi nghĩa giành chính quyền trên toàn quốc đã hình thành, chỉ cần chờ đợi những điều kiện khách quan thích hợp để cuộc tổng khởi nghĩa có thể bùng nổ.
-Với sự kiện Mĩ thả 2 quả bom nguyên tử xuống hai thành phố Hirosima (6-8- 1945) và Nagasaki (9-8-1945), cùng với thắng lợi của Hồng quân Liên Xô, phát xít
- Nhật chấp nhận đầu hàng Đồng minh không điều kiện Thời cơ của một tổng khởi nghĩa đã chín muồi trong toàn quốc.
Vào chiều ngày 13-8-1945, Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh đã tận dụng thời cơ thuận lợi để thành lập Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc Đến 23 giờ cùng ngày, Ủy ban Khởi nghĩa đã phát đi bản “Quân lệnh số 1”, chính thức kêu gọi tổng khởi nghĩa trên toàn quốc Bản “Quân lệnh” kêu gọi toàn thể quốc dân hãy chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa vào lúc 12 giờ trưa ngày mai.
Vào ngày 13 tháng 8 năm 1945, phát xít Nhật đã đầu hàng Đồng minh, dẫn đến sự tan rã của quân đội Nhật trên tất cả các mặt trận Đây là thời điểm quyết định cho quân dân Việt Nam vùng dậy giành lại quyền độc lập Chúng ta cần hành động nhanh chóng, với tinh thần quả cảm và thận trọng.
Vào ngày 14 và 15 tháng 8 năm 1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng Cộng sản Đông Dương đã diễn ra tại Tân Trào, quyết định lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa Để đảm bảo thành công cho tổng khởi nghĩa, Hội nghị đã đưa ra ba nguyên tắc quan trọng.
Để đảm bảo thành công trong cuộc khởi nghĩa, cần tập trung lực lượng vào những nhiệm vụ chính, thống nhất mọi phương diện quân sự, chính trị, hành động và chỉ huy Hành động kịp thời là rất quan trọng, không được bỏ lỡ cơ hội Hội nghị đã đề ra phương châm hành động kết hợp quân sự với chính trị, chiếm lĩnh những địa điểm có khả năng chiến thắng cao, từ thành phố đến thôn quê, đồng thời thành lập các Ủy ban nhân dân ở những khu vực đã chiếm được Cần tước vũ khí và tịch thu tài sản của quân Nhật, tiêu diệt lực lượng địch bằng những đòn chí tử, chiếm giữ các căn cứ quan trọng trước khi quân Đồng minh xuất hiện Ngoài ra, cũng cần xây dựng chính sách đối nội và đối ngoại phù hợp sau khi tổng khởi nghĩa thành công.
Ngày 16 và 17-8-1945, Quốc dân đại hội được tổ chức tại Tân Trào với sự tham gia của 60 đại biểu đại diện cho các tầng lớp, đảng phái chính trị, đoàn thể nhân dân, các dân tộc và tôn giáo trong nước cũng như kiều bào nước ngoài Đại hội đã đồng thuận với quyết định Tổng khởi nghĩa của Đảng Cộng sản Đông Dương, thông qua 10 chính sách lớn của Việt Minh và bầu ra Ủy ban Dân tộc Giải phóng Việt Nam do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch Nghị quyết của Đại hội nhấn mạnh rằng độc lập không tự nhiên đến từ sự bại trận của Nhật, mà còn phải đối mặt với nhiều thách thức và cần phải hành động khôn khéo và kiên quyết để đạt được nền độc lập hoàn toàn.
- sự đoàn kết và quyết tâm của dân tộc Việt Nam trước thời khắc quyết định của lịch sử, là hội nghị Diên Hồng của thế kỉ XX.
Quyết định Tổng khởi nghĩa của Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh đã tạo ra ảnh hưởng sâu sắc đến phong trào cách mạng trên toàn quốc, thể hiện sự đáp ứng nguyện vọng của nhân dân Việt Nam Điều này là yếu tố then chốt giúp Việt Minh các tỉnh Bắc Trung Bộ lãnh đạo quần chúng nhân dân đứng lên khởi nghĩa và giành chính quyền, khi thời cơ cách mạng tại đây đã đến lúc chín muồi.
Đến giữa tháng 8 năm 1945, Mặt trận Việt Minh đã phát triển mạnh mẽ tại các tỉnh Bắc Trung Bộ, trở thành trung tâm quy tụ lực lượng yêu nước Phong trào phá kho thóc, giải quyết nạn đói, tuyên truyền và tấn công chính quyền tay sai diễn ra sôi nổi, tạo không khí chuẩn bị khởi nghĩa trên khắp các tỉnh Hầu hết các tầng lớp trung gian, bao gồm cả những nhân vật quan trọng trong Chính phủ Trần Trọng Kim và triều đình Nam, đã ủng hộ cách mạng.
Mặc dù Bắc Trung Bộ đối mặt với nhiều khó khăn, thành phố Huế vẫn là nơi tập trung đông đảo trí thức và công chức từng làm việc cho thực dân Pháp và phát xít Nhật Bảo Đại và Trần Trọng Kim không muốn từ bỏ quyền lực, dù Chính phủ Trần Trọng Kim rơi vào hoang mang sau khi Nhật Bản đầu hàng Ngày 14-8-1945, Chính phủ lâm thời tuyên bố hợp tác với Nhật Bản và tìm cách liên lạc với các đế quốc Anh, Pháp, Mỹ để mời các đảng phái về lập nội các mới Tuy nhiên, quân Nhật vẫn đông đảo và chưa nhận lệnh hạ vũ khí, trong khi nhiều địa phương chưa nhận được chỉ thị tổng khởi nghĩa Tại miền núi, cơ sở cách mạng yếu kém, đặc biệt ở Thanh Hóa và Nghệ An, nơi mà các thành phần lang đạo và thổ ti vẫn còn mạnh mẽ và có khả năng kiểm soát quần chúng.
Tình hình hiện tại yêu cầu Việt Minh tại các tỉnh Bắc Trung Bộ, đặc biệt là Thừa Thiên, cần xây dựng các chiến lược phù hợp nhằm đạt được thắng lợi cách mạng trọn vẹn, giảm thiểu đổ máu và duy trì khối đoàn kết để tiếp tục chống lại các thế lực ngoại xâm.
3.4.2 Kế hoạch khởi nghĩa của các tỉnh Bắc Trung Bộ
- Trên cơ sở phong trào cách mạng đang phát triển mạnh mẽ, việc lập lại
Xứ ủy Trung Kì được xúc tiến để tiến tới lãnh đạo cuộc khởi nghĩa giành chính quyền trong toàn xứ.
Theo chủ trương của Ủy ban thống nhất Trung Kì, Tố Hữu đã giao nhiệm vụ cho Trần Hữu Dực chuẩn bị địa điểm họp cho các đại biểu tỉnh toàn Trung Kì nhằm thiết lập lại tổ chức.
Xứ ủy được thành lập tại làng Mĩ Thổ (Lệ Thủy), nơi đặt cơ quan của Việt Minh Quảng Bình Tuy nhiên, khi Nhật đầu hàng, các địa phương đã phát động tổng khởi nghĩa, dẫn đến việc hoãn hội nghị lập Xứ ủy Do đó, trong Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945, khu vực miền Trung, đặc biệt là các tỉnh Bắc Trung Bộ, không nhận được sự chỉ đạo kịp thời.
Trong bối cảnh Ủy ban thống nhất Trung Kỳ không hoạt động hiệu quả, Việt Minh các tỉnh Bắc Trung Bộ đã thể hiện tinh thần chủ động và sáng tạo Dựa vào Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, họ đã quyết định xây dựng kế hoạch khởi nghĩa và mobilize quần chúng đứng lên giành chính quyền, bắt đầu từ Nghệ An và Hà Tĩnh.
Vào ngày 8-8-1945, Việt Minh Nghệ Tĩnh tổ chức đại hội đại biểu để xây dựng kế hoạch khởi nghĩa giành chính quyền, dựa trên chủ trương của Ban Thường vụ Trung ương Đảng trong Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” và tình hình thực tế phong trào cách mạng tại địa phương Đại hội quyết định chia Nghệ An và Hà Tĩnh thành 6 phân khu để thuận tiện cho việc chỉ đạo, đồng thời phân công cán bộ phụ trách từng khu vực Đối với việc tiếp đón quân Đồng minh, đại hội yêu cầu chuẩn bị đầy đủ khí giới và lương thực, đồng thời đề phòng trường hợp họ có ý định xâm lược Về khởi nghĩa giành chính quyền, kế hoạch là tiến hành tại nông thôn trước, thành phố sau, và việc xử lý các Việt gian phản động phải tuân thủ nguyên tắc có sự đồng ý từ cấp tỉnh và huyện Trong bối cảnh giao thông khó khăn và không thể chờ lệnh từ Trung ương, Ban Thường vụ Việt Minh Nghệ Tĩnh đã nhanh chóng thành lập UBKN và phát động khởi nghĩa giành chính quyền dựa trên tình hình thực tế và so sánh lực lượng.
Ban Thường vụ Việt Minh Nghệ Tĩnh đã đề ra kế hoạch khởi nghĩa một cách thận trọng, bắt đầu từ việc cướp chính quyền ở cấp xã trước, sau đó mở rộng ra huyện lị Đặc biệt, thành phố Vinh cần phải chờ kết quả từ các địa phương khác trước khi đưa ra quyết định cụ thể.
Diễn biến khởi nghĩa giành chính quyền ở các tỉnh Bắc Trung Bộ
TRUNG BỘ (TỪ NGÀY 15-8-1945 ĐẾN NGÀY 26-8-1945)
Mặc dù nhiều tỉnh ở Bắc Trung Bộ chưa nhận được lệnh tổng khởi nghĩa từ Ủy ban Kháng chiến toàn quốc, nhưng kế hoạch khởi nghĩa đã được thảo luận tại Hội nghị toàn quốc của Đảng.
Mặt trận Việt Minh đã chủ động và sáng tạo trong việc xây dựng kế hoạch khởi nghĩa phù hợp với từng địa phương, dẫn dắt các tầng lớp nhân dân đứng lên giành chính quyền Cuộc khởi nghĩa diễn ra lần lượt tại các tỉnh như Hà Tĩnh vào ngày 15-8-1945, Nghệ An vào 17-8-1945, Thanh Hóa và Thừa Thiên vào 19-8-1945, cùng với Quảng Bình và Quảng Trị vào 23-8-1945.
3.5.1 Khởi nghĩa giành chính quyền ở tỉnh Hà Tĩnh (từ ngày 15-8-1945 đến ngày 21-8-1945)
Sau khi nhận lệnh khởi nghĩa từ Việt Minh Nghệ Tĩnh, công tác chuẩn bị diễn ra khẩn trương Các Ủy ban Khởi nghĩa tại các huyện và thị xã được thành lập để thảo luận và lập kế hoạch giành chính quyền.
Vào ngày 15-8-1945, một nhóm thanh niên cứu quốc tại Can Lộc, Hà Tĩnh, đã nhanh chóng nhận ra sự thay đổi của tình hình sau khi liên lạc được với Việt Minh Hà Nội Nhóm này đã cử người gặp đại biểu Việt Minh Phân khu Nam Hà và sau đó huy động thanh niên trang bị vũ khí để tước vũ khí của lính bảo an, bắt giữ huyện trưởng và chiếm huyện đường Can Lộc Chiến thắng trong việc chiếm huyện lị Can Lộc đã khởi đầu cho cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà Tĩnh, góp phần thúc đẩy sự tan rã của bộ máy ngụy quyền và tạo nên khí thế cách mạng mạnh mẽ trong nhân dân khu vực Nghệ Tĩnh.
- Như vậy, cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Can Lộc giành thắng lợi từ rất sớm, trước 3 ngày so với tỉnh lị Hà Tĩnh (18-8-1945) và trước 4 ngày so với
Hà Nội, ngày 19 tháng 8 năm 1945, đánh dấu một thắng lợi quan trọng đạt được nhờ nỗ lực phi thường của cán bộ, đảng viên và nhân dân Can Lộc Sự nhạy bén của tầng lớp thanh niên trí thức cũng đóng vai trò quyết định, khi nhóm Thanh niên cứu quốc, chủ yếu là tiểu tư sản và trí thức, đã tổ chức giành chính quyền một cách nhanh chóng Mặc dù Mặt trận Việt Minh huyện Can Lộc chưa có chủ trương cụ thể, nhưng nhận thấy thời cơ đã đến, họ đã hành động táo bạo trong bối cảnh quân Nhật chiếm đóng và quân Pháp ẩn náu ở biên giới Việt - Lào Hành động này thể hiện sự mưu trí và sáng tạo của thanh niên trí thức trong thời điểm lịch sử quan trọng.
Ngày khởi nghĩa thắng lợi ở Can Lộc được ghi nhận khác nhau trong các tài liệu lịch sử Theo sách “Cách mạng tháng Tám - Tổng khởi nghĩa ở Hà Nội và các địa phương” của Viện Sử học, ngày khởi nghĩa là chiều 17-8-1945 Trong khi đó, “Lịch sử Đảng bộ Hà Tĩnh” lại ghi nhận ngày 16-8-1945 Tuy nhiên, sách “Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Nghệ Tĩnh” khẳng định ngày khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi ở Can Lộc là 17-8-1945, sau khi trình bày cuộc khởi nghĩa ở Cẩm Xuyên và Thạch Hà.
Theo Nguyễn Chung Anh, người phụ trách nhóm thanh niên cứu quốc, biên bản cuộc họp ngày 15-1-1979 của Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Tỉnh ủy Nghệ Tĩnh đã ghi nhận rằng vào ngày 15-8-1945 (tức 8 tháng 7 năm Ất Dậu), Đoàn thanh niên cứu quốc đã lãnh đạo việc cướp chính quyền huyện Can Lộc, đánh dấu bước đầu trong cuộc cách mạng giành chính quyền tại toàn tỉnh Nghệ Tĩnh.
Vào ngày 17 tháng 8 năm 1945, Ủy ban Kháng chiến huyện Thạch Hà và Cẩm Xuyên đã lãnh đạo quần chúng nhân dân thực hiện cuộc khởi nghĩa giành chính quyền thành công, tạo ra điều kiện thuận lợi cho việc giành chính quyền tại tỉnh lị Hà Tĩnh.
Vào sáng ngày 18-8-1945 tại thị xã Hà Tĩnh, UBKN Phân khu Nam Hà đã gửi thư yêu cầu chỉ huy quân Nhật không can thiệp vào công việc nội bộ của nhân dân Hàng ngàn người dân từ thị xã và các huyện lân cận đã tập trung bao vây dinh Tỉnh trưởng Trước sức ép mạnh mẽ từ quần chúng, tỉnh trưởng buộc phải trao trả chính quyền cùng toàn bộ tài liệu, con dấu, súng đạn và tiền bạc cho cách mạng, dẫn đến sự hình thành của chính quyền cách mạng lâm thời tỉnh.
Hà Tĩnh được thành lập dưới sự lãnh đạo của Trần Hữu Duyệt và nhanh chóng giành thắng lợi trong cuộc khởi nghĩa giành chính quyền Vào gần trưa ngày 18-8-1945, người dân tập trung tại sân vận động thị xã Hà Tĩnh để tổ chức mít tinh, khẳng định thành công của cuộc khởi nghĩa Nhờ đó, Hà Tĩnh trở thành một trong năm tỉnh đầu tiên trên cả nước giành chính quyền.
Tin khởi nghĩa thành công tại thị xã Hà Tĩnh đã khơi dậy tinh thần mạnh mẽ của nhân dân toàn tỉnh Vào ngày 18-8-1945, Ủy ban Khởi nghĩa các huyện Kỳ Anh và Đức Thọ đã lãnh đạo quần chúng tổ chức biểu tình, bao vây huyện đường Sau khi nhận được sự ủng hộ, các huyện trưởng đã phải đối mặt với tình hình căng thẳng này.
Trong cuộc họp gồm 8 thành viên, các đồng chí tham gia bao gồm: Nguyễn Tạo, Nguyễn Xuân Linh, Lê Lộc, Trần Hữu Chương, Hồ Văn Ninh, Nguyễn Chung Anh, Nguyễn Đổng Chi, Lê Viết Lượng, Lê Hồng Cơ, Lê Viết Quân, Phạm Ý, Ngô Đức Mậu, Ngô Đức Thắng, Nguyễn Huy Tần, Trần Phỉ, Lê Viết Hanh, Nguyễn Thụy và Nguyễn Đình Triển.
Chính quyền tỉnh đã chính thức thuộc về cách mạng, đồng thời chấp thuận các yêu cầu của Ủy ban Kháng chiến Các huyện đã thành lập chính quyền cách mạng lâm thời, lãnh đạo nhân dân tiếp tục nỗ lực giành chính quyền tại các tổng và xã.
Sau khi nhận thông tri từ Việt Minh Nghệ Tĩnh về việc giành chính quyền, UBKN huyện Nghi Xuân ngay lập tức chuyển cuộc mít tinh quần chúng thành cuộc khởi nghĩa vào đêm 19-8-1945 Cùng ngày, UBKN huyện Hương Sơn đã tổ chức biểu tình thị uy, kéo đến chiếm đồn lính bảo an và giành chính quyền tại huyện, buộc quân Nhật ở đồn Ferrey phải rút về Vinh, tạo điều kiện thuận lợi cho việc giành chính quyền tại các xã.
Vào ngày 21-8-1945, dưới sự hỗ trợ của cán bộ và lực lượng UBKN Phân khu Nam Hà, UBKN huyện Hương Khê đã mobilize quần chúng đến tước khí giới quân địch tại đồn Chu Lễ, giành quyền kiểm soát huyện lị Sau khi giành được chính quyền tại huyện lị, UBKN đã phân công cán bộ về các địa phương để phát động khởi nghĩa giành chính quyền.