1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Luận án tiến sĩ kinh tế công tác quản lý tài chính và chất lượng trong giáo dục đại học

84 30 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Luận Án Tiến Sĩ Kinh Tế Công Tác Quản Lý Tài Chính Và Chất Lượng Trong Giáo Dục Đại Học
Trường học Trường Đại Học
Chuyên ngành Kinh Tế
Thể loại luận án
Định dạng
Số trang 84
Dung lượng 1,65 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU (2)
    • 1.1. Lý do nghiên cứu (2)
    • 1.2. Mục tiêu nghiên cứu (4)
    • 1.3. Đối tƣợng nghiên cứu (4)
    • 1.4. Phạm vi nghiên cứu (5)
    • 1.5. Phương pháp nghiên cứu (6)
    • 1.6. Khung nghiên cứu (7)
  • CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ TÀI CHÍNH VÀ CHẤT LƢỢNG TRONG GDĐH (9)
    • 2.1. Tổng quan các nghiên cứu liên quan đến đề tài (9)
    • 2.2. Khung pháp lý về quản lý tài chính và chất lƣợng trong GDĐH ở Việt Nam (17)
  • CHƯƠNG 3: CƠ SỞ LUẬN VỀ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH TẠI CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC VỚI VIỆC NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG GIÁO DỤC (22)
    • 3.1. Tổng quan về công tác quản lý tài chính trong GDĐH (22)
    • 3.2. Quản lý tài chính và chất lƣợng giáo dục (28)
  • CHƯƠNG 4: TÁC ĐỘNG CỦA CÔNG TÁC QUẢN LÝ TÀI CHÍNH ĐẾN CHẤT LƯỢNG GDĐH - NGHIÊN CỨU ĐIỂN HÌNH TẠI CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC THUỘC BỘ CÔNG THƯƠNG (36)
    • 4.1. Mẫu khảo sát (36)
    • 4.2. Phân tích thống kê mô tả (39)
    • 4.3. Phân tích hồi quy (44)
    • 4.4. Nhận xét về kết quả phân tích (55)
  • CHƯƠNG 5: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ TÀI CHÍNH NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG GDĐH (59)
    • 5.1. Những định hướng phát triển cơ bản của GDĐH đến năm 2020 (59)
    • 5.2. Giải pháp hoàn thiện công tác QLTC nhằm nâng cao chất lƣợng giáo dục (61)
  • KẾT LUẬN (74)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (77)

Nội dung

GIỚI THIỆU VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

Lý do nghiên cứu

Giáo dục đại học (GDĐH) đóng vai trò quan trọng trong việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế Do đó, GDĐH luôn là ưu tiên hàng đầu trong các chương trình phát triển kinh tế xã hội của các quốc gia, được coi là một khoản đầu tư mang lại lợi nhuận cho cả cá nhân và xã hội Trong bối cảnh nền kinh tế tri thức hiện nay, nhu cầu về GDĐH ngày càng gia tăng, đặc biệt tại các nước đang phát triển, khiến nhiều chính phủ phải tìm cách duy trì tài trợ công cho lĩnh vực này Lịch sử phát triển của GDĐH đã chứng kiến nhiều chương trình nghị sự nhằm cải thiện cơ chế tài chính Để giảm áp lực tài chính, các trường đại học cần nâng cao chất lượng giáo dục và danh tiếng của mình nhằm thu hút sinh viên, đặc biệt là sinh viên quốc tế, đồng thời thiết lập mối quan hệ với các doanh nghiệp để nhận hỗ trợ về thiết bị học tập và tạo cơ hội thực tập cho sinh viên.

Năm 2000, Ngân hàng Thế giới (WB) đã cảnh báo rằng giáo dục đại học (GDĐH) đang đối mặt với khủng hoảng toàn cầu Điều này đã dẫn đến việc cải cách GDĐH trở thành một xu hướng phổ biến ở nhiều quốc gia trong gần 20 năm qua Theo WB, các cuộc cải cách này thường có một "Chương trình nghị sự" chung, tập trung chủ yếu vào hai lĩnh vực quan trọng: Tài chính và quản lý.

Quản trị chất lượng trong giáo dục đại học (GDĐH) đang trở thành mối quan tâm hàng đầu, bất chấp sự khác biệt về thể chế chính trị và trình độ phát triển kinh tế giữa các quốc gia Nguyên nhân chính bao gồm sự gia tăng quy mô nhanh chóng của GDĐH, chi phí đơn vị cho sinh viên tăng nhanh hơn tốc độ phát triển kinh tế, và chất lượng giáo dục không cải thiện đáng kể, đặc biệt ở các nước đang phát triển Các cuộc thảo luận gần đây đã nêu bật các vấn đề tài chính và quản lý tài chính, với các nhà hoạch định chính sách đặt câu hỏi về mức độ đóng góp của ngân sách nhà nước cho GDĐH trong bối cảnh cạnh tranh với các nhu cầu khác như giáo dục phổ thông và chăm sóc sức khỏe Họ cũng quan tâm đến hiệu quả sử dụng ngân sách của các trường đại học, việc đầu tư vào các yếu tố đảm bảo chất lượng, và liệu những đầu tư này có đáp ứng được kỳ vọng của sinh viên và gia đình họ hay không Trong khi đó, sinh viên và gia đình họ lo lắng về khả năng chi trả cho học phí sau khi tốt nghiệp trung học.

Khách hàng trong nhà trường bao gồm những đối tượng chịu ảnh hưởng tích cực từ dịch vụ giáo dục, như sinh viên, giảng viên, nhân viên quản lý, doanh nghiệp tuyển dụng sinh viên tốt nghiệp, cùng với tất cả cá nhân và tổ chức có mối quan hệ hoặc giao dịch với nhà trường (Toản, 2007).

Trong những năm gần đây, giáo dục đại học (GDĐH) Việt Nam đã có sự phát triển quan trọng với sự gia tăng số lượng trường và sinh viên Tuy nhiên, GDĐH hiện đang đối mặt với những thách thức lớn, đặc biệt là về chất lượng giáo dục, hiệu quả và công bằng xã hội Vấn đề cốt lõi đối với các trường đại học là chất lượng và tài chính Theo Ngân hàng Thế giới (WB), mức đầu tư hợp lý cho một sinh viên ở các nước phát triển là khoảng 50% GDP/đầu người, trong khi ở các nước đang phát triển như Trung Quốc, tỷ lệ này lên tới 150% GDP/đầu người Điều này cho thấy, GDP/đầu người càng thấp thì tỷ lệ đầu tư cho giáo dục càng cần thiết phải lớn hơn Năm 2007, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã đề xuất Đề án đổi mới cơ chế tài chính giáo dục giai đoạn 2009-2014 dựa trên Luật Giáo dục 2005 và Nghị định số 75/2006/NĐ-CP.

Nghị định số 43/2006/NĐ-CP của Chính phủ quy định về quyền tự chủ tài chính trong giáo dục đã được triển khai từ năm 2006, tuy nhiên, cơ chế quản lý tài chính trong giáo dục đại học (GDĐH) hiện nay đang đối mặt với hai thách thức lớn: hạn chế ngân sách và nhu cầu ngày càng cao từ người học Việc nâng cao chất lượng giáo dục yêu cầu các cơ sở GDĐH đầu tư mạnh vào cơ sở vật chất và các yếu tố đảm bảo chất lượng, nhưng điều này gặp khó khăn do ràng buộc ngân sách Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng cơ chế tài chính hiện tại cần được cải thiện để thúc đẩy sự phát triển của GDĐH, song vẫn chưa có đánh giá đầy đủ về hiệu quả của cơ cấu thu chi nội tại của các trường đại học và tác động của nó đến chất lượng giáo dục.

Nghiên cứu về ảnh hưởng của quản lý tài chính đến chất lượng giáo dục đại học là rất quan trọng trong bối cảnh Việt Nam đang đổi mới hệ thống giáo dục Kết quả nghiên cứu sẽ giúp cơ quan quản lý nhà nước và các trường đại học đưa ra quyết định phù hợp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục Đồng thời, nghiên cứu cũng cung cấp thông tin cho phụ huynh và sinh viên về cách các trường sử dụng nguồn kinh phí đóng góp để đảm bảo chất lượng giáo dục Đặc biệt, nghiên cứu sẽ làm rõ sự tương xứng giữa đầu tư cho các yếu tố chất lượng giáo dục và chi phí cũng như công sức của cán bộ, giảng viên, sinh viên Do đó, nghiên cứu tác động của quản lý tài chính đến chất lượng giáo dục đại học tại các trường thuộc Bộ Công Thương mang ý nghĩa sâu sắc và thiết thực.

Mục tiêu nghiên cứu

Nghiên cứu này nhằm ba mục tiêu chính: thứ nhất, giải thích cơ sở lý luận và nội hàm của quản lý tài chính tại các trường đại học, đồng thời xây dựng tiêu chí đánh giá công tác quản lý tài chính nhằm nâng cao chất lượng thông qua phân tích cấu trúc thu chi và ràng buộc pháp lý Thứ hai, nghiên cứu sẽ đánh giá tác động của quản lý tài chính đến chất lượng giáo dục tại các trường đại học thuộc Bộ Công Thương, dựa trên sự hài lòng của giảng viên và sinh viên về cách sử dụng tài chính cho các yếu tố đảm bảo chất lượng Cuối cùng, nghiên cứu sẽ đánh giá chất lượng giáo dục thông qua sự hài lòng của các đơn vị sản xuất sử dụng nguồn nhân lực từ các trường này.

Nghiên cứu tập trung vào việc phân tích và cải thiện quản lý tài chính trong giáo dục đại học tại các trường thuộc Bộ Công Thương, nhằm nâng cao chất lượng đào tạo Dựa trên đó, bài viết sẽ đưa ra các gợi ý và giải pháp thiết thực để tạo lập môi trường thuận lợi cho công tác này Các câu hỏi cụ thể sẽ được giải đáp để làm rõ hơn về tình hình hiện tại và hướng phát triển trong tương lai.

Trong lý thuyết và thực nghiệm, công tác quản lý tài chính tại các trường đại học có tác động quan trọng đến các yếu tố đảm bảo chất lượng giáo dục đại học Những yếu tố này bao gồm cơ sở vật chất, đội ngũ giảng viên, chương trình đào tạo và các dịch vụ hỗ trợ sinh viên Việc quản lý tài chính hiệu quả sẽ góp phần nâng cao chất lượng giáo dục và đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội.

Chất lượng giáo dục tại các trường đại học thuộc Bộ Công Thương chịu tác động từ nhiều yếu tố đảm bảo, bao gồm chương trình giảng dạy, đội ngũ giảng viên, cơ sở vật chất và môi trường học tập Mỗi yếu tố này có mức độ ảnh hưởng khác nhau đến chất lượng đào tạo, từ việc nâng cao kiến thức chuyên môn đến khả năng thực hành của sinh viên Việc đánh giá và cải thiện những yếu tố này là cần thiết để nâng cao chất lượng giáo dục và đáp ứng nhu cầu thị trường lao động.

Để nâng cao chất lượng giáo dục, các cơ quan quản lý nhà nước và các trường đại học cần xem xét một số gợi ý và đề xuất quan trọng Trước hết, cần cải thiện quy trình quản lý tài chính nhằm tối ưu hóa nguồn lực và đảm bảo tính minh bạch Thứ hai, các trường đại học nên tăng cường hợp tác với doanh nghiệp để tạo ra các chương trình đào tạo phù hợp với nhu cầu thị trường Cuối cùng, việc đầu tư vào cơ sở vật chất và công nghệ giáo dục cũng là yếu tố then chốt để nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập.

Đối tƣợng nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu tập trung vào tác động của quản lý tài chính đến chất lượng giáo dục, đặc biệt là trong giáo dục đại học (GDĐH) tại Việt Nam Nghiên cứu sẽ phân tích cơ cấu sử dụng nguồn lực tài chính tại các trường đại học và mối liên hệ của nó với các yếu tố đảm bảo chất lượng giáo dục, dựa trên lý thuyết và thực tiễn Các tài liệu nghiên cứu sẽ được tổng hợp từ nhiều quốc gia như Canada, Ấn Độ, Mỹ, Đức, Trung Quốc và các tiểu vương quốc Ả Rập, cùng với các nghiên cứu tại Châu Phi và Châu Á Đặc biệt, nghiên cứu sẽ xem xét hai công trình quan trọng của Ngân hàng Thế giới về tài chính giáo dục tại Việt Nam và GDĐH Việt Nam Ngoài ra, đề tài cũng sẽ giới thiệu một số mô hình đầu tư cho các yếu tố đảm bảo chất lượng GDĐH mà Việt Nam có thể áp dụng.

Phạm vi nghiên cứu

Luận án sẽ nghiên cứu công tác quản lý tài chính trong giáo dục đại học, coi đây là một ngành dịch vụ, với ba khía cạnh chính Thứ nhất, phân tích cơ cấu sử dụng nguồn lực tài chính cho các yếu tố đảm bảo chất lượng giáo dục Thứ hai, đánh giá sự hài lòng của giảng viên và sinh viên về mức đầu tư tài chính cho các yếu tố chất lượng Thứ ba, khảo sát sự hài lòng của đơn vị sử dụng lao động về chất lượng giáo dục của các trường đại học thuộc Bộ Công Thương, dựa trên các tiêu chí như kiến thức nghề nghiệp, năng lực tin học, ngoại ngữ, kỹ năng nghề nghiệp, và đạo đức nghề nghiệp của sinh viên tốt nghiệp Nghiên cứu sử dụng dữ liệu thứ cấp từ năm 2008-2012 của 8 trường đại học, phân tích cơ cấu tài chính và kết quả học tập Để đánh giá sự hài lòng, sẽ tiến hành khảo sát về các yếu tố đảm bảo chất lượng như mục tiêu, chương trình đào tạo, đội ngũ giảng viên, cơ sở vật chất, và quản lý hoạt động đào tạo, với 6 ngành đào tạo thế mạnh được chọn làm mẫu Cuối cùng, nghiên cứu cũng sẽ điều tra ý kiến của các giám đốc và quản đốc tại doanh nghiệp về chất lượng giáo dục của các trường đại học này.

Nghiên cứu này tập trung vào ảnh hưởng của quản lý tài chính đến chất lượng giáo dục tại các cơ sở đào tạo chính, với đối tượng chính là giảng viên và sinh viên hệ chính quy Nghiên cứu không bao gồm sinh viên học tại các địa điểm liên kết, hình thức vừa học vừa làm hay sinh viên liên thông Mẫu nghiên cứu sẽ bao gồm cán bộ quản lý, giảng viên và sinh viên từ năm thứ hai đến năm thứ tư, cùng với các nhà tuyển dụng sinh viên tốt nghiệp Việc chọn mẫu được thực hiện ngẫu nhiên nhằm đảm bảo độ tin cậy cho kết quả nghiên cứu.

Giáo dục đại học được coi là một ngành dịch vụ do có những đặc điểm như tính vô hình, không thể lưu trữ, và quá trình cung cấp dịch vụ diễn ra đồng thời giữa cơ sở đào tạo và người sử dụng dịch vụ Sự tương tác giữa giảng viên, nhân viên và sinh viên là yếu tố chính, đồng thời chất lượng dịch vụ giáo dục cũng thay đổi tùy thuộc vào các điều kiện cụ thể trong quá trình cung ứng.

Phương pháp nghiên cứu

Nghiên cứu này kết hợp giữa phương pháp nghiên cứu định tính và định lượng để đánh giá ảnh hưởng của các yếu tố đảm bảo chất lượng giáo dục tại các trường đại học thuộc Bộ Công Thương Ở giai đoạn đầu, nghiên cứu định tính được sử dụng để mô tả cơ cấu sử dụng nguồn lực tài chính và phân tích mức độ ảnh hưởng của các yếu tố này Đồng thời, phương pháp này cũng giúp mô tả kết quả đầu tư tài chính cho chất lượng giáo dục Nghiên cứu định lượng sau đó được áp dụng để đo lường tác động của các yếu tố này thông qua phân tích kết quả khảo sát và hồi quy.

Nghiên cứu này sử dụng hai phương pháp chính và một số công cụ hỗ trợ, bao gồm ý kiến của cán bộ quản lý giáo dục và chuyên viên phụ tài chính Đầu tiên, hệ thống lý thuyết và các nghiên cứu trước được rà soát để xác định các yếu tố tác động của quản lý tài chính đến chất lượng giáo dục đại học Tiếp theo, khảo sát được tiến hành với khoảng 800 sinh viên, 400 giảng viên, gần 50 cán bộ quản lý tại các trường đại học, và 150 cán bộ quản lý doanh nghiệp để thu thập thông tin về ảnh hưởng của cơ cấu sử dụng tài chính đến chất lượng giáo dục Cuối cùng, nghiên cứu áp dụng mô hình hồi quy đa biến để phân tích và đánh giá tác động của quản lý tài chính đối với các yếu tố đảm bảo chất lượng tại các trường đại học thuộc Bộ Công Thương.

Hình 0.1 Quy trình phân tích của luận án

Nghiên cứu nội hàm quản lý tài chính trong GDĐH, cơ cấu sử dụng nguồn lực chính cho các yếu tố đảm bảo chất lƣợng trong

Tác động của công tác quản lý tài chính tới chất lƣợng GDĐH

Tổng hợp phân tích, so sánh

Nghiên cứu công tác quản lý tài chính tại các trường đại học thuộc Bộ Công Thương

Nghiên cứu định lượng nhằm đo lường sự hài lòng của giảng viên và sinh viên về việc sử dụng nguồn lực tài chính cho các yếu tố đảm bảo chất lượng giáo dục Đồng thời, nghiên cứu cũng đánh giá mức độ hài lòng của người sử dụng lao động đối với chất lượng giáo dục mà các cơ sở đào tạo cung cấp.

Các phát hiện, đề xuất các giải pháp và kết luận

Khung nghiên cứu

Nghiên cứu về quản lý tài chính trong giáo dục đại học (GDĐH), đặc biệt từ các tác giả như Mailcolm Prowle và Eric Morgan (2005) cùng B.Paulsen và C.Smart (2001), cho thấy rằng mục tiêu chính của quản lý tài chính là đảm bảo hiệu quả đầu tư cho các yếu tố chất lượng của trường Cụ thể, nghiên cứu của B.Paulsen và C.Smart tại các trường đại học bang New Jersey và so sánh với các trường công lập ở Canada và Ấn Độ chỉ ra rằng ngân sách hỗ trợ từ tiểu bang và tư nhân cần được đầu tư vào cơ sở hạ tầng, thiết bị đào tạo, và thù lao nhân viên Tương tự, nghiên cứu của Prowle và Morgan phân tích dữ liệu từ 12 trường đại học công lập trên toàn cầu, khẳng định rằng tài trợ công cho GDĐH là yếu tố then chốt để nâng cao chất lượng giáo dục, từ đó thu hút thêm sinh viên Để đánh giá tác động của việc sử dụng nguồn lực tài chính đến chất lượng, nghiên cứu áp dụng các thang đo trong mô hình quản lý chất lượng EFQM, tiêu chuẩn AUN-QA, và tiêu chuẩn của Bộ GD&ĐT.

Dựa trên các nghiên cứu đã thực hiện, nghiên cứu sinh đã xây dựng một khung nghiên cứu phù hợp với điều kiện Việt Nam để giải quyết các câu hỏi liên quan đến tác động của quản lý tài chính đến chất lượng giáo dục Trong bối cảnh xã hội hóa giáo dục, nghiên cứu sẽ tập trung vào việc phân tích cách mà cơ cấu sử dụng nguồn lực tài chính ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục Tuy nhiên, việc xác định mức độ tác động của các yếu tố khác nhau vẫn cần được nghiên cứu thực nghiệm kỹ lưỡng Với quan điểm cải cách giáo dục đại học hiện nay, đặc biệt là trong cơ chế quản lý tài chính, việc hiểu rõ những vấn đề này là rất quan trọng Kết quả thực nghiệm sẽ dẫn đến các khuyến nghị nhằm đưa ra giải pháp phù hợp để nâng cao chất lượng giáo dục.

The European Foundation for Quality Management (EFQM) model is utilized for managing universities, colleges, and public administration services in the United States and the European Union (Toản, 2007).

EFQM, được giới thiệu vào năm 1991 bởi Tổ chức quản lý chất lượng châu Âu, là một mô hình quan trọng hỗ trợ tổ chức trong việc tự đánh giá Mô hình này không chỉ cung cấp khung làm việc mà còn là nền tảng để xem xét khả năng tham gia Giải thưởng Chất lượng Châu Âu (Hải, 2013).

Hình 0.2 Khung phân tích tác động của quản lý tài chính tới các yếu tố đảm bảo chất lƣợng giáo dục

Theo khung phân tích, các tác động của công tác quản lý tài chính tới chất lượng giáo dục tại các trường đại học được phân thành năm nhân tố chính: (1) chương trình đào tạo, (2) giảng viên, (3) cơ sở vật chất thiết bị phục vụ đào tạo, (4) học liệu phục vụ học tập, và (5) quá trình quản lý các hoạt động đào tạo Chất lượng giáo dục của cơ sở đào tạo được thể hiện qua hai nhân tố chính: (1) phẩm chất của giảng viên và (2) hiệu quả của chương trình đào tạo.

SV tốt nghiệp; (2) năng lực, trình độ chuyên môn của SV tốt nghiệp

Nghiên cứu được chia thành năm chương, bắt đầu với Chương 1 nêu rõ lý do, mục tiêu và đối tượng nghiên cứu, cùng với phương pháp và khung nghiên cứu tổng thể Chương 2 phân tích các yếu tố tác động của quản lý tài chính đến chất lượng giáo dục đại học Chương 3 giải thích cơ sở lý luận của quản lý tài chính tại các trường đại học và xây dựng tiêu chí đánh giá chất lượng giáo dục Chương 4 đánh giá thực trạng sử dụng nguồn lực tài chính và phân tích sự hài lòng của các đối tượng tại các trường đại học thuộc Bộ Công Thương qua kết quả hồi quy Cuối cùng, Chương 5 đưa ra kết luận, giải pháp và khuyến nghị nhằm hoàn thiện quản lý tài chính, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục.

Chương trình đào tạo Đội ngũ giảng viên

Học liệu phục vụ dạy học

Quản lý hoạt động đào tạo

QUẢN LÝ TÀI CHÍNH (Cơ cấu sử dụng nguồn lực tài chính) CHẤT LƢỢNG GIÁO DỤC (Phẩm chất, năng lực, trình độ chuyên môn của sinh viên ) )

TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ TÀI CHÍNH VÀ CHẤT LƢỢNG TRONG GDĐH

Tổng quan các nghiên cứu liên quan đến đề tài

Nghiên cứu về quản lý tài chính và ảnh hưởng của nó đến chất lượng giáo dục đại học đã được thực hiện rộng rãi tại Việt Nam và nhiều quốc gia khác Chương này sẽ tóm tắt các nghiên cứu liên quan đến các yếu tố đại diện cho chất lượng giáo dục đại học và tác động của quản lý tài chính thông qua các yếu tố đảm bảo chất lượng Đồng thời, chương cũng sẽ đưa ra những nhận xét và đánh giá về kết quả của các nghiên cứu đã được thực hiện.

2.1.1 Yếu tố đại diện cho chất lượng GDĐH

Hiện nay, có nhiều đánh giá khác nhau về chất lượng giáo dục đại học trong các cơ quan quản lý và xã hội Chất lượng giáo dục đại học được xem xét từ nhiều cấp độ, bao gồm chất lượng sản phẩm đào tạo, cơ sở đào tạo và toàn bộ hệ thống đào tạo Tuy nhiên, chất lượng sản phẩm đào tạo, tức là sinh viên tốt nghiệp, vẫn là yếu tố quan trọng nhất Bởi lẽ, nhiệm vụ cơ bản của hệ thống giáo dục đại học là cung cấp nguồn lao động kỹ thuật và quản lý cho nền kinh tế, và mọi khía cạnh chất lượng khác đều hướng tới mục tiêu cuối cùng là nâng cao chất lượng sinh viên tốt nghiệp.

Chất lượng giáo dục đại học là một khái niệm trừu tượng, không thể cảm nhận hay đo lường bằng các công cụ thông thường Tại Việt Nam, tiêu chí đánh giá chất lượng giáo dục đại học bắt đầu từ năm 2004 với Quyết định số 38/2004/BGD&ĐT Năm 2007, Bộ GD&ĐT ban hành Quyết định số 65/2007/QĐ-BGDĐT, quy định 10 tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục đại học, bao gồm sứ mạng, tổ chức, chương trình giáo dục, đội ngũ giảng viên, nghiên cứu khoa học, và cơ sở vật chất Đến tháng 10 năm 2012, thông tư số 37/2012/TT-BGDĐT đã sửa đổi một số điều trong Quyết định 65, nhưng 10 tiêu chuẩn đánh giá vẫn được giữ nguyên.

Bộ GD&ĐT đã thiết lập 18 tiêu chuẩn đảm bảo chất lượng giáo dục đại học trong khu vực ASEAN (AUN-QA) Mặc dù các chương trình đánh giá rất đa dạng, Việt Nam mới chỉ kiểm định một số ngành như kinh tế và điện - điện tử với điểm số đạt chuẩn tối thiểu Các tiêu chuẩn hiện tại chỉ phản ánh sự đáp ứng mục tiêu của trường mà chưa có đánh giá độc lập để xác định các chỉ số cải tiến chất lượng Các tiêu chí đánh giá chất lượng giáo dục, như tỷ lệ sinh viên tìm được việc làm phù hợp và sự đánh giá tích cực từ nhà tuyển dụng, được nhấn mạnh trong các nghiên cứu trước đây Tỷ lệ sinh viên nhanh chóng hòa nhập vào công việc và thăng tiến cũng là chỉ số quan trọng phản ánh uy tín và chất lượng giáo dục của nhà trường.

Hiện nay, có hai quan điểm chính về chất lượng: chất lượng tuyệt đối và chất lượng tương đối Tuy nhiên, từ góc độ tiếp cận thị trường, chất lượng giáo dục được định nghĩa là mức độ đạt được so với các tiêu chuẩn của mục tiêu đào tạo đã được đặt ra, dựa trên yêu cầu của sản xuất và dịch vụ Đồng thời, chất lượng giáo dục cũng phản ánh mức độ thoả mãn yêu cầu của khách hàng Cuối cùng, chất lượng giáo dục còn được hiểu là nhân cách tổng thể của sinh viên sau khi ra trường, chính là sản phẩm cuối cùng của nhà trường, khẳng định giá trị của nhà trường trong xã hội.

Nhân cách của sinh viên tốt nghiệp được đánh giá qua hai nhóm chính: phẩm chất, bao gồm phẩm chất công dân, phẩm chất nghề nghiệp và phẩm chất cá nhân; và năng lực, trình độ chuyên môn, bao gồm năng lực chung, năng lực nghề nghiệp, trình độ chuyên môn và kỹ năng sống Cách tiếp cận này giúp nghiên cứu đánh giá tác động của quản lý tài chính đến chất lượng giáo dục một cách thực tế hơn, từ đó nâng cao độ tin cậy của kết quả nghiên cứu.

2.1.2 Yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục

2.1.2.1 Tiếp cận theo cơ chế quản lý

Nghiên cứu của Arthur M.Hauptman (2006) chỉ ra rằng tài chính cho giáo dục đại học phụ thuộc vào quy mô và chất lượng của từng trường Nguồn lực tài chính dồi dào không chỉ mở rộng cơ hội học tập mà còn nâng cao chất lượng giáo dục thông qua việc cải thiện đội ngũ, dịch vụ và trang thiết bị Để tăng cường nguồn tài chính, việc tăng thuế hoặc học phí là giải pháp khả thi, bên cạnh việc xem xét hỗ trợ từ nhà nước cho các hoạt động nghiên cứu và chi phí thường xuyên, với yêu cầu minh bạch trong phân bổ tài chính Vấn đề then chốt là cách thức phân bổ ngân sách và quản lý tài chính, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng giáo dục Mức độ tự chủ và quyền hạn của các viên chức trong việc sử dụng ngân sách cũng đóng vai trò quan trọng, với sự cần thiết phải gắn liền giữa quyền tự chủ và trách nhiệm Nếu không có tiêu chuẩn rõ ràng về trách nhiệm, việc tự chủ trong sử dụng ngân sách có thể dẫn đến rủi ro trong quản lý tài chính.

Năm 2005, Nicholas Barr đã chỉ ra những thách thức trong giáo dục đại học (GDĐH) mà các nước đang phát triển, bao gồm Việt Nam, đang phải đối mặt, như thiếu hụt nguồn tài chính cho hoạt động của các trường đại học và gia tăng lo ngại về chất lượng giáo dục Ông nhấn mạnh rằng các hình thức hỗ trợ sinh viên chưa đủ đáp ứng nhu cầu, và tỷ lệ sinh viên có hoàn cảnh khó khăn là rất nhỏ Nguồn ngân sách dành cho GDĐH đang có xu hướng giảm do quan điểm cho rằng tài chính chủ yếu đến từ thuế của dân, trong khi người hưởng lợi lại là tầng lớp khá giả Barr đề xuất rằng chính phủ cần có chiến lược hiệu quả như hoãn chi phí có thể hoãn, thu hồi khoản vay dựa trên thu nhập, và thúc đẩy khả năng tiếp cận đại học Ông cũng nêu ra những thách thức lớn trong kiểm soát tài chính GDĐH, bao gồm chi tiêu ngân sách không hợp lý, sự chi phối của tầng lớp trung lưu, thiếu chính sách cho vay hiệu quả, sức ép kinh tế lên các trường đại học, và các yêu cầu hành chính phức tạp.

Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) chỉ ra rằng, hầu hết các nước đều sử dụng trợ cấp cho giáo dục đại học (GDĐH) dưới hình thức tài trợ trực tiếp từ chính phủ nhằm đảm bảo chất lượng, như đầu tư cơ sở hạ tầng và trả lương cho giảng viên Nếu không có trợ cấp, chi phí GDĐH sẽ quá cao, dẫn đến thiếu hụt nguồn cung cho nhu cầu nhân lực quốc gia ADB nhấn mạnh rằng, sự hạn chế trong tuyển sinh GDĐH chủ yếu do nguồn cung địa điểm hạn chế, không phải do nhu cầu Việc phụ thuộc vào trợ cấp công cộng làm giảm số lượng cơ sở GDĐH có thể cung cấp Trong những điều kiện thích hợp, cá nhân sẵn sàng chi trả cho GDĐH để đảm bảo chất lượng cho con em họ, từ đó tăng cường nguồn lực cho GDĐH và tuyển sinh Phân tích từ 86 quốc gia cho thấy có mối quan hệ nghịch đảo giữa tỷ lệ tuyển sinh GDĐH và chia sẻ tài chính công, với các nước có tỷ lệ nhập học cao hơn thường có phần trăm ngân sách giáo dục cho GDĐH thấp hơn ADB khẳng định rằng, vấn đề quan trọng nhất trong tài chính GDĐH là sự minh bạch trong việc sử dụng ngân sách, để xã hội nhận thức được sự đóng góp đúng mục đích cho thế hệ tương lai.

2.1.2.2 Tiếp cận theo cơ cấu sử dụng nguồn tài chính

Nghiên cứu của Bryan Cheung (2008) chỉ ra rằng chính phủ có vai trò quan trọng trong việc hình thành nguồn tài chính cho các trường đại học thông qua các chính sách như học phí, công quỹ và các khoản trợ cấp Các trường có thể tạo ra nguồn thu lớn từ hợp đồng bên ngoài, cho phép kiểm soát tài chính như mô hình công ty Tony Holloway (2006) nhấn mạnh thách thức trong giáo dục đại học (GDĐH) là xác định các khóa học và mô hình quản lý tài chính phù hợp với nguồn lực Thành công trong quản lý tài chính không chỉ phụ thuộc vào quy trình truyền thống mà còn vào yếu tố hành vi con người Holloway so sánh GDĐH với dịch vụ y tế quốc gia, cho rằng GDĐH tư nhân có thể quản lý tài chính hiệu quả hơn khu vực công Việc áp dụng phương pháp quản lý tài chính giống như kinh doanh là cần thiết, tuy nhiên, quyết định không nên chỉ dựa trên kết quả tài chính mà còn phải xem xét bối cảnh xã hội rộng lớn hơn.

Nhu cầu gia tăng về giáo dục đại học (GDĐH) và sự không tương xứng trong năng lực của các chương trình đào tạo đã tạo ra áp lực lớn về tuyển sinh và chất lượng tại các trường Sự gia tăng số lượng sinh viên kéo theo nhu cầu cấp bách về giảng viên, cơ sở vật chất và nguồn lực Việc tích hợp kỹ thuật vào chương trình đào tạo nhằm đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế toàn cầu cũng làm gia tăng chi phí và áp lực tài chính cho các trường Điều này dẫn đến xu hướng chuyển giao quyền lực từ trung ương đến địa phương, đồng thời tăng cường quyền tự chủ cho các trường trong việc quản lý nguồn lực tài chính, đặc biệt là trong việc đảm bảo chất lượng đội ngũ giảng viên Định hướng thị trường sẽ tập trung vào vấn đề chi phí và lợi ích, khuyến khích các hoạt động giao khoán cho giảng viên và các trường.

Nghiên cứu của UNICEF (2000) chỉ ra ba vấn đề chính trong huy động và quản lý tài chính cho giáo dục đại học: (1) Liệu nguồn thu từ đóng góp của cha mẹ học sinh có cải thiện chất lượng đào tạo? (2) Chính phủ đã có đủ chính sách để đảm bảo quyền lợi cho giáo viên từ các khoản đóng góp này chưa? (3) Các trường đại học sử dụng nguồn thu bổ sung có đúng mục đích phi lợi nhuận để nâng cao chất lượng? UNICEF khuyến nghị các quốc gia, đặc biệt là những nước đang phát triển, cần có khung pháp lý rõ ràng về tài chính trong các trường đại học, quy định cụ thể tỷ lệ phần trăm dành cho thù lao giảng viên từ tổng doanh thu, và áp dụng mô hình kiểm soát tài chính tương tự như các công ty phi lợi nhuận D Bruce Johnstone (1998) nhấn mạnh rằng tài chính giáo dục đại học không thể chỉ phụ thuộc vào nguồn ngân sách của chính phủ, và người tiêu dùng cần được cung cấp thông tin rõ ràng về chi phí giáo dục Các trường đại học và chính phủ cần định giá dịch vụ giáo dục dựa trên chất lượng và hiệu quả, đồng thời tái cấu trúc hệ thống giáo dục đại học để nâng cao hiệu quả tài chính và thúc đẩy phát triển kinh tế.

2.1.2.3 Tiếp cận theo hướng kiểm soát chi nguồn lực tài chính

Quản lý tài chính trong giáo dục đại học cần áp dụng mô hình doanh nghiệp với sự kiểm soát từ các bên hưởng lợi, theo kết luận của Kupper (2001) Do phần lớn kinh phí được cung cấp bởi chính phủ và quốc hội, cơ chế quản lý hiện tại thường mang tính tập trung và quan liêu Tuy nhiên, trong những năm gần đây, xu hướng gia tăng quyền tự chủ cho các trường đại học công đã trở nên rõ rệt, với ngân sách của họ ngày càng tách biệt và độc lập hơn.

Ngân sách tự chủ của các trường đại học chủ yếu do người học đóng góp, trong đó nguồn tài chính từ ngân sách nhà nước (NSNN) cũng bắt nguồn từ tiền thuế của người dân Trong thời hạn ngân sách, các trường có quyền tự quyết định phân phối nguồn lực mà không cần sự phê duyệt của các bộ liên quan, nhưng cần có sự giám sát từ các đối tượng thụ hưởng Để đảm bảo tính minh bạch trong quyền tự chủ, các trường đại học cần áp dụng các công cụ quản lý hiện đại thay thế cho các phương pháp hành chính Học hỏi từ các công ty trong môi trường kinh tế, các trường nên thiết lập ngân sách dựa trên mục tiêu sản xuất và có sự phối hợp giữa các phòng ban với mức độ tự trị cao Để quản lý tài chính hiệu quả, các trường đại học cần phát triển hệ thống thông tin minh bạch và có kỷ luật chặt chẽ, với kế toán tổng hợp và chi phí là nguồn thông tin chính Mặc dù là tổ chức phi lợi nhuận, các trường vẫn phải quản lý ngân sách từ nhiều nguồn khác nhau, do đó cần có hệ thống kế toán rõ ràng để theo dõi dòng tiền từ nhà nước và các nguồn khác Hệ thống kế toán tài chính của một trường đại học nên bao gồm báo cáo dòng tiền, bảng cân đối và tuyên bố thay đổi giá trị tài sản, là công cụ cơ bản cho các kiểm toán viên và nhà chức trách trong việc kiểm tra tình trạng tài chính của trường.

Nghiên cứu của Unesco (1995) đã chỉ ra những thay đổi trong chính sách giáo dục đại học (GDĐH) ở các nước vùng Địa Trung Hải, tập trung vào chính sách tài chính và sự gia tăng số lượng sinh viên do nhu cầu xã hội Chính phủ đang gia tăng áp lực về trách nhiệm giải trình và tính minh bạch trong thị trường lao động sau đào tạo, trong khi người tiêu dùng GDĐH, bao gồm sinh viên và nhà tuyển dụng, cũng đóng vai trò quan trọng Xu hướng phân cấp và tự chủ trong các tổ chức GDĐH ngày càng rõ nét, yêu cầu chính phủ cần chú trọng đến năng lực quản lý của các tổ chức này để đảm bảo chất lượng đào tạo Cụ thể, các tổ chức GDĐH cần được quản lý như doanh nghiệp với sự can thiệp tối thiểu từ nhà nước, đồng thời chuyển đổi từ kiểm soát trực tiếp sang hợp đồng đào tạo, yêu cầu các tổ chức phải chịu trách nhiệm về nguồn lao động được đào tạo Những thay đổi này đã làm biến đổi vai trò và chức năng của các nhà quản lý GDĐH, đòi hỏi họ không chỉ thực hiện vai trò truyền thông mà còn phải có kỹ năng trong lĩnh vực chính sách và quan hệ công chúng.

Khung pháp lý về quản lý tài chính và chất lƣợng trong GDĐH ở Việt Nam

Cơ chế quản lý giáo dục đại học (GDĐH) tại Việt Nam có thể được phân tích qua sáu nội dung chính: phân cấp và tự chủ, trách nhiệm giải trình và đảm bảo chất lượng, khung pháp lý cho khu vực tư thục, khuôn khổ cho nghiên cứu khoa học công nghệ, khuôn khổ cho mối liên kết giữa các trường và doanh nghiệp, cùng với thông tin Tất cả các yếu tố này tương tác với nhau, tạo nên một cơ cấu quản lý hoàn chỉnh và hiệu quả Tại Việt Nam, hai khung pháp lý chủ yếu điều chỉnh các nội dung này là khung pháp lý về công tác tài chính và khung pháp lý về chất lượng giáo dục.

2.2.1 Khung pháp lý về quản lý tài chính

Việt Nam tiến hành thử nghiệm phân cấp quản lý tài chính trong giáo dục từ năm

Năm 1993, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 241/TTg ngày 25 tháng 5 về thu và sử dụng học phí, đánh dấu sự khởi đầu cho khung pháp lý quản lý tài chính giáo dục Sau đó, Luật Ngân sách Nhà nước ngày 20 tháng 3 năm 1996 và các sửa đổi, bổ sung vào năm 1998 đã tạo nền tảng cho quản lý tài chính trong giáo dục đại học Quyết định số 70/1998/QĐ-TTg ngày 31/3/1998 quy định về việc thu và sử dụng học phí tại các cơ sở giáo dục công lập đã mở rộng nguồn huy động từ tư nhân Hệ thống phân cấp quản lý tài chính giáo dục được củng cố với Nghị định 10/2002/NĐ-CP ngày 16/01/2002 và Thông tư số 25/2002/TT-BTC ngày 21/3/2002, hướng dẫn áp dụng chế độ tài chính cho các đơn vị sự nghiệp có thu.

Nghị định 10/2002/NĐ-CP quy định hai loại hình đơn vị sự nghiệp trong các cơ sở giáo dục công lập: loại tự bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt động thường xuyên và loại tự bảo đảm một phần chi phí Tài chính được huy động từ ngân sách nhà nước cho các hoạt động thường xuyên, nghiên cứu khoa học, tinh giản biên chế và đầu tư cơ sở vật chất, cùng với nguồn thu sự nghiệp từ học phí, lệ phí, hoạt động sản xuất, dịch vụ, viện trợ và quà tặng Chi tài chính bao gồm hoạt động thường xuyên, sản xuất, nghiên cứu khoa học và đầu tư phát triển Tuy nhiên, nguồn thu chính của các cơ sở giáo dục đại học vẫn được thực hiện theo Quyết định số 70/1998/QĐ-TTg ngày 31/3/1998.

Sau khi Luật Ngân sách đƣợc sửa đổi năm 2002 (số 01/2002/QH 11 ngày 16 tháng

Nghị định số 60/2003/NĐ-CP ngày 06 tháng 6 năm 2003 đã làm rõ hệ thống phân cấp tài chính giáo dục ở Việt Nam, nhằm tăng quyền tự chủ cho các đơn vị sự nghiệp có thu Sự phân cấp này bắt đầu từ Nghị định 43 và Thông tư số 71 ban hành tháng 8/2006, cho phép các cơ sở giáo dục công lập từ mầm non đến đại học tự chủ hơn về tài chính Tuy nhiên, phải đến bốn năm sau khi Luật Giáo dục 2005 có hiệu lực, Thủ tướng Chính phủ mới ban hành Quyết định số 1310/QĐ-TTg điều chỉnh khung học phí cho cơ sở giáo dục nghề nghiệp và GDĐH công lập năm học 2009-2010 Việc huy động nguồn tài chính từ học phí đã diễn ra trong 11 năm (từ 1998 đến 2009), gây ra nhiều khó khăn cho các cơ sở GDĐH trong việc đảm bảo nguồn tài chính.

Nghị quyết số 35/2009/QH12 ngày 19/6/2009 đã đánh dấu bước đột phá trong cơ chế tài chính giáo dục, nhằm xây dựng các cơ chế tài chính mới để huy động nhiều nguồn lực và sử dụng hiệu quả ngân sách nhà nước, với mục tiêu nâng cao chất lượng giáo dục, mở rộng quy mô và đảm bảo công bằng Nhà nước đóng vai trò chủ yếu trong việc đầu tư cho giáo dục, đồng thời khuyến khích sự đóng góp từ gia đình, doanh nghiệp và cá nhân Năm 2009, Luật Giáo dục được sửa đổi để phù hợp với thực tiễn, cùng với Nghị định số 115/2010/NĐ-CP quy định trách nhiệm quản lý nhà nước về giáo dục, đặc biệt là giáo dục đại học Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã ban hành Nghị quyết số 05/NQ/BCSĐ để cụ thể hóa các chính sách này.

2010 về đổi mới quản lý GDĐH giai đoạn 2010-2012, trong đó nhấn mạnh về đổi mới cơ

Nghị định số 43/2006/NĐ-CP, ban hành ngày 25/4/2006, quy định quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của các đơn vị sự nghiệp công lập trong việc thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và quản lý tài chính Nghị định này nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các đơn vị công lập, tạo điều kiện cho sự phát triển bền vững và đáp ứng nhu cầu của xã hội.

Thông tư số 71/2006/TT-BTC ngày 9/8/2006 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Nghị định số 43/2006/NĐ-CP về quyền tự chủ của các đơn vị sự nghiệp công lập Từ năm học 2009-2010, các cơ sở giáo dục phải thực hiện "3 công khai" và gắn trách nhiệm với người đứng đầu, đồng thời áp dụng mức trần học phí mới để nâng cao chất lượng đào tạo Dựa trên Nghị quyết số 35/2009/QH12, Nghị định số 49/2010/NĐ-CP quy định miễn, giảm học phí và hỗ trợ chi phí học tập cho các cơ sở giáo dục từ năm học 2010-2011 đến 2014-2015.

Năm 2013, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 74/2013/NĐ-CP nhằm bổ sung nguồn tài chính cho các cơ sở giáo dục bằng cách cấp bù học phí trực tiếp cho các trường đại học công lập có học sinh thuộc diện miễn, giảm học phí Nghị định này khẳng định quyết tâm của nhà nước trong việc tăng ngân sách cho giáo dục, đặc biệt là giáo dục đại học, đồng thời tránh sự phân tán trong cơ chế quản lý và tài chính của giáo dục đại học.

Vào ngày 18 tháng 6 năm 2012, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật Giáo dục đại học, đánh dấu một bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện cơ sở pháp lý cho giáo dục Luật này chính thức có hiệu lực từ ngày 01-01-2013, sau khi Chủ tịch Nước ký Lệnh công bố Sự kiện này không chỉ nâng cao chất lượng tổ chức và hoạt động giáo dục mà còn thúc đẩy đổi mới quản lý giáo dục đại học, tạo điều kiện cho sự phát triển mạnh mẽ của sự nghiệp giáo dục.

2.2.2 Khung pháp lý về đảm bảo chất lượng giáo dục

Khung pháp lý về chất lượng giáo dục đại học (GDĐH) ở Việt Nam còn mới và chưa hoàn chỉnh Quyết định số 47/2001/QĐ-TTg ngày 04 tháng 4 năm 2001 của Chính phủ đánh dấu văn bản pháp quy đầu tiên đề cập đến kiểm định chất lượng giáo dục, yêu cầu xây dựng hệ thống tiêu chí và tiêu chuẩn đào tạo cho các loại hình trường và hình thức đào tạo Quyết định này cũng nhấn mạnh việc thực hiện kiểm định chất lượng trong toàn bộ hệ thống các trường đại học và cao đẳng.

Nghị quyết Hội nghị IX đã xác định một trong những nhiệm vụ trọng tâm của giáo dục và đào tạo là xây dựng cơ quan kiểm định chất lượng giáo dục Tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ IX vào tháng 1/2004, Nghị quyết tiếp tục nhấn mạnh việc đẩy mạnh xây dựng và triển khai các hoạt động của hệ thống kiểm định chất lượng giáo dục Trong kỳ họp thứ sáu ngày 3/12/2004, Quốc hội khóa 11 đã thông qua Nghị quyết số 37/2004/QH11 về xây dựng hệ thống quản lý chất lượng, thực hiện đảm bảo và kiểm định chất lượng giáo dục Chính phủ cũng đã khẳng định rằng trong năm học 2005-2006 sẽ tiến hành kiểm định 20% số trường đại học, với mục tiêu hoàn thành đợt 1 kiểm định các trường đại học trong 2-3 năm tiếp theo.

Công khai cam kết chất lượng giáo dục, điều kiện đảm bảo chất lượng và thu chi tài chính là ba nội dung quan trọng được quy định tại Điều 4 trong quy chế thực hiện công khai của cơ sở giáo dục, theo Thông tư số 09/2009/TT-BGDĐT Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Quyết định số 38/2004/QĐ-BGD&ĐT vào ngày 02/12/2004, quy định tạm thời về kiểm định chất lượng trường đại học với 10 tiêu chuẩn, bao gồm sứ mạng, tổ chức quản lý, chương trình đào tạo, hoạt động đào tạo, đội ngũ cán bộ, người học, nghiên cứu khoa học, hợp tác quốc tế, thư viện và cơ sở vật chất, cùng với tài chính và quản lý tài chính Ngoài ra, công tác đảm bảo chất lượng giáo dục còn được khẳng định trong Luật Giáo dục.

Từ năm 2005, Bộ GD&ĐT đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến kiểm định chất lượng giáo dục, đặc biệt là trong giáo dục đại học Các quyết định như 76/2007/QĐ-BGĐT và 29/2008/QĐ-BGDĐT quy định quy trình và chu kỳ kiểm định chất lượng giáo dục tại các trường đại học, cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp Đặc biệt, Quyết định 65/2007/QĐ-BGDĐT đã ban hành tiêu chuẩn đánh giá chất lượng trường đại học, trong khi Quyết định 03/2008/QĐ-BGDĐT quy định tiêu chuẩn cho chương trình đào tạo giáo viên trung học phổ thông Những tiêu chuẩn này là yêu cầu cần thiết để các trường đại học được công nhận đạt tiêu chuẩn chất lượng giáo dục Luật GDĐH năm 2012 cũng đã bổ sung các điều khoản giám sát chất lượng đào tạo trong suốt quá trình học tập của sinh viên, quy định về chuẩn tối thiểu kiến thức, kỹ năng, đồng thời khuyến khích các cơ sở giáo dục đại học đầu tư nguồn lực nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và thu học phí tương xứng với chất lượng đào tạo.

Khung pháp lý hiện nay về quản lý tài chính giáo dục, đặc biệt là giáo dục đại học (GDĐH), đã tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển của ngành giáo dục Các quy định hiện hành đã giúp GDĐH mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng Tuy nhiên, các quy định về quản lý tài chính GDĐH vẫn còn mang tính nguyên tắc và chưa đủ để điều chỉnh các quan hệ thực tiễn trong GDĐH Hệ thống văn bản pháp luật về tài chính GDĐH mặc dù ngày càng hoàn thiện nhưng vẫn chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn Công tác quản lý tài chính trong GDĐH do các cơ quan như Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và Bộ GD&ĐT ban hành còn thiếu sự thống nhất, đặc biệt là một số bộ chưa có hướng dẫn về quyền tự chủ và trách nhiệm trong tổ chức bộ máy và biên chế Điều này dẫn đến sự không đồng bộ với cơ chế tự chủ tài chính, gây khó khăn trong việc đánh giá hiệu quả nguồn tài chính đảm bảo chất lượng giáo dục tại các cơ sở GDĐH.

Khung pháp lý về chất lượng giáo dục đại học ở Việt Nam chủ yếu dựa vào bộ tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục của các trường đại học Mặc dù các tiêu chuẩn này đã bao quát hầu hết các lĩnh vực quản lý và hoạt động của trường, nhưng vẫn chưa rõ ràng về yêu cầu chất lượng của sinh viên tốt nghiệp Trong khu vực ASEAN, có 18 tiêu chuẩn đảm bảo chất lượng giáo dục chung (AUN-QA), được phân thành năm nhóm, trong đó có tiêu chuẩn về cơ sở vật chất.

11, 12); (ii) giảng viên (tiêu chuẩn 7, 8); (iii) mục tiêu chương trình đào tạo (tiêu chuẩn 1,

2, 5, 14); (iv) học liệu phụ vụ học tập (tiêu chuẩn 10, 3,) và (v) quản lý đào tạo (tiêu chuẩn

CƠ SỞ LUẬN VỀ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH TẠI CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC VỚI VIỆC NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG GIÁO DỤC

TÁC ĐỘNG CỦA CÔNG TÁC QUẢN LÝ TÀI CHÍNH ĐẾN CHẤT LƯỢNG GDĐH - NGHIÊN CỨU ĐIỂN HÌNH TẠI CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC THUỘC BỘ CÔNG THƯƠNG

GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ TÀI CHÍNH NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG GDĐH

Ngày đăng: 21/12/2021, 23:16

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
[1]. Ann Bartholomew và đồng sự (2004), Đồng đánh giá về hỗ trợ ngân sách trung ương, Báo cáo về Việt Nam 1994-2004, University of Birmingham, U.K Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đồng đánh giá về hỗ trợ ngân sách trung ương, Báo cáo về Việt Nam 1994-2004
Tác giả: Ann Bartholomew và đồng sự
Năm: 2004
[2]. Astin A.W (2004), Đánh giá chất lượng để đạt được sự hoàn hảo - Triết l và thực tiễn trong nhận xét và đánh giá chất lượng GDĐH, NXB Đại học Quốc gia, HCM Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đánh giá chất lượng để đạt được sự hoàn hảo - Triết l và thực tiễn trong nhận xét và đánh giá chất lượng GDĐH
Tác giả: Astin A.W
Nhà XB: NXB Đại học Quốc gia
Năm: 2004
[3]. Ban liên lạc các trường đại học Việt Nam (2010), Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý GDĐH và cao đẳng Việt Nam, Tài liệu hội thảo, Đà Nẵng Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý GDĐH và cao đẳng Việt Nam
Tác giả: Ban liên lạc các trường đại học Việt Nam
Năm: 2010
[4]. Barrtel, Ann (1994), Tăng năng suất từ việc thực hiện các chương trình đào tạo cho người lao động, Ngân hàng Thế giới, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tăng năng suất từ việc thực hiện các chương trình đào tạo cho người lao động
Tác giả: Barrtel, Ann
Năm: 1994
[5]. Bộ Công Thương (2008) Quyết định số 4371/QĐ-BCT ngày 06/8/2008 ban hành Quy chế quản lý tài ch nh trong các đơn vị hành chính, sự nghiệp thuộc Bộ Công Thương, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quyết định số 4371/QĐ-BCT ngày 06/8/2008 ban hành Quy chế quản lý tài ch nh trong các đơn vị hành chính, sự nghiệp thuộc Bộ Công Thương
[6]. Bộ Công Thương (2008) Quyết định số 4572/QĐ-BCT ngày 29/8/2008 phân cấp và uỷ quyền quản lý tài sản Nhà nước trong các cơ quan hành ch nh, đơn vị sự nghiệp thuộc và trực thuộc Bộ Công thương, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quyết định số 4572/QĐ-BCT ngày 29/8/2008 phân cấp và uỷ quyền quản lý tài sản Nhà nước trong các cơ quan hành ch nh, đơn vị sự nghiệp thuộc và trực thuộc Bộ Công thương
[7]. Bộ Công Thương (2008, 2009, 2010, 2011, 2012), Báo cáo quyết toán tài chính, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Báo cáo quyết toán tài chính
[8]. Bộ Công Thương (2011), Tài liệu Hội thảo đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động giáo dục trong các trường của Bộ Công Thương, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tài liệu Hội thảo đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động giáo dục trong các trường của Bộ Công Thương
Tác giả: Bộ Công Thương
Năm: 2011
[9]. Bộ Công Thương (2012), Báo cáo thực hiện nghị quyết của Quốc hội về các nội dung liên quan đến GDĐH, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Báo cáo thực hiện nghị quyết của Quốc hội về các nội dung liên quan đến GDĐH
Tác giả: Bộ Công Thương
Năm: 2012
[10]. Bộ Công Thương (2008, 2009, 2010, 2011, 2012, 2013), Báo cáo tổng kết năm học, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Báo cáo tổng kết năm học
[11]. Bộ Giáo dục và Đào tạo (1998), GDĐH trong thế kỷ 21 - Tầm nhìn và hành động, UNESCO, Paris Sách, tạp chí
Tiêu đề: GDĐH trong thế kỷ 21 - Tầm nhìn và hành động
Tác giả: Bộ Giáo dục và Đào tạo
Năm: 1998
[12]. Bộ Giáo dục và Đào tạo (1999), Đề án Quy hoạch hệ thống mạng lưới các trường đại học và cao đẳng Việt Nam giai đoạn đến năm 2020, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đề án Quy hoạch hệ thống mạng lưới các trường đại học và cao đẳng Việt Nam giai đoạn đến năm 2020
Tác giả: Bộ Giáo dục và Đào tạo
Năm: 1999
[13]. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2010), Đề án xây dựng và phát triển hệ thống kiểm định chất lượng giáo dục đối với GDĐH và trung cấp chuyên nghiệp giai đoạn 2011- 2020, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đề án xây dựng và phát triển hệ thống kiểm định chất lượng giáo dục đối với GDĐH và trung cấp chuyên nghiệp giai đoạn 2011-2020
Tác giả: Bộ Giáo dục và Đào tạo
Năm: 2010
[14]. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2000), GDĐH và những thách thức đầu thế kỷ 21, Tài liệu Hội thảo, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: GDĐH và những thách thức đầu thế kỷ 21
Tác giả: Bộ Giáo dục và Đào tạo
Năm: 2000
[15]. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007), Quyết định số 65/2007/QĐ-BGDĐT ngày 01/11/2007 ban hành Quy định về tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục trường đại học, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quyết định số 65/2007/QĐ-BGDĐT ngày 01/11/2007 ban hành Quy định về tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục trường đại học
Tác giả: Bộ Giáo dục và Đào tạo
Năm: 2007
[16]. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2009), Báo cáo đánh giá tác động của Đề án đổi mới cơ chế tài chính giáo dục 2009-2010, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Báo cáo đánh giá tác động của Đề án đổi mới cơ chế tài chính giáo dục 2009-2010
Tác giả: Bộ Giáo dục và Đào tạo
Năm: 2009
[17]. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2009), Tài liệu tập huấn tự đánh giá trường cao đẳng, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tài liệu tập huấn tự đánh giá trường cao đẳng
Tác giả: Bộ Giáo dục và Đào tạo
Năm: 2009
[18]. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2012), Thông tư số 37/2012/TT- BGDĐT sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 65/2007/QĐ-BGDĐT ngày 01/11/2007 ban hành Quy định về tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục trường đại học, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thông tư số 37/2012/TT- BGDĐT sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 65/2007/QĐ-BGDĐT ngày 01/11/2007 ban hành Quy định về tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục trường đại học
Tác giả: Bộ Giáo dục và Đào tạo
Năm: 2012
[19]. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2012), Đổi mới cơ chế tài ch nh đối với cơ sở GDĐH công lập, Tài liệu hội thảo, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đổi mới cơ chế tài ch nh đối với cơ sở GDĐH công lập
Tác giả: Bộ Giáo dục và Đào tạo
Năm: 2012
[25]. Cao Huy Thuần (2008), Đại học giữa hai luân lý, http://www.tuanvietnam.net//vn/tulieusuyngam/4889/index.aspx Link

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Hình 0.1. Quy trình phân tích của luận án - Luận án tiến sĩ kinh tế công tác quản lý tài chính và chất lượng trong giáo dục đại học
Hình 0.1. Quy trình phân tích của luận án (Trang 6)
Hình  0.2.  Khung  phân tích  tác  động  của  quản  lý  tài  chính  tới  các  yếu  tố  đảm  bảo chất lƣợng giáo dục - Luận án tiến sĩ kinh tế công tác quản lý tài chính và chất lượng trong giáo dục đại học
nh 0.2. Khung phân tích tác động của quản lý tài chính tới các yếu tố đảm bảo chất lƣợng giáo dục (Trang 8)
Bảng tóm tắt kết quả Cronbach alpha các thang đo - Luận án tiến sĩ kinh tế công tác quản lý tài chính và chất lượng trong giáo dục đại học
Bảng t óm tắt kết quả Cronbach alpha các thang đo (Trang 47)
Bảng 3.34. Kết quả kiểm định KMO và Bartlett - Luận án tiến sĩ kinh tế công tác quản lý tài chính và chất lượng trong giáo dục đại học
Bảng 3.34. Kết quả kiểm định KMO và Bartlett (Trang 48)
Bảng tóm tắt nhân tố tương ứng với các biến quan sát sau khi phân tích - Luận án tiến sĩ kinh tế công tác quản lý tài chính và chất lượng trong giáo dục đại học
Bảng t óm tắt nhân tố tương ứng với các biến quan sát sau khi phân tích (Trang 52)

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w