TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Quan điểm của Đảng và Nhà nước về giáo dục thể chất
1.1.1 Quan điểm về giáo dục thể chất trong trường học Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng công tác GDTC cho trẻ trong trường học Quan điểm này được thể hiện rõ tại Chỉ thị số 36/CT/TW ngày 24/03/1994 của Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam về tăng cường công tác thể dục thể thao trong giai đoạn mới đã khẳng định phương hướng “Phát triển thể dục thể thao là bộ phận quan trọng trong chính sách phát triển kinh tế – xã hội của Đảng và Nhà nước, nhằm phát huy nhân tố con người, công tác thể dục thể thao phải góp phần tích cực nâng cao sức khỏe, thể lực, giáo dục nhân dân, đạo đức lối sống lành mạnh làm phong phú đời sống tinh thần của nhân dân và phấn đấu đạt vị trí xứng đáng trong hoạt động thể thao quốc tế trong sạch về mặt đạo đức, phong phú về mặt tinh thần, hoàn thiện về mặt thể chất” [5]
Quyết định số 14/2001/QĐ-BGD&ĐT ngày 03/5/2001 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo khẳng định rằng giáo dục thể chất (GDTC) và y tế trong trường học là hoạt động giáo dục bắt buộc, nhằm bảo vệ và nâng cao sức khỏe, phát triển thể chất, đồng thời hình thành và bồi dưỡng nhân cách cho học sinh, sinh viên Hoạt động GDTC được thực hiện qua các giờ học môn thể dục, sức khỏe và các hoạt động thể dục, thể thao, y tế trong trường học, bao gồm cả giờ học nội khoá theo chương trình quy định và các hoạt động ngoại khoá theo kế hoạch của nhà trường và các cấp quản lý giáo dục.
Chỉ thị số 17 CT/TW ngày 23/10/2002 về phát triển Thể dục thể thao đến năm
Năm 2010, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc "Đẩy mạnh hoạt động thể dục thể thao ở trường học", với mục tiêu mỗi trường học cần có giáo viên thể dục chuyên trách và lớp học thể dục đạt tiêu chuẩn Điều này nhằm nâng cao chất lượng giáo dục thể chất và xem đây là một tiêu chí để công nhận trường chuẩn quốc gia.
Theo Điều 20 của Luật Thể dục Thể thao năm 2006, Giáo dục Thể chất (GDTC) là môn học chính khóa trong chương trình giáo dục, nhằm trang bị kiến thức và kỹ năng vận động cơ bản cho học sinh thông qua các bài tập và hoạt động thể thao Hoạt động thể thao trong trường học là tự nguyện, được tổ chức theo hình thức ngoại khóa, phù hợp với sở thích, giới tính, độ tuổi và sức khỏe của học sinh, nhằm tạo điều kiện cho các em thực hiện quyền vui chơi, giải trí và phát triển năng khiếu thể thao.
Nghị định số 11/2015/NĐ-CP ngày 31/01/2015 quy định rằng giáo dục thể chất (GDTC) trong nhà trường là môn học bắt buộc trong chương trình giáo dục ở tất cả các cấp học Mục tiêu của GDTC là trang bị cho trẻ em, học sinh và sinh viên các kiến thức và kỹ năng vận động cơ bản, hình thành thói quen luyện tập thể dục thể thao, từ đó nâng cao sức khỏe, phát triển thể lực và tầm vóc, góp phần vào mục tiêu giáo dục toàn diện.
Theo Đề án tổng thể phát triển GDTC và thể thao trường học giai đoạn 2016 –
Đến năm 2025, mục tiêu là nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục thể chất (GDTC) cùng thể thao trường học, nhằm cải thiện sức khỏe và phát triển thể lực toàn diện cho trẻ em, học sinh, sinh viên Điều này bao gồm việc trang bị kiến thức và kỹ năng vận động cơ bản, hình thành thói quen tập luyện thể dục thể thao thường xuyên, đồng thời gắn kết GDTC và thể thao với giáo dục ý chí, đạo đức, lối sống và kỹ năng sống Mục tiêu cũng nhằm đáp ứng nhu cầu vui chơi giải trí lành mạnh cho trẻ em, học sinh, sinh viên, đồng thời phát hiện và đào tạo năng khiếu, tài năng thể thao cho đất nước.
1.1.2 Quan điểm về giáo dục thể chất cho trẻ mẫu giáo
GDTC đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển toàn diện nhân cách và thể chất của trẻ em, đồng thời là nhiệm vụ trọng tâm của Đảng và Nhà nước trong việc đổi mới nền giáo dục Việt Nam.
Theo Chỉ thị số 153-CP ngày 12/8/1966 của Hội đồng Chính phủ, giáo dục trẻ em từ 3 đến 7 tuổi cần được tổ chức thông qua các hoạt động vui chơi, nhằm trang bị cho trẻ những đức tính và tập quán tốt, đồng thời chăm sóc sức khỏe Việc kết hợp giữa chơi và học sẽ giúp trẻ chuẩn bị tốt cho việc vào trường phổ thông Giáo dục mẫu giáo có vai trò quan trọng trong việc xây dựng nền tảng cho một hệ thống giáo dục vững mạnh.
Nghị quyết số 14-NQ/TW ngày 11/01/1979 của Bộ Chính trị khoá IV nhấn mạnh tầm quan trọng của việc chăm sóc và giáo dục thế hệ trẻ từ ấu thơ đến khi trưởng thành, nhằm xây dựng nền tảng cho con người Việt Nam mới, những người lao động làm chủ tập thể và phát triển toàn diện Việc cải cách toàn diện nền giáo dục được xác định là một yêu cầu cấp bách và cần thiết, phản ánh nhu cầu thực tiễn của xã hội vào thời điểm đó.
Theo Điều 23 của Luật Giáo dục năm 2005, mục tiêu của Giáo dục Mầm non (GDMN) là hỗ trợ trẻ em phát triển toàn diện về thể chất, tình cảm, trí tuệ và thẩm mỹ, đồng thời hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách để chuẩn bị cho việc vào lớp một Nội dung GDMN cần phù hợp với sự phát triển tâm sinh lý của trẻ, kết hợp giữa nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục, giúp trẻ phát triển cân đối, khỏe mạnh và nhanh nhẹn Trẻ cần được dạy cách kính trọng, yêu thương ông bà, cha mẹ, thầy cô và bạn bè, đồng thời phát triển tính cách thật thà, mạnh dạn, yêu cái đẹp và ham học hỏi Phương pháp GDMN chủ yếu thông qua các hoạt động vui chơi, chú trọng việc nêu gương và động viên khích lệ trẻ.
Quyết định số 149/QĐ-TTg ngày 23/6/2006 của Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án “Phát triển GDMN giai đoạn 2006 – 2015”, nhấn mạnh việc xây dựng và triển khai chương trình GDMN mới tích hợp nội dung chăm sóc và giáo dục theo chủ điểm Chương trình này tập trung tổ chức các hoạt động cho trẻ, đặc biệt là hoạt động vui chơi, phù hợp với sự phát triển tâm sinh lý lứa tuổi cũng như yêu cầu nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục trẻ.
Dựa trên Luật Giáo dục năm 2005 và Quyết định số 149/QĐ-TTg, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Thông tư số 17/2009/TT-BGDĐT, nhấn mạnh rằng giáo dục mẫu giáo cần tạo điều kiện cho trẻ trải nghiệm và khám phá môi trường xung quanh qua nhiều hình thức đa dạng Phương pháp giáo dục phải tuân theo nguyên tắc “chơi mà học, học bằng chơi”, đồng thời chú trọng đổi mới tổ chức môi trường giáo dục để khuyến khích trẻ tích cực khám phá, thử nghiệm và sáng tạo Việc lựa chọn và tổ chức các hoạt động giáo dục cần phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý và khả năng của từng trẻ, cũng như đáp ứng nhu cầu và hứng thú của trẻ.
Theo Chiến lược phát triển giáo dục 2011 - 2020, Thủ tướng Chính phủ nhấn mạnh tầm quan trọng của việc nâng cao chất lượng chăm sóc và giáo dục trẻ trước 6 tuổi, nhằm tạo điều kiện cho sự phát triển toàn diện của trẻ Đến năm 2020, mục tiêu là đảm bảo hầu hết trẻ em được tiếp cận giáo dục phù hợp Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng cũng khẳng định vai trò của giáo dục mầm non trong việc phát triển thể chất, tình cảm, trí tuệ và thẩm mỹ cho trẻ, đồng thời hình thành các yếu tố nhân cách cần thiết, chuẩn bị cho trẻ vào lớp một và hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non.
Đến năm 2020, việc miễn học phí cho trẻ em dưới 5 tuổi sẽ được thực hiện, đồng thời nâng cao chất lượng giáo dục phổ cập trong những năm tiếp theo Hệ thống các trường mầm non sẽ được chuẩn hóa từng bước, nhằm phát triển giáo dục mầm non với chất lượng phù hợp với điều kiện của từng địa phương và cơ sở giáo dục.
Chỉ thị số 2699/CT-BGDĐT ngày 08/8/2017 của Bộ Giáo dục và Đào tạo nhấn mạnh nhiệm vụ chủ yếu của ngành Giáo dục trong năm học 2017 – 2018 Phương hướng chung đối với giáo dục mầm non (GDMN) là tiếp tục đổi mới hoạt động chăm sóc và giáo dục trẻ, theo quan điểm giáo dục lấy trẻ làm trung tâm.
Lý luận về hoạt động giáo dục thể chất của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi
1.2.1 Hoạt động giáo dục thể chất
Hoạt động là mối quan hệ tương tác giữa con người và thế giới, nhằm tạo ra sản phẩm cho cả hai phía Trong mỗi hoạt động, diễn ra hai quá trình cơ bản: quá trình khách thể hóa, khi chủ thể chuyển tâm lý vào sản phẩm, và quá trình chủ thể hóa, trong đó con người lĩnh hội nội dung tâm lý từ đối tượng, dẫn đến nhận thức và năng lực hoạt động mới.
Theo Corbin và các cộng sự, hoạt động thể chất được định nghĩa là “sự vận động cơ thể làm gia tăng đáng kể sự tiêu hao năng lượng, được thực hiện thông qua việc co các cơ xương.” Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ cũng định nghĩa hoạt động thể chất là “các vận động cơ thể có sử dụng năng lượng.” Điều này cho thấy hoạt động thể chất chỉ đơn thuần là sự vận động cơ thể mà không có mục đích từ trước, không bị hạn chế bởi phương pháp hay phương tiện, và không có vai trò rõ ràng của nhà giáo dục và người được giáo dục, cũng như không gắn liền với hoạt động đánh giá Đây là điểm khác biệt cơ bản giữa hoạt động thể chất và hoạt động giáo dục thể chất (GDTC).
Thuật ngữ “giáo dục thể chất” thường được liên kết với “hoạt động”, dẫn đến việc nhiều tác giả định nghĩa “hoạt động GDTC” (giáo dục thể chất) theo cách tương tự.
Theo Nguyễn Toán và Phạm Danh Tốn, hoạt động giáo dục thể chất (GDTC) là một hình thức giáo dục chuyên biệt, tập trung vào việc dạy học vận động và phát triển có chủ định các tố chất vận động của con người Quá trình này không chỉ giúp nâng cao khả năng thích nghi thể lực mà còn chia thành hai khía cạnh riêng biệt: dạy học động tác và giáo dục các tố chất vận động.
Theo Bộ Giáo dục New Zealand, hoạt động giáo dục thể chất (GDTC) được định nghĩa là những hoạt động liên quan đến vận động cơ thể mà cá nhân tham gia dưới sự hướng dẫn và đào tạo cụ thể.
Theo Rico Meneghini, hoạt động giáo dục thể chất (GDTC) là một phần thiết yếu trong giáo dục toàn diện, nhằm phát triển công dân khỏe mạnh về thể chất, tinh thần và cảm xúc xã hội Điều này đạt được thông qua việc lựa chọn các hoạt động thể chất phù hợp để hướng tới các mục tiêu phát triển toàn diện.
Trường Britannica định nghĩa hoạt động GDTC là mọi hoạt động tiêu hao năng lượng do yêu cầu của giáo viên, bao gồm chuyển động cơ thể thông qua các cơ xương Hoạt động GDTC trải dài từ mức rất thấp khi nghỉ ngơi cho đến các hoạt động đòi hỏi sức mạnh tối đa.
Tác giả Nguyễn Nam nhấn mạnh rằng hoạt động giáo dục thể chất (GDTC) là một hình thức giáo dục được đào tạo một cách bài bản và có hệ thống Các môn học trong GDTC chủ yếu tập trung vào việc hướng dẫn học sinh, sinh viên thực hiện các động tác vận động có nhịp điệu, nhằm khai thác và phát triển các tố chất vận động tiềm ẩn Qua đó, GDTC giúp xác định khả năng thích nghi thể lực của con người và cải thiện sức khỏe tinh thần.
Theo Nguyễn Thanh Đề, giáo dục thể chất (GDTC) không chỉ đơn thuần là việc dạy học sinh xếp hàng hay tổ chức đội ngũ, mà còn là một bộ môn chuyên biệt nhằm phát triển có chủ đích các tố chất vận động của con người GDTC đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành các yếu tố đức, trí, thể, mĩ, góp phần phát triển con người một cách toàn diện và cân đối.
Tác giả Lâm Tuyết Thúy nhấn mạnh rằng hoạt động giáo dục thể chất (GDTC) là một quá trình sư phạm quan trọng nhằm hoàn thiện hình thái và chức năng của cơ thể con người Một trong những đặc điểm nổi bật của GDTC là việc hình thành kỹ năng và kỹ xảo vận động, đồng thời phát triển các tố chất thể lực cần thiết.
Hoạt động giáo dục thể chất (GDTC) được định nghĩa là sự tương tác giữa nhà giáo dục và người được giáo dục, trong đó nhà giáo dục có vai trò tổ chức và điều khiển các hoạt động nhằm phát triển vận động cơ bản và các tố chất vận động, từ đó thúc đẩy sự phát triển thể chất của người học.
1.2.1.2 Nhiệm vụ cơ bản của hoạt động GDTC
Hoạt động giáo dục thể chất (GDTC) có hai nhiệm vụ chính: phát triển các hoạt động vận động cơ bản và nâng cao các tố chất vận động của con người GDTC được chia thành hai mặt riêng biệt là dạy học động tác và giáo dục các tố chất vận động Chương trình học sẽ được điều chỉnh phù hợp với yêu cầu của từng cấp học, tập trung vào nhiệm vụ cụ thể để đạt hiệu quả tối ưu trong việc phát triển thể chất của học sinh.
Dạy học động tác là quá trình trang bị kỹ năng và kỹ xảo vận động như đi, bò, chạy, nhảy, ném, nhằm thực hiện các động tác một cách chính xác và ổn định Mục tiêu của việc này là nâng cao tính nhịp điệu và rèn luyện thể chất cho người tập.
Giáo dục các tố chất vận động là quá trình quan trọng trong phát triển thể lực, bao gồm sức nhanh, sức mạnh, sức bền, sự mềm dẻo và khả năng phối hợp Để đạt hiệu quả cao trong việc giáo dục các tố chất này, cần lựa chọn phương tiện và phương pháp tập luyện phù hợp với trình độ thể lực và tâm lý của từng lứa tuổi người tập.
Hoạt động giáo dục thể chất (GDTC) có hai nhiệm vụ chính: dạy học động tác và phát triển tố chất vận động của con người Hai nhiệm vụ này liên kết chặt chẽ với nhau, tạo điều kiện cho sự phát triển lẫn nhau, nhưng không bao giờ hoàn toàn đồng nhất Chúng có sự khác biệt rõ rệt trong các giai đoạn phát triển thể chất và hoạt động GDTC khác nhau Luận án này sẽ khai thác hai nhiệm vụ này như một cơ sở nghiên cứu.
1.2.2 Hoạt động giáo dục thể chất của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi
Lý luận về trò chơi vận động của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt động giáo dục thể chất
1.3.1 Định nghĩa trò chơi vận động
Trò chơi là hoạt động quen thuộc và gần gũi với mọi người, bao gồm các chủ đề và nội dung nhất định cùng với những quy tắc mà người tham gia phải tuân thủ Theo Từ điển Tiếng Việt, "Trò" được hiểu là hình thức mua vui, trong khi "Chơi" chỉ những hoạt động giải trí trong thời gian rảnh rỗi Do đó, "Trò chơi" có thể được định nghĩa là những hoạt động đáp ứng nhu cầu vui chơi và giải trí của con người.
Theo triết gia Heraclitus, trò chơi được hình dung như một quá trình mà trẻ em tham gia, thể hiện qua những nước đi của chúng trên bàn chơi.
Heraclitus đã đưa ra một định nghĩa quan trọng về trò chơi trong triết học của Plato Theo Plato, trò chơi được hiểu là những hoạt động có cấu trúc, bao gồm các chỉ dẫn, luật lệ và mục tiêu rõ ràng.
According to the Oxford Dictionary, a game is defined as an activity designed for enjoyment, typically governed by rules, where participants can experience winning or losing This means that games are structured activities that provide fun and entertainment for players.
Theo tác giả Lê Thị Liên Hoan,“Trò chơi là phương pháp giáo dục thực hiện hiệu nghiệm nhất đối với việc hình thành nhân cách” [27]
Như vậy, trò chơi là các hoạt động nhằm thỏa mãn những nhu cầu giải trí đa dạng của con người
Vận động được hiểu theo nhiều cách, trong đó chủ nghĩa duy vật biện chứng định nghĩa rằng "vận động không chỉ là sự di chuyển của vật chất trong không gian, mà còn bao gồm những biến đổi về bản chất của vật chất, đây chính là phương thức tồn tại của vật chất."
Theo tác giả Hoàng Phê, “Vận động là hoạt động thay đổi tư thế hay vị trí của thân thể hoặc bộ phận thân thể” [48]
Vận động là yếu tố thiết yếu trong mọi hoạt động của con người, đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển thể chất Đây là hoạt động tích cực của các cơ quan vận động, là phương tiện chủ yếu trong quá trình giáo dục thể chất Giáo dục thể chất chủ yếu diễn ra thông qua các hoạt động tự vận động.
1.3.1.3 Định nghĩa trò chơi vận động
Theo Đinh Văn Lẫm và Đào Bá Trì, TCVĐ là hoạt động con người bao gồm hai yếu tố chính: vui chơi giải trí để thỏa mãn nhu cầu tinh thần và giáo dục thể chất nhằm phát triển đạo đức, ý chí, lòng dũng cảm, cũng như tinh thần đoàn kết Hoạt động này góp phần hình thành và phát triển các tố chất, kỹ năng, kỹ xảo cần thiết cho cuộc sống.
Theo Lê Thị Liên Hoan, TCVĐ đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển thể lực, đồng thời góp phần vào giáo dục toàn diện cho trẻ mầm non.
Trong cuốn sách “Phát triển TTC vận động cho trẻ mầm non”, tác giả Đặng Hồng Phương khẳng định rằng TCVĐ là những trò chơi chủ yếu dựa vào hoạt động vận động.
Trò chơi thường phản ánh cuộc sống thực tế, với các chủ đề được lấy cảm hứng từ thiên nhiên, xã hội và hành vi của động vật.
Do đó, các TCVĐ mang tính hiện thực” [50]
Tác giả Lê Thu Hương định nghĩa trò chơi vận động (TCVĐ) là loại trò chơi có luật lệ, thường được người lớn thiết kế cho trẻ em TCVĐ yêu cầu trẻ em phối hợp các thao tác vận động để hoàn thành nhiệm vụ, thường kéo dài từ 2 đến 3 tháng Qua quá trình chơi, trẻ không chỉ giải trí mà còn phát triển thể chất một cách hiệu quả.
Trò chơi vận động (TCVĐ) được định nghĩa là một trò chơi có quy định, trong đó hoạt động vận động chiếm ưu thế TCVĐ thường do người lớn hoặc trẻ em sáng tạo ra và yêu cầu sự huy động, phối hợp giữa nhận thức và vận động, nhằm phát triển thể chất cho trẻ.
1.3.2 Định nghĩa trò chơi vận động của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt động giáo dục thể chất
TCVĐ của trẻ mầm non 5 – 6 tuổi được định nghĩa là một trò chơi có quy định, trong đó hoạt động vận động là chủ yếu Trò chơi này có thể được sáng tạo bởi giáo viên hoặc chính trẻ em, và trong quá trình chơi, trẻ cần huy động và phối hợp giữa nhận thức và vận động Mục tiêu chính của TCVĐ là phát triển thể chất cho trẻ, giúp trẻ cải thiện khả năng vận động và nhận thức trong một môi trường vui tươi và tích cực.
Có thể đề cập đến một số điểm chính yếu trong định nghĩa này như sau:
- TCVĐ của trẻ MG 5 – 6 tuổi có quy định
- TCVĐ của trẻ MG 5 – 6 tuổi có lượng vận động chiếm ưu thế
TCVĐ của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi chủ yếu được hình thành qua quá trình học tập, tái tạo hoặc sáng tạo từ giáo viên Tuy nhiên, trong một số trường hợp, trẻ cũng có khả năng tự sáng tạo ra cách chơi trò chơi của riêng mình.
- TCVĐ của trẻ MG 5 – 6 tuổi đòi hỏi phải huy động, phối hợp hoạt động của quá trình nhận thức và vận động
- TCVĐ của trẻ MG 5 – 6 tuổi nhằm đạt được mục tiêu GDTC ở trẻ
1.3.3 Đặc điểm về trò chơi vận động của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi
Trong chương trình Giáo dục thể chất (GDTC) cho trẻ mầm non, trò chơi vận động (TCVĐ) được áp dụng thường xuyên vì nó phù hợp với đặc điểm phát triển của trẻ và phù hợp với hoạt động chủ đạo là vui chơi.
Thứ nhất, TCVĐ mang tính hiện thực
Lý luận về tính tích cực của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt động giáo dục thể chất
1.4.1 Định nghĩa tính tích cực
Tích cực là thuật ngữ được xem xét, tiếp cận theo nhiều góc độ rộng, hẹp khác nhau Vì vậy, có nhiều quan niệm khác nhau về TTC
Theo V.I Lênin, theo quan điểm duy vật biện chứng, TTC xuất phát từ cả yếu tố bên trong và bên ngoài, trong đó yếu tố bên trong quyết định hơn TTC được hiểu là thái độ của chủ thể trong việc cải tạo và biến đổi khách thể, đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành và cải tạo thế giới hiện thực khách quan.
Theo A.N Lêônchiev và A.A Liublinxkaia, TTC thể hiện sự sẵn sàng hoạt động, cho thấy con người đang trong trạng thái tích cực Nhu cầu có mối quan hệ chặt chẽ với TTC, đóng vai trò là nguồn gốc và động lực thúc đẩy TTC phát triển.
Theo tác giả P.I Galperin, TTC được thể hiện qua các mức độ lĩnh hội khác nhau, phản ánh sự phát triển của chủ thể Các nhà nghiên cứu như V.I Romanov và X.D Xmirnov cho rằng TTC là tính chủ động và hành động ý chí của con người TTC đóng vai trò chỉ báo cho hoạt động của con người, và sự phát triển của TTC thể hiện sự phức tạp hóa dần các chức năng của chủ thể.
Theo các tác giả L.M Ackhanghenxki, R Minle, TTC không chỉ đơn thuần là trạng thái hoạt động, mà cần được xem xét toàn diện, bao gồm cả khía cạnh bên trong và bên ngoài của nó Họ nhấn mạnh rằng sự phát triển của TTC không thể chỉ được đánh giá qua các đặc trưng về số lượng và chất lượng của con người.
Theo Từ điển Tiếng Việt, TTC được hiểu theo ba nghĩa sau:
Một là, TTC có ý nghĩa, có tác dụng khẳng định, thúc đẩy sự phát triển; trái với tiêu cực
Hai là, TTC là tỏ ra chủ động, có những hoạt động nhằm tạo ra sự biến đổi theo hướng phát triển
Ba là, TTC thể hiện thông qua thái độ hăng hái, nhiệt tình đối với nhiệm vụ, với công việc [48]
Theo Từ điển Oxford, định nghĩa TTC là “activity” nghĩa là chỉ trạng thái hoạt động và tính chủ động [96]
Tác giả Nguyễn Thị Yến Linh định nghĩa TTC là sự chủ động trong công việc, thể hiện sự hăng hái và nhiệt tình với nhiệm vụ được giao, từ đó góp phần thúc đẩy sự phát triển.
Từ những định nghĩa nêu trên có thể thấy TTC có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, TTC là một thành tố tâm lý bên trong của con người và được thể hiện thông qua hoạt động bên ngoài
Thứ hai, TTC gắn liền với hoạt động, mang tính chủ động của chủ thể
Thứ ba, động cơ, nhu cầu, hứng thú hoạt động là động lực thúc đẩy con người hoạt động và là nguồn gốc bên trong của TTC
Thứ tư, TTC là sự cố gắng, nỗ lực giải quyết các nhiệm vụ của chủ thể để đạt được mục đích
Từ các tài liệu đã nghiên cứu, luận án định nghĩa thuật ngữ TTC là yếu tố tâm lý nội tại của con người, được thể hiện rõ ràng qua sự chủ động trong hoạt động, cùng với hứng thú và nhiệt tình đối với nhiệm vụ và công việc được giao.
1.4.2 Định nghĩa tính tích cực của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt động giáo dục thể chất Điều kiện cơ bản của TTC của trẻ MG 5 – 6 tuổi trong hoạt động GDTC là sắc thái tình cảm tích cực trong hoạt động vận động, điều này được đảm bảo bằng mức độ dễ tiếp thu các hình thức của hoạt động GDTC [50] TTC của trẻ được biểu hiện bằng sự hăng hái, năng động đồng nghĩa với việc trẻ làm chủ hành động của mình Đối với lứa tuổi MG 5 – 6 tuổi, TTC của trẻ còn phụ thuộc vào những hình thức của hoạt động GDTC Đặc biệt, trong các TCVĐ có yếu tố thi đua, trẻ thường huy động khả năng vận động của mình và đạt kết quả cao hơn so với những bài tập thông thường Hoạt động vui chơi là hoạt động chủ đạo của trẻ MG, trong đó TCVĐ là một thành phần quan trọng phù hợp và gây cảm xúc tích cực cho trẻ MG 5 – 6 tuổi
TTC của trẻ mầm non 5-6 tuổi trong hoạt động giáo dục thể chất được định nghĩa là yếu tố tâm lý bên trong, thể hiện qua sự hứng thú và mong muốn tham gia vào các nhiệm vụ của hoạt động GDTC Trẻ em trong độ tuổi này thường chủ động, hợp tác và có khả năng giải quyết các vấn đề phát sinh, nhằm hoàn thành tốt nhiệm vụ trong hoạt động GDTC Đặc biệt, sự phát triển các tố chất vận động nhất định cũng là một phần quan trọng trong quá trình này.
1.4.3 Biểu hiện tính tích cực của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt động giáo dục thể chất
Phân tích từ lý luận về TTC, TTC của trẻ MG 5 – 6 tuổi trong hoạt động GDTC được biểu hiện như sau:
Biểu hiện 1: Trẻ tỏ ra hứng thú, mong muốn được tham gia giải quyết các nhiệm vụ khi GV tổ chức hoạt động GDTC
Hứng thú đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy quá trình học tập và phát triển của trẻ Nó khuyến khích trẻ khám phá và phát huy năng lực tiềm ẩn của mình, đồng thời tạo ra khát vọng tiếp cận sâu hơn với các đối tượng học tập Hứng thú còn kích thích cảm xúc tích cực như say mê, hài lòng và phấn khởi, từ đó nâng cao sự tập trung và khả năng làm việc của trẻ.
Usinxki nhấn mạnh rằng việc học tập thiếu hứng thú và chỉ dựa vào sức mạnh cưỡng bức sẽ tiêu diệt lòng ham muốn học hỏi của người học Điều này không chỉ làm giảm khả năng sáng tạo mà còn khiến người học trở nên thờ ơ với quá trình học tập.
Theo N.K Karupxkaia, trẻ em có nhu cầu chơi để hiểu biết về cuộc sống xung quanh và thường bắt chước người lớn Trẻ mầm non đặc biệt thích hoạt động tích cực với bạn bè đồng trang lứa, và việc chơi giúp trẻ thỏa mãn những nhu cầu này.
Theo tác giả Trần Văn Điền, thuật ngữ “hứng thú” (interest) được hiểu là “sự thích thú, sự chú ý” [19]
Hứng thú là biểu hiện quan trọng trong quá trình học tập của trẻ, giúp trẻ tham gia hoạt động tích cực và đạt hiệu quả cao hơn Khi trẻ hứng thú với một câu chuyện hấp dẫn, chúng sẽ dễ dàng nhớ nội dung lâu hơn Điều này cho thấy rằng, khi trẻ có sự hứng thú với trò chơi, khả năng tập trung và ghi nhớ của trẻ sẽ được cải thiện đáng kể.
Tác giả P.A Rudick định nghĩa: “Chú ý là xu hướng và tính tập trung của hoạt động tâm lý nhằm vào một đối tượng nào đó” [58]
Theo K.K Platonop, chú ý là hành động tập trung ý thức vào một số đối tượng cụ thể, đồng thời tách biệt chúng khỏi những đối tượng khác Điều này thể hiện tính lựa chọn của ý thức khi hướng vào một đối tượng nhất định.
Tác giả Nguyễn Quang Uẩn định nghĩa chú ý là sự tập trung của ý thức vào một hay một nhóm sự vật hiện tượng, giúp định hướng hoạt động và đảm bảo điều kiện thần kinh - tâm lý cần thiết cho sự tiến hành hiệu quả Ở trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi, việc tập trung chú ý thể hiện qua hành động như lắng nghe và quan sát hướng dẫn của giáo viên Sự chú ý này giúp trẻ trở nên điềm tĩnh, chủ động và nắm bắt nhanh chóng, chính xác các yêu cầu từ giáo viên.
Việc trẻ tập trung chú ý không chỉ giúp định hướng mà còn tăng cường khả năng phối hợp linh hoạt các năng lực của bản thân, từ đó thực hiện các hành động chính xác và hiệu quả trong quá trình chơi.
Biểu hiện 2: Trẻ chủ động trong việc giải quyết các nhiệm vụ của GV trong hoạt động GDTC
Đặc điểm tâm sinh lý của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi
Đối với đặc điểm về sinh lý và tâm lý của trẻ MG, một số quan niệm cho rằng
Trẻ em không chỉ là phiên bản nhỏ của người lớn; chúng có những đặc điểm sinh lý và tâm lý riêng biệt Theo Rutxô, trẻ em có cách nhìn, suy nghĩ và cảm nhận độc đáo mà người lớn không thể dễ dàng hiểu được Điều này cho thấy sự khác biệt rõ rệt giữa trẻ em và người lớn, không chỉ ở kích thước mà còn ở cách mà trẻ em tương tác với thế giới xung quanh.
1.5.1 Đặc điểm sinh lý của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi Ở tuổi này, hệ thần kinh của trẻ đã phát triển khá đầy đủ Trẻ đã biết hành động theo sự chỉ dẫn của người lớn Do đó, cần rèn luyện cho trẻ thói quen tốt như kỷ luật, trật tự, ý thức giữ gìn vệ sinh, thói quen ăn ngủ, vui chơi, tập luyện, học tập,… đúng giờ
Hệ cơ và xương của trẻ ở lứa tuổi này phát triển không đồng đều, với sự thay đổi rõ rệt về tỷ lệ cơ thể và tăng cường sức bền Quá trình hình thành xương vẫn chưa hoàn tất, với nhiều sụn còn tồn tại, khiến cho xương có độ cứng chắc tương đối kém và dễ bị biến dạng Vận động hợp lý có thể cải thiện cấu trúc xương, giúp xương trở nên cứng cáp hơn Do đó, khi hướng dẫn trẻ vui chơi, cần đảm bảo an toàn, tránh các bài tập nặng và động tác có cường độ cao Cơ bắp của trẻ mẫu giáo chiếm 22-24% trọng lượng cơ thể, với sức mạnh yếu và dễ mệt mỏi Việc điều chỉnh lượng vận động là cần thiết để phát triển sức mạnh và sức bền cho cơ bắp, giúp trẻ tăng cường công năng cơ thể hiệu quả.
Trẻ em có sức co bóp yếu và nhịp tim nhanh, vì vậy cần tránh cho trẻ vận động liên tục trong thời gian dài hoặc tham gia các hoạt động đột ngột có thể gây hồi hộp và sợ hãi Khi vận động, tim và mạch của trẻ phải làm việc nhiều hơn, điều này giúp rèn luyện hệ tim mạch nhưng cũng dễ dẫn đến mệt mỏi do nhu cầu oxy cao trong quá trình phát triển Hệ thống điều hòa thần kinh tim của trẻ chưa hoàn thiện, khiến nhịp co bóp dễ mất ổn định Do đó, khi hướng dẫn trẻ vận động, cần thay đổi nội dung tập thường xuyên, luân chuyển giữa hoạt động và nghỉ ngơi, và tránh các trò chơi có khối lượng vận động lớn để bảo vệ sức khỏe tim mạch của trẻ.
Hô hấp ở trẻ em có sự khác biệt rõ rệt so với người lớn về cấu tạo và cơ chế Ở độ tuổi 5 – 6, trẻ bắt đầu chuyển từ thở bằng cơ hoành sang thở bằng cách giãn nở lồng ngực Để hỗ trợ quá trình này, cần khuyến khích trẻ tham gia các trò chơi giúp giãn nở lồng ngực, đồng thời tránh những tư thế như nằm sấp hay ngồi tì ngực vào bàn, vì chúng có thể cản trở hô hấp.
Vận động cơ thể có tác động tích cực đến các hệ thống và cơ quan khác của trẻ em, giúp tăng cường nhu động ruột và dạ dày Khi trẻ tham gia vào các hoạt động thể chất hợp lý, điều này không chỉ thúc đẩy quá trình tiêu hóa và hấp thụ thức ăn mà còn làm tăng mức độ ăn uống của trẻ, góp phần vào sự phát triển toàn diện.
Các hệ thống cơ quan trong cơ thể, dù có chức năng khác nhau, vẫn tương tác và hợp tác chặt chẽ để tạo thành một thể thống nhất Để phát triển khả năng của trẻ, việc giáo dục qua rèn luyện thể chất là rất cần thiết, vì thể chất là nền tảng cho hoạt động trí tuệ Do đó, việc chú ý đến đặc điểm sinh lý của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi là điều kiện quan trọng trong giáo dục thể chất cho trẻ.
1.5.2 Đặc điểm tâm lý của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi Ở độ tuổi MG 5 – 6 tuổi, trẻ đã hình thành năng lực quan sát, đặc biệt là quan sát theo chỉ dẫn bằng lời của người khác Thời gian quan sát tăng dần theo lứa tuổi Khả năng chú ý tăng nhưng chú ý chủ định và thời gian chú ý chủ định vào một sự vật, hiện tượng nào đó còn hạn chế Vì vậy, GV cần làm mẫu nhiều, sinh động, rõ ràng, chính xác kết hợp với giảng giải đơn giản, ngắn gọn, dễ hiểu, tránh giải thích suông, dài dòng
Trí nhớ của trẻ mẫu giáo (MG) đang trong giai đoạn phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là thông qua các hoạt động thể chất (TCVĐ) mà các em rất yêu thích Sự ghi nhớ của trẻ chủ yếu diễn ra một cách tự nhiên, nhưng khi trẻ cảm thấy hứng thú với một nhiệm vụ cụ thể, như việc ghi nhớ một vai trò trong TCVĐ, các em sẽ chủ động sắp xếp thông tin theo cách riêng của mình để dễ nhớ hơn.
Tư duy trực quan của trẻ đang phát triển mạnh mẽ, cho phép trẻ tự giải thích một số hiện tượng và sự việc đơn giản Giáo viên cần kết hợp đặc điểm này khi hướng dẫn các trò chơi vận động Đây cũng là giai đoạn mà khả năng bắt chước của trẻ, đặc biệt là những động tác phức tạp, phát triển mạnh Trẻ không chỉ có khả năng làm theo chỉ dẫn bằng lời của giáo viên mà còn thể hiện khả năng sáng tạo đơn giản khi thực hiện nhiệm vụ được giao.
Khả năng tưởng tượng của trẻ em được kích thích mạnh mẽ thông qua lời mô tả về các nhân vật thần thoại hoặc vai trò trong trò chơi Giáo viên cần kết hợp khéo léo giữa cách giới thiệu và giải thích để giúp trẻ dễ dàng hiểu và nhập vai vào nhân vật, từ đó phát triển khả năng tưởng tượng Khi trẻ cảm thấy mạnh mẽ và có cảm xúc tích cực với trò chơi, kết quả học tập sẽ được cải thiện rõ rệt.
Trẻ em từ 5 đến 6 tuổi đã phát triển tương đối phong phú về mặt tình cảm và đang tiếp tục tiến bộ mạnh mẽ Bên cạnh đó, trẻ cũng đã hình thành một số sở thích, tạo nền tảng cho những năng khiếu thể dục thể thao trong tương lai.
Các công trình nghiên cứu có liên quan
1.6.1 Một số nước trên thế giới
Tình hình nghiên cứu về TCVĐ nâng cao TTC của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt động giáo dục thể chất trên thế giới được phân chia thành ba nhóm nghiên cứu chính.
1.6.1.1 Nhóm các nghiên cứu về trò chơi vận động trong hoạt động giáo dục thể chất
Theo I.K Khailisop trong quyển “GDTC cho thiếu nhi trong gia đình, ở nhà trẻ, lớp MG” đã khẳng định vai trò của trò chơi đối với việc giáo dục trẻ, nhất là các trò chơi có tính chất hoạt động như TCVĐ Ông cho rằng “Về mặt giáo dục và lý luận
GDTC là một phương pháp hiệu quả để giáo dục toàn diện và phát triển trẻ em Trò chơi đóng vai trò chủ đạo trong việc giáo dục thể chất cho trẻ chưa đến tuổi học, đặc biệt là những trò chơi vận động giúp trẻ rèn luyện thể chất và các tố chất thể lực Các động tác như chạy, nhảy, ném, và leo trèo mà trẻ sử dụng trong trò chơi đều là những kỹ năng mà trẻ đã nắm vững Giáo viên cần giải thích ngắn gọn và rõ ràng về các trò chơi để trẻ hiểu và tham gia hiệu quả.
Nghiên cứu của I.K Khailisop, A.X Macarenco và L.X Vugotxki tập trung vào vai trò của trò chơi, đặc biệt là trò chơi vận động (TCVĐ), trong việc hình thành và phát triển nhân cách Hai tác giả cho rằng hoạt động vui chơi tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển này Trong quá trình chơi, trí tưởng tượng được kích thích, và môi trường chơi tưởng tượng giúp trẻ em trừu tượng hóa các quy tắc, từ đó rèn luyện các phẩm chất ý chí Họ nhấn mạnh rằng trò chơi là phương tiện xã hội hóa hiệu quả nhất cho trẻ em Macarenco khẳng định rằng “trò chơi giáo dục nên các phẩm chất cần thiết của người lao động và công dân tương lai.”
B.B Gorihepxky cho rằng TCVĐ là hình thức chủ yếu của sự vận động và là phương tiện giáo dục toàn diện cho trẻ trước tuổi đi học Ông nhấn mạnh tầm quan trọng của việc chọn chủ đề chơi Chủ đề chơi cần liên quan tới yêu cầu cuộc sống xã hội ngày nay Theo ông, trong quá trình chơi TCVĐ trẻ được giáo dục các phẩm chất đạo đức vì trò chơi là phương tiện để hình thành nhân cách cho trẻ [32]
N.K Krupxkaia là người có công lao lớn nhất trong quá trình phát triển lý luận về giáo dục toàn diện cho trẻ MG Bà đã chỉ ra sự cần thiết phải nghiên cứu lý luận giáo dục mới, xây dựng trên cơ sở học thuyết Mac – Lênin, kết hợp với nhiệm vụ của nhà nước xã hội chủ nghĩa Bà cho rằng, hoạt động GDTC cho trẻ có ý nghĩa to lớn, coi luyện tập thể dục thể thao là nhiệm vụ quan trọng để làm vững mạnh thế hệ mai sau Ghi nhận sự tác động có ích của bài tập thể chất lên cơ thể trẻ, bà đề cao vai trò của TCVĐ TCVĐ không chỉ củng cố sức khỏe của cơ thể, mà còn được sử dụng với mục đích giáo dục, góp phần hình thành, củng cố kỹ năng vận động, giáo dục cách biết điều khiển bản thân có tổ chức, có tính cách [29]
Cũng nghiên cứu về TCVĐ, hai tác giả H Tatrova và M Mexia trong quyển
Chương trình "Thể dục và trò chơi nhà trẻ" đã phát triển một loạt bài tập và các trò chơi vận động đơn giản nhằm rèn luyện các kỹ năng vận động cơ bản và nâng cao thể lực cho trẻ em ở độ tuổi nhà trẻ, đặc biệt chú trọng vào việc hình thành tư thế đúng cho trẻ.
Theo A.V Kenhman và cộng sự, TCVĐ là một hình thức vận động tích cực, được xem là một trong những phương tiện giáo dục thể chất hiệu quả nhất cho trẻ mầm non Để phát huy tối đa hiệu quả, TCVĐ cần được thiết kế phong phú về số lượng và đa dạng về nội dung, giúp trẻ có cơ hội sáng tạo và phát triển tư duy độc lập trong những tình huống cụ thể TCVĐ không chỉ có ý nghĩa giáo dục to lớn mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển thể chất cơ bản cho trẻ.
Yuri Manovxki đã chỉ ra nhiều luận điểm quan trọng về chăm sóc sức khỏe trẻ em trước tuổi đi học thông qua nghiên cứu kéo dài nhiều năm Trong cuốn sách “Chăm sóc sức khỏe trẻ em”, ông nhấn mạnh ba yếu tố cốt lõi mà phụ huynh và người chăm sóc trẻ cần chú ý: chế độ dinh dưỡng hợp lý, giữ gìn vệ sinh và tổ chức các trò chơi vận động phù hợp với độ tuổi Qua đó, tác giả khẳng định vai trò thiết yếu của hoạt động thể chất trong sự phát triển của trẻ.
Maxim Gorki đánh giá cao vai trò của TCVĐ trong giáo dục thể chất, coi đây là một biện pháp hiệu quả không chỉ cho GDTC mà còn góp phần vào việc giáo dục trí tuệ con người.
Lexgap đã có nhiều phát hiện quan trọng về TCVĐ, coi đây là “bài tập” giúp trẻ chuẩn bị cho cuộc sống tương lai Qua các trò chơi, trẻ học hỏi kỹ năng, thói quen và hình thành tính cách Quy tắc trò chơi đóng vai trò như những quy luật, đòi hỏi trẻ phải có ý thức, tự giác và trách nhiệm Việc tuân thủ các quy tắc này không chỉ cần thiết cho từng trẻ mà còn mang lại giá trị giáo dục lớn Trò chơi phát triển phẩm chất đạo đức, tính kỷ luật, trung thực, công bằng và tinh thần giúp đỡ lẫn nhau, do đó, ông xem trò chơi là một phương tiện giáo dục nhân cách hiệu quả.
Nhiều nghiên cứu quốc tế đã chỉ ra rằng phương pháp giáo dục thể chất (GDTC) cho trẻ mẫu giáo (MG), đặc biệt là thông qua trò chơi vận động (TCVĐ), mang lại hiệu quả cao trong hoạt động GDTC Việc áp dụng TCVĐ không chỉ giúp trẻ MG phát triển thể chất mà còn nâng cao sự hứng thú và khả năng tiếp thu trong quá trình học tập.
1.6.1.2 Nhóm các nghiên cứu về tính tích cực của trẻ mẫu giáo
Vấn đề phát triển tư duy sáng tạo (TTC) ở trẻ mầm non đã thu hút sự chú ý của nhiều nhà khoa học qua các nghiên cứu khác nhau Nhà giáo dục Tiệp Khắc J A Cômenxki nhấn mạnh tầm quan trọng của TTC, cho rằng cần tìm ra các biện pháp nhằm phát huy khả năng sáng tạo của học sinh, từ đó giúp giáo viên giảm bớt thời gian giảng dạy và khuyến khích học sinh tự học nhiều hơn.
Theo A.X Macarenco, trò chơi không cần nỗ lực và thiếu hoạt động tích cực sẽ dẫn đến sự thụ động ở trẻ, từ đó hình thành những đứa trẻ không có tính sáng kiến và khả năng khắc phục khó khăn Trò chơi tốt cần giúp trẻ làm quen với những nỗ lực cả về thể chất lẫn tâm lý, đồng thời giáo dục cho trẻ các phẩm chất lao động cần thiết của người lao động.
A Đixtervec, nhà giáo dục người Đức trong quyển “ ướng dẫn đào tạo GV” chỉ ra rằng “Không thể ban cho hoặc truyền đạt đến bất kỳ một người nào sự phát triển và sự giáo dục Bất cứ ai mong muốn được phát triển và giáo dục cũng phải phấn đấu bằng hoạt động của bản thân, bằng sức lực của chính mình; bằng sự cố gắng của bản thân… Vì thế hoạt động tự lực nói riêng và TTC nói chung là phương tiện và đồng thời là kết quả của sự giáo dục” [39]