Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong bối cảnh đổi mới và hội nhập, Việt Nam phải đối mặt với thách thức phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là việc thực thi pháp luật về giảm nghèo cho đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS), những người thường chịu thiệt thòi Đặc biệt, những người DTTS sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn cần được chú trọng trong việc xây dựng và thực hiện các chính sách giảm nghèo hiệu quả.
Cà Mau, tỉnh cực Nam của Tổ quốc, nổi bật với điều kiện tự nhiên đa dạng như đất đai, địa hình, sông rạch, biển và rừng ngập mặn, đã trở thành điểm đến lập nghiệp của hơn 14 dân tộc Các dân tộc tại Cà Mau đã cùng nhau hỗ trợ trong lao động, sản xuất và xây dựng quê hương Kể từ sau giải phóng và đặc biệt từ năm 1997, tỉnh đã thực hiện các chính sách giảm nghèo cho đồng bào dân tộc Khmer, triển khai nhiều biện pháp nhằm phát triển bền vững và bảo tồn văn hóa truyền thống Những nỗ lực này không chỉ nâng cao đời sống vật chất và tinh thần mà còn đảm bảo quyền bình đẳng giữa các dân tộc, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc ngày càng hiệu quả.
Theo Quyết định số 59/2015/QĐ-TTg của Thủ Tướng Chính Phủ, chuẩn nghèo được xác định là 700.000 đồng/người/tháng ở nông thôn và 900.000 đồng/người/tháng ở thành phố Để đánh giá mức độ thiếu hụt tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản, bao gồm 5 dịch vụ thiết yếu: y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch và vệ sinh, cùng với 10 chỉ số đo lường như tiếp cận dịch vụ y tế, bảo hiểm y tế, trình độ giáo dục của người lớn, tình trạng đi học của trẻ em, chất lượng nhà ở, diện tích nhà ở bình quân đầu người, nguồn nước sinh hoạt, hố xí hợp vệ sinh, sử dụng dịch vụ viễn thông và tài sản phục vụ tiếp cận thông tin.
Tỉnh Cà Mau có 14 dân tộc, trong đó 13 dân tộc thiểu số, chủ yếu là đồng bào dân tộc Khmer, sinh sống chủ yếu ở vùng sâu, vùng xa Mặc dù đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào các dân tộc đã được cải thiện nhờ thực hiện pháp luật về giảm nghèo, nhưng đồng bào Khmer vẫn gặp nhiều khó khăn Trình độ dân trí và hiểu biết pháp luật của họ còn thấp, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế diễn ra chậm, và việc ứng dụng khoa học - công nghệ vào sản xuất còn hạn chế Theo báo cáo của Ban Dân tộc tỉnh, tỷ lệ hộ nghèo trong đồng bào Khmer vẫn cao, đạt 25,67% theo tiêu chí mới, với một số khu vực lên đến trên 40%, và tình trạng tái nghèo vẫn diễn ra Do đó, nghiên cứu về thực hiện pháp luật giảm nghèo cho đồng bào dân tộc Khmer Nam bộ tại Cà Mau là cần thiết.
Qua khảo sát thực tế, chúng tôi nhận thấy rằng đời sống của đồng bào Khmer ở Cà Mau chưa có sự cải thiện tương xứng với đầu tư của Nhà nước, một phần do pháp luật về giảm nghèo chưa phù hợp với điều kiện thực tiễn tại địa phương Mục tiêu của nghiên cứu này là tìm hiểu nguyên nhân và đề xuất giải pháp thích hợp để thực hiện pháp luật về giảm nghèo cho đồng bào Khmer, nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn hóa tinh thần, góp phần đảm bảo giảm nghèo bền vững và ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội Vì vậy, tôi chọn đề tài: “Giải pháp giảm nghèo trong đồng bào dân tộc Khmer trên địa bàn tỉnh Cà Mau” cho nghiên cứu khoa học.
Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu
Câu hỏi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu nhằm phân tích thực trạng áp dụng các pháp luật về giảm nghèo tại Cà Mau, đồng thời chỉ ra những hạn chế, khiếm khuyết và vướng mắc trong hệ thống pháp luật hiện hành.
Thứ 2: Cần thực hiện các biện pháp nào để hoàn thiện pháp luật và cơ chế thúc đẩy việc bảo đảm pháp luật về giảm nghèo đối với đồng bào dân tộc thiểu số ?.
Giả thuyết nghiên cứu
Thứ nhất: Pháp luật về giảm nghèo của một quốc gia không thể thiếu chính sách và quy định riêng đối với đồng bào dân tộc thiểu số
Pháp luật về giảm nghèo đối với đồng bào dân tộc thiểu số tại Việt Nam đã được ban hành, tuy nhiên vẫn còn nhiều hạn chế và vướng mắc cần khắc phục để đạt hiệu quả cao hơn trong công tác hỗ trợ và phát triển cộng đồng.
Thứ 3: Thực tiễn áp dụng pháp luật về giảm nghèo đối với đồng bào dân tộc thiểu số tại Cà Mau cho thấy xuất hiện những bất cập, chưa đáp ứng được nhu cầu và đòi hỏi đảm bảo pháp luật về giảm nghèo cho nhóm đối tượng này
Thứ 4: Cần sớm hoàn thiện các quy định của pháp luật cũng như cơ chế thực hiện pháp luật về việc bảo đảm các giảm nghèo đối với đồng bào dân tộc thiểu số.
Tình hình nghiên cứu
Có thể kể một số công trình, bài viết tiêu biểu như:
- Luận văn Thạc sĩ của Nguyễn Tấn Thời (2005), “Đảng bộ An Giang lãnh đạo thực hiện chính sách dân tộc đối với đồng bào Khmer 1996 -2004”, Viện Hàn
Nghiên cứu thực trạng thực hiện chính sách đối với đồng bào dân tộc Khmer ở An Giang đã được thực hiện bởi Lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội năm 2005 Bài nghiên cứu không chỉ đánh giá những thành tựu và hạn chế trong quá trình thực hiện chính sách mà còn rút ra những kinh nghiệm quý báu cho việc cải thiện chính sách trong tương lai.
Bài viết của Đặng Vũ Liêm nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tiếp tục thực hiện hiệu quả các chính sách dành cho các vùng dân tộc thiểu số và miền núi, nhằm cải thiện đời sống của người dân Ông cho rằng, việc áp dụng các chính sách này không chỉ giúp nâng cao chất lượng cuộc sống mà còn góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội tại các địa phương Thực hiện tốt các chính sách sẽ tạo điều kiện cho người dân tiếp cận các dịch vụ cơ bản, từ giáo dục đến y tế, đồng thời bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Dựa trên việc phân tích các chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước, tác giả đã đề xuất những giải pháp nhằm thực hiện hiệu quả chính sách dân tộc tại các vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Lê Thị Anh Vân (2019) đã nghiên cứu thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách hỗ trợ giảm nghèo cho vùng dân tộc thiểu số ở Việt Nam Bài viết phân tích các chính sách đầu tư cơ sở hạ tầng, tín dụng hộ nghèo, hỗ trợ y tế, giáo dục, nhà ở, nước sinh hoạt và dịch vụ, cũng như các chính sách hỗ trợ theo nhóm đối tượng trong giai đoạn 2016-2018 Những chính sách này đã góp phần quan trọng vào việc xóa đói giảm nghèo và nâng cao chất lượng đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số Tuy nhiên, bài viết cũng chỉ ra những hạn chế trong việc hoạch định và thực thi các chính sách này Do đó, tác giả đề xuất một số định hướng và khuyến nghị nhằm đổi mới cơ chế, chính sách hỗ trợ giảm nghèo cho vùng dân tộc thiểu số trong tương lai.
Nguyễn Duy Dũng (2019) đã nghiên cứu về các giải pháp giảm nghèo bền vững cho các tộc người thiểu số ở Tây Nguyên, chỉ ra rằng nhiều năm thực hiện công tác xóa đói giảm nghèo vẫn gặp phải những khó khăn và bất trắc về con người và kinh tế Những yếu tố này cản trở tiến trình và nỗ lực giảm nghèo của cộng đồng dân tộc thiểu số tại đây Bài viết nhấn mạnh cần phân tích và nghiên cứu thêm các giải pháp xóa đói, giảm nghèo đặc thù nhằm tạo cơ sở cho sự phát triển bền vững của khu vực Tây Nguyên.
Hiện nay, chưa có nghiên cứu khoa học nào tập trung vào việc triển khai và thực hiện pháp luật cũng như chính sách giảm nghèo cho đồng bào dân tộc Khmer tại Nam Bộ, đặc biệt là ở Cà Mau và các đối tượng dễ bị thiệt thòi Do đó, việc nghiên cứu và đưa ra các kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về giảm nghèo cho đồng bào dân tộc Khmer là rất cần thiết trong bối cảnh hiện tại và tương lai.
Luận văn "Giải pháp giảm nghèo trong đồng bào dân tộc Khmer trên địa bàn tỉnh Cà Mau" là một nghiên cứu độc đáo, không trùng lặp với bất kỳ công trình khoa học nào đã được công bố trước đây.
Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu chung
Bài luận văn trình bày thực trạng và đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm giảm nghèo bền vững cho đồng bào dân tộc Khmer tại tỉnh Những giải pháp này nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống, phát triển kinh tế và bảo tồn văn hóa của người Khmer, góp phần vào sự phát triển bền vững của cộng đồng.
Cà Mau trong thời gian tới.
Mục tiêu nghiên cứu cụ thể
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là:
Thứ 1: Đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật về giảm nghèo đối với đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Cà Mau
Thứ 2: Đề xuất các giải pháp, kiến nghị hoàn thiện pháp luật về giảm nghèo đối với đồng bào dân tộc thiểu số.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Đề tài nghiên cứu tập trung vào công tác giảm nghèo trong cộng đồng dân tộc Khmer tại tỉnh Cà Mau trong thời gian qua Đối tượng khảo sát là người dân tộc Khmer sinh sống trên địa bàn tỉnh Cà Mau.
Phạm vi nghiên cứu
Nội dung nghiên cứu tập trung vào 06 nhóm pháp luật về giảm nghèo áp dụng cho đồng bào dân tộc thiểu số Khmer, bao gồm: (i) đầu tư phát triển bền vững; (ii) phát triển giáo dục và đào tạo; (iii) bảo tồn và phát triển văn hóa; (iv) y tế, dân số; (v) phổ biến, giáo dục pháp luật và trợ giúp pháp lý; (vi) bảo vệ môi trường, sinh thái Các nhóm pháp luật này được xác định trong các quy định hiện hành nhằm hỗ trợ đồng bào Khmer nghèo ở những vùng kinh tế đặc biệt khó khăn.
Về không gian: nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Cà Mau
Về thời gian: nghiên cứu dữ liệu thứ cấp về công tác giảm nghèo trên địa bàn tỉnh Cà Mau giai đoạn 2016-2018
4.3.1 Về phạm vi không gian nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu các quy định pháp luật của Việt Nam do cơ quan Nhà nước cấp trung ương ban hành, đối với các quy định cấp địa phương, đề tài khảo sát và đánh giá các quy định của cấp địa phương tại tỉnh Cà Mau
Việc thực hiện pháp luật về giảm nghèo và đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật được thực hiện tại địa bàn tỉnh Cà Mau
4.3.2 Về thời gian nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu thực tiễn thực hiện pháp luật từ năm 2011 là năm Chính phủ ban hành Nghị định số 05/2011/NĐ-
CP về chính sách dân tộc đến nay Các kiến nghị được đưa ra trong Luận văn được đề xuất với tầm nhìn đến năm 2025.
Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu sau đây:
Phương pháp hệ thống hóa, tổng hợp và phân tích được áp dụng trong phần 1.1 và 1.2 của chương 1 Luận văn, nhằm nhấn mạnh tầm quan trọng của pháp luật về giảm nghèo đối với các dân tộc thiểu số.
Phương pháp hệ thống hóa pháp luật và phân tích luật viết được trình bày trong mục 1.3, chương 1 của Đề tài, nhằm làm rõ các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam liên quan đến việc giảm nghèo cho đồng bào dân tộc thiểu số.
Phương pháp khảo sát và điều tra thực tiễn đã được thực hiện thông qua 250 phiếu điều tra, cùng với việc phân tích số liệu thống kê trong chương 2 và 3 của Luận văn Mục tiêu là làm rõ thực trạng triển khai và thực hiện pháp luật về giảm nghèo đối với đồng bào dân tộc Khmer tại tỉnh Cà Mau.
Phương pháp tổng hợp và dự báo được áp dụng nhằm đưa ra những kiến nghị cải thiện pháp luật liên quan đến công tác giảm nghèo cho đồng bào dân tộc thiểu số.
Đề tài này sử dụng số liệu và thông tin thứ cấp được thu thập từ nhiều nguồn, bao gồm Ban Dân tộc tỉnh Cà Mau, Sở Lao động Thương binh và Xã hội tỉnh, Cục Thống kê tỉnh, Ngân hàng Chính sách tỉnh, cùng với các tạp chí chuyên ngành liên quan đến hoạt động của dân tộc thiểu số và miền núi ở Việt Nam.
Tác giả đã có buổi trao đổi trực tiếp với cơ quan quản lý Nhà nước về dân tộc, các lãnh đạo huyện và xã liên quan đến việc thực hiện pháp luật giảm nghèo theo Chương trình 135, đặc biệt tại những vùng đông đồng bào dân tộc thiểu số ở tỉnh Cà Mau.
Ý nghĩa khoa học và khả năng ứng dụng
Kết quả nghiên cứu của Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho nhà xây dựng và hoạch định pháp luật về giảm nghèo cho đồng bào dân tộc thiểu số, phục vụ cho việc học tập và triển khai tại Ban Dân tộc tỉnh và các huyện, thành phố Cà Mau Đề tài cũng cung cấp nguồn tài liệu cho nghiên cứu và đào tạo về quản lý Nhà nước trong công tác dân tộc, cũng như thực hiện pháp luật về giảm nghèo cho đồng bào dân tộc Khmer Nam bộ Hơn nữa, nó có thể được sử dụng trong truyền thông và giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số và người có uy tín trong cộng đồng Đề tài chỉ ra những hạn chế của hệ thống pháp luật về giảm nghèo đối với đồng bào DTTS, từ đó phân tích và đánh giá thực trạng, đề xuất biện pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế thực hiện, đồng thời gợi mở các chủ trương, chính sách phù hợp và đánh giá sự cần thiết xây dựng dự án Luật Dân tộc nhằm cải thiện thể chế pháp luật trong việc đảm bảo thực hiện pháp luật về giảm nghèo cho đồng bào DTTS trong tương lai.
Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, mục lục, lời cam đoan, danh mục chữ viết tắt và kết luận, luận văn gồm có 03 chương
Chương 1: Tổng quan pháp luật về giảm nghèo đối với đồng bào dân tộc thiểu số
Chương 2: Thực trạng giảm nghèo đối với đồng bào dân tộc Khmer tại Cà
Chương 3: Giải pháp giảm nghèo đối với đồng bào dân tộc Khmer tại Cà Mau.
TỔNG QUAN GIẢM NGHÈO CHO ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ
KHÁI QUÁT VỀ GIẢM NGHÈO TẠI VIỆT NAM
1.1.1 Khái niệm hộ nghèo và chuẩn nghèo
Hộ nghèo và hộ cận nghèo được xác định theo Khoản 1 Điều 2 Thông tư 17/2016/TT-BLĐTBXH, quy định về quy trình rà soát hàng năm dựa trên chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều Thông tư này áp dụng cho giai đoạn 2016-2020 và được ban hành bởi Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội.
Hộ nghèo và hộ cận nghèo được xác định thông qua việc điều tra, rà soát hàng năm tại cơ sở, dựa trên các tiêu chí quy định tại Khoản 1 và Khoản 2 Điều 2 của Quyết định số 59/2015/QĐ-TTg ngày 19/11/2015 của Thủ tướng Chính phủ Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm công nhận danh sách các hộ gia đình thuộc diện nghèo và cận nghèo trong khu vực.
Hộ nghèo a) Khu vực nông thôn: là hộ đáp ứng một trong hai tiêu chí sau:
- Có thu nhập bình quân đầu người/tháng từ đủ 700.000 đồng trở xuống;
Hộ gia đình có thu nhập bình quân đầu người từ 700.000 đến 1.000.000 đồng mỗi tháng và thiếu hụt ít nhất 03 chỉ số đo lường mức độ tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản được xác định là nghèo Đối với khu vực thành thị, tiêu chí này được áp dụng cho hộ gia đình đáp ứng một trong hai điều kiện nêu trên.
- Có thu nhập bình quân đầu người/tháng từ đủ 900.000 đồng trở xuống;
Người dân có thu nhập bình quân đầu người từ 900.000 đồng đến 1.300.000 đồng mỗi tháng thường gặp khó khăn trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, với ít nhất 3 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt.
1.1.2 Các yếu tố ảnh hưởng đến công tác giảm nghèo
Tăng trưởng kinh tế đóng vai trò quan trọng trong việc đạt được mục tiêu giảm nghèo quốc gia Nó không chỉ phản ánh sức khỏe tổng thể của đất nước mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến các chính sách và chiến lược liên quan đến công tác xóa đói giảm nghèo (Hoàng Chí Bảo, 2010).
Việc cân đối nguồn lực để đáp ứng yêu cầu giảm nghèo ngày càng trở nên khó khăn khi chuẩn nghèo được nâng lên, dẫn đến nhiều hộ vừa thoát nghèo có nguy cơ tái nghèo cao Những hộ có thu nhập sát chuẩn nghèo cũng dễ rơi vào tình trạng nghèo theo chuẩn mới Điều này cho thấy số lượng hộ nghèo sẽ tăng theo chuẩn mới, tạo ra thách thức lớn trong việc giải quyết vấn đề giảm nghèo, trong khi nguồn lực vật chất và tài chính của nhà nước và xã hội còn hạn chế và chưa ổn định.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa đã dẫn đến việc hình thành nhiều dự án và khu công nghiệp, kéo theo sự mở rộng cơ sở hạ tầng và thu hồi đất của người dân Hệ quả là nhiều hộ dân bị mất đất và phải di dời đến nơi ở mới, nơi không đáp ứng được các điều kiện phát triển kinh tế gia đình Điều này khiến họ không kịp chuyển đổi nghề nghiệp, thiếu kỹ năng, và phải làm việc với mức thu nhập thấp, không ổn định tại các thành phố hoặc vùng ven đô, đồng thời gặp khó khăn trong việc tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản và đối mặt với nhiều rủi ro.
Thiên tai, dịch bệnh, ô nhiễm môi trường
Mức độ tàn phá và ô nhiễm môi trường hiện nay đang gia tăng nghiêm trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến tình trạng đói nghèo ở Việt Nam Ô nhiễm môi trường tại các khu đô thị và khu công nghiệp không chỉ tác động xấu đến sức khỏe cộng đồng mà còn làm gia tăng nguy cơ mắc các bệnh tật nghiêm trọng Hệ quả là sức lao động giảm sút, thu nhập giảm và chi phí y tế tăng cao, dẫn đến tình trạng nghèo đói ngày càng trầm trọng hơn cho người lao động (Hoàng Chí Bảo, 2010).
Tình trạng thiên tai như bão, lũ, và hạn hán kéo dài đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động nuôi trồng và phát triển kinh tế của nhiều người dân Các chính sách hỗ trợ vay vốn từ Nhà nước chưa phát huy hiệu quả tối đa tại các vùng thường xuyên chịu ảnh hưởng thiên tai Ngoài ra, dịch bệnh cũng tác động lớn đến hiệu quả sản xuất, kinh doanh và các chính sách giảm nghèo của Nhà nước.
Theo Phan An (1991), thất nghiệp là một vấn đề kinh tế vĩ mô nghiêm trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống con người Mất việc làm thường dẫn đến giảm mức sống và gia tăng áp lực tâm lý Chính vì vậy, thất nghiệp trở thành chủ đề thường xuyên được bàn luận trong các cuộc tranh luận chính trị.
Chất lượng nguồn nhân lực
Theo Mạc Tiến Anh (2005), tiến bộ công nghệ được thể hiện qua hiệu quả lao động, phản ánh sự hiểu biết của xã hội về phương pháp sản xuất Cải thiện công nghệ dẫn đến tăng năng suất lao động, đồng thời hiệu quả lao động cũng phụ thuộc vào sức khỏe, giáo dục, tay nghề và trình độ kỹ năng của lực lượng lao động.
Theo Hoàng Chí Bảo (2010), công nghệ được định nghĩa là việc ứng dụng tri thức nhằm đạt được kết quả thực tiễn, trong đó bao gồm cả bí quyết sản xuất, tri thức con người và khả năng nghiên cứu và triển khai (R&D) Điều này cho thấy rằng chất lượng nguồn nhân lực là yếu tố quyết định đối với sự phát triển công nghệ ở mỗi quốc gia và địa phương.
Nguồn nhân lực là yếu tố quyết định cho sự phát triển bền vững và năng lực cạnh tranh của mỗi quốc gia Trong bối cảnh các nước phát triển chuyển mình sang nền kinh tế tri thức, Việt Nam cần nâng cao năng suất lao động và giảm sự phụ thuộc vào lợi thế nhân công giá rẻ Việc chỉ dựa vào lao động giá rẻ sẽ không đủ để đưa đất nước thoát khỏi mức nghèo.
Để thu hút đầu tư và phát triển kinh tế, cần chủ động đào tạo nguồn nhân lực và phát triển kỹ năng cho người lao động Điều này không chỉ tạo ra nhiều cơ hội việc làm mà còn góp phần giảm nghèo bền vững và nâng cao đời sống của người dân.
Lạm phát thường tác động trực tiếp đến người nghèo bằng cách làm giảm mức lương thực tế của họ, đặc biệt khi lạm phát không được dự đoán Người nghèo thường gặp khó khăn trong việc thương lượng và không có nhiều biện pháp bảo vệ trước lạm phát Tuy nhiên, một mặt tích cực là khi lạm phát xảy ra, giá trị thực của các khoản nợ mà họ đang gánh chịu sẽ giảm, giúp họ dễ thở hơn trong việc trả nợ.
PHÁP LUẬT VỀ GIẢM NGHÈO TẠI VIỆT NAM
1.2.1 Chuẩn giảm nghèo ở Việt Nam
Các tiêu chí tiếp cận đo lường nghèo đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016-
2020 được quy định theo quyết định số 59/2015/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính Phủ
Tiêu chí về thu nhập được xác định như sau: Chuẩn nghèo là 700.000 đồng/người/tháng ở khu vực nông thôn và 900.000 đồng/người/tháng ở khu vực thành thị Trong khi đó, chuẩn cận nghèo được quy định là 1.000.000 đồng/người/tháng ở khu vực nông thôn và 1.300.000 đồng/người/tháng ở khu vực thành thị.
Mức độ thiếu hụt tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản được đánh giá qua năm dịch vụ thiết yếu: y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch và vệ sinh, cùng với thông tin Để đo lường mức độ thiếu hụt này, có mười chỉ số quan trọng, bao gồm: khả năng tiếp cận dịch vụ y tế, bảo hiểm y tế, trình độ giáo dục của người lớn, tình trạng đi học của trẻ em, chất lượng và diện tích nhà ở bình quân đầu người, nguồn nước sinh hoạt, hố xí/nhà tiêu hợp vệ sinh, sử dụng dịch vụ viễn thông, và tài sản phục vụ tiếp cận thông tin.
Xây dựng chuẩn nghèo giai đoạn 2016-2020 theo hướng kết hợp giữa chuẩn nghèo về thu nhập và mức độ thiếu hụt tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản Mục tiêu là thiết lập mức sống tối thiểu nhằm đảm bảo an sinh xã hội cho mọi người dân Trong giai đoạn này, chuẩn nghèo sẽ được áp dụng để phân loại đối tượng hộ nghèo, phù hợp với khả năng cân đối ngân sách.
Hộ nghèo được định nghĩa là những hộ có thu nhập bình quân đầu người hàng tháng thấp hơn hoặc bằng chuẩn nghèo chính sách, hoặc có thu nhập cao hơn chuẩn nghèo nhưng vẫn thấp hơn mức sống tối thiểu Đồng thời, các hộ này còn phải đối mặt với tình trạng thiếu hụt từ 1/3 tổng số điểm tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản.
Hộ cận nghèo được định nghĩa là những hộ gia đình có thu nhập bình quân đầu người hàng tháng vượt qua mức chuẩn nghèo theo chính sách, nhưng vẫn thấp hơn mức sống tối thiểu Đồng thời, các hộ này cũng gặp khó khăn trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, với tổng số điểm thiếu hụt không vượt quá 1/3.
Chính sách giảm nghèo bao gồm các giải pháp từ Nhà nước và xã hội nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người nghèo Mục tiêu chính là thu hẹp khoảng cách chênh lệch mức sống giữa nông thôn và thành thị, cũng như giữa các vùng, dân tộc và nhóm dân cư khác nhau.
Giảm nghèo bền vững là trọng tâm của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2020, nhằm cải thiện điều kiện sống cho người nghèo, đặc biệt tại khu vực miền núi và vùng dân tộc thiểu số Chiến lược này hướng tới việc tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện ở các vùng nghèo, thu hẹp khoảng cách giữa thành thị và nông thôn, cũng như giữa các vùng và dân tộc khác nhau Đồng thời, các chính sách cụ thể sẽ được triển khai để hỗ trợ hộ nghèo có thu nhập ổn định, giúp họ thoát nghèo bền vững và ngăn ngừa tình trạng tái nghèo.
Từ đó ta có thể hiểu khái niệm về chính sách giảm nghèo bền vững và thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững như sau:
Chính sách giảm nghèo bền vững là các quyết định của Nhà nước nhằm lựa chọn mục tiêu và giải pháp hiệu quả để cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho người nghèo Chính sách này góp phần thu hẹp khoảng cách về mức sống giữa nông thôn và thành thị, đồng thời giảm thiểu sự chênh lệch giữa các vùng, dân tộc và nhóm cư dân khác nhau.
Chính sách giảm nghèo bền vững là quá trình chuyển hóa ý chí của Nhà nước thành hành động cụ thể nhằm hỗ trợ các hộ nghèo Mục tiêu chính là giảm nghèo bền vững, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho người nghèo, đồng thời thu hẹp khoảng cách về mức sống giữa nông thôn và thành thị, cũng như giữa các vùng, dân tộc và nhóm cư dân khác nhau.
1.2.2 Công cụ và giải pháp thực hiện chính sách giảm nghèo tại Việt Nam Ở Việt Nam công cụ thực hiện chính sách giảm nghèo được Chính phủ sử dụng nhiều nhất đó là sự can thiệp, tác động trực tiếp đến người nghèo, và qua lợi ích kinh tế cụ thể như sau:
*Chính sách hỗ trợ giảm nghèo chung, gồm:
Chính sách hỗ trợ giáo dục và đào tạo bao gồm miễn, giảm học phí, cung cấp học bổng và trợ cấp xã hội nhằm giúp đỡ học sinh nghèo ở mọi cấp học, đặc biệt là bậc mầm non, để đảm bảo quyền lợi học tập cho các em.
Hỗ trợ sản xuất và dạy nghề cho người nghèo là rất quan trọng để tạo việc làm và tăng thu nhập Cần tạo điều kiện thuận lợi để người nghèo tiếp cận nguồn vốn, đồng thời hướng dẫn họ cách làm ăn, khuyến nông và khuyến công Việc chuyển giao kỹ thuật và công nghệ vào sản xuất cũng cần được chú trọng Đặc biệt, chính sách tín dụng ưu đãi cần được thực hiện hiệu quả đối với hộ nghèo, nhất là những hộ có người khuyết tật và hộ do phụ nữ làm chủ.
Chính sách hỗ trợ nhà ở cho hộ nghèo tại khu vực nông thôn và miền núi sẽ tiếp tục được triển khai nhằm cải thiện điều kiện sống Đặc biệt, ưu tiên sẽ được dành cho các hộ nghèo có người cao tuổi và người khuyết tật.
Chính phủ đang triển khai hiệu quả chính sách cấp thẻ bảo hiểm y tế cho người nghèo và hỗ trợ mua thẻ bảo hiểm cho hộ cận nghèo Đồng thời, cần xây dựng các chính sách hỗ trợ cho người nghèo mắc bệnh nặng và bệnh hiểm nghèo Đầu tư ưu đãi cũng được thực hiện nhằm nâng cao chất lượng cơ sở bệnh viện và trạm y tế tại các huyện, xã nghèo.
Hỗ trợ người nghèo tiếp cận văn hóa và thông tin là một nhiệm vụ quan trọng Cần tổ chức thực hiện hiệu quả chương trình đưa văn hóa và thông tin về cơ sở, đồng thời đa dạng hóa các hoạt động truyền thông Điều này giúp người nghèo nắm bắt các chính sách giảm nghèo, tìm hiểu các mô hình giảm nghèo hiệu quả và những gương điển hình thoát nghèo.
THỰC TRẠNG GIẢM NGHÈO ĐỐI VỚI ĐỒNG BÀO DÂN TỘC KHMER TẠI CÀ MAU
ĐỒNG BÀO DÂN TỘC KHMER TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH CÀ MAU
2.1.1 Vài nét về cộng đồng các dân tộc trên địa bàn tỉnh Cà Mau
Cà Mau, tỉnh cuối cùng của dải đất hình chữ S, nằm trong vùng kinh tế Tây Nam bộ, có vị trí địa lý đặc biệt với phía bắc giáp tỉnh Kiên Giang và tỉnh Bạc Liêu, ba mặt giáp biển và bờ biển dài 254 km Tỉnh có diện tích tự nhiên 5.329 km², chiếm 13,13% diện tích Đồng bằng sông Cửu Long và 1,58% diện tích cả nước Cà Mau gồm 9 đơn vị hành chính, bao gồm 8 huyện và 1 thành phố với 101 xã, phường, thị trấn, trong đó có 29 xã thuộc khu vực I, 25 xã thuộc khu vực II và 11 xã thuộc khu vực III Tỉnh cũng có 11 xã nằm trong chương trình phát triển kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn và 38 xã thuộc vùng khó khăn, xã bãi ngang ven biển.
Tỉnh Cà Mau có dân số 1.237.414 người, với 295.748 hộ, bao gồm 14 dân tộc cùng sinh sống Trong đó, có 13 dân tộc thiểu số với 11.994 hộ và 52.997 người Dân tộc Khmer là đông nhất với 7.801 hộ và 33.439 người, tiếp theo là dân tộc Hoa với 1.954 hộ và 9.418 người Các dân tộc khác bao gồm Mường, Tày, Thái, Nùng, Chăm, Gia Rai, Ê đê và Si La.
Tỉnh Cà Mau có 107 hộ dân tộc Cơ Ho, Xtiêng, Chu ru với 409 người, cùng với 2.132 hộ có thành viên là dân tộc thiểu số Người dân các dân tộc thiểu số sinh sống chủ yếu ở nông thôn, chiếm 76% tổng số hộ dân tộc thiểu số với 9.122 hộ và 39.326 người Tỷ lệ hộ nghèo trong cộng đồng dân tộc thiểu số là 25,69%, trong đó tỷ lệ hộ nghèo của dân tộc Khmer cao hơn, đạt 30,87% Mỗi dân tộc đều có bản sắc văn hóa và phong tục tập quán riêng, nhưng vẫn hòa quyện, tạo nên sự đa dạng và phong phú cho nền văn hóa của tỉnh.
1 Theo điều tra dân tộc thiểu số của Cục Thống kê tỉnh Cà Mau năm 2013
2 Theo báo cáo điều tra hộ nghèo, cận nghèo của Sở Lao động - Thương binh & xã hội tỉnh Cà Mau năm
Dân tộc Khmer và dân tộc Hoa là hai dân tộc thiểu số có dân số đông, trong đó dân tộc Khmer chiếm ưu thế Người Khmer chủ yếu làm nông nghiệp, với tinh thần cần cù và chịu khó, họ đã vượt qua nhiều khó khăn để cải thiện đời sống kinh tế Chùa không chỉ là nơi gắn bó với cuộc sống của người dân mà còn là chỗ dựa tinh thần và tín ngưỡng, đồng thời là trung tâm văn hóa lễ hội và bảo tồn giá trị truyền thống Ngoài ra, chùa còn đóng vai trò quan trọng trong việc đào tạo nhân cách, đạo đức và kiến thức cho trí thức Khmer, tạo điều kiện cho việc truyền tải các giá trị văn hóa và thông tin về chính sách của Đảng và Nhà nước đến cộng đồng.
2.1.2 Những đặc điểm cư trú và kinh tế của đồng bào dân tộc Khmer
2.1.2.1.Về đặc điểm cư trú
* Vài nét về lịch sử dân tộc Khmer Nam bộ 3
Trước khi người Khmer xuất hiện ở Nam Bộ, vùng đất này đã từng là nơi tồn tại của nước Phù Nam từ những thế kỷ đầu Công nguyên Sau một thời gian phát triển, đến cuối thế kỷ VI, Phù Nam bắt đầu suy yếu Trong bối cảnh đó, nước Chân Lạp của người Khmer, từng là thuộc quốc của Phù Nam, đã nhanh chóng phát triển và lợi dụng sự suy yếu của Phù Nam để chiếm lấy một phần lãnh thổ vào đầu thế kỷ VII.
Sau khi đánh bại Phù Nam, Chân Lạp bị chia thành hai miền cát cứ do mâu thuẫn, gây khó khăn trong việc quản lý lãnh thổ Người Khmer, với số lượng ít hơn và thói quen khai thác đất cao, gặp khó khăn trong việc tổ chức khai thác quy mô lớn các vùng đồng bằng ngập nước và sình lầy, điều này đòi hỏi nhiều thời gian và sức lực.
Từ cuối thế kỷ IX đến thế kỷ XI, Chân Lạp phát triển thành một quốc gia hùng mạnh, hình thành nên nền văn minh Ăngkor rực rỡ.
3 Nội dung phần này được lược trích từ “Đặc điểm cộng đồng người Khmer ở Nam Kỳ nửa đầu thế kỷ XIX
Vào giữa thế kỷ XIX, cộng đồng người Khmer ở Nam Kỳ đã tập trung phát triển kinh tế - xã hội tại khu vực Biển Hồ và trung lưu sông Mê Kông, dẫn đến ảnh hưởng của văn minh Ăngkor tại Nam Bộ trở nên mờ nhạt, mặc dù lãnh thổ đã mở rộng đến tận Nam Lào.
Từ thế kỷ X, nhiều nông dân Khmer nghèo khổ đã rời bỏ quê hương do sự bóc lột và thuế nặng của chế độ phong kiến Angkor, tìm đến những giồng đất cao ở đồng bằng Nam bộ Tại đây, họ sống tập trung theo từng khu vực, dựa trên quan hệ huyết thống và cộng đồng dân tộc Đến thế kỷ XIV, trước sự bành trướng của các vương triều Xiêm, cộng đồng Khmer, bao gồm cả sư sãi và trí thức, đã di cư vào Nam để tránh áp bức Họ hòa nhập với những người Khmer đã sống tại đây và tiếp tục khai phá, biến vùng đất này thành những điểm dân cư đông đúc.
Vào đầu thế kỷ XVI, các điểm dân cư của người Khmer đã hình thành ở đồng bằng Nam bộ Tuy nhiên, từ thế kỷ XVI đến XVII, triều đình Chân Lạp bị chia rẽ và suy yếu do sự can thiệp của Xiêm, dẫn đến khả năng kiểm soát vùng đất Nam bộ giảm sút Người Khmer tại đây chủ yếu sinh sống độc lập, không liên kết với quốc gia nào, và do sống tách biệt với người Khmer ở Campuchia trong thời gian dài, họ đã phát triển những đặc điểm riêng về cư trú, kinh tế, văn hóa và xã hội.
Quá trình giao thoa giữa cộng đồng dân cư và các tộc người mới từ cuối thế kỷ XVII đã làm gia tăng sự khác biệt giữa người Khmer ở Nam Bộ và Campuchia Kể từ khi các chúa Nguyễn và nhà Nguyễn thiết lập chủ quyền và ban hành các chính sách quản lý vùng đất Nam Bộ, người Khmer tại đây đã trở thành một phần trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Trong lịch sử phát triển của vùng Nam bộ và Việt Nam, dân tộc Khmer là một phần quan trọng trong cộng đồng đa dạng về dân tộc và văn hóa Hơn 300 năm qua, vùng đất này đã tiếp nhận nhiều cộng đồng cư dân, chủ yếu là người Việt, Khmer, Hoa và Chăm, tạo nên mối quan hệ giao lưu văn hóa phong phú Sự giao thoa này đã hình thành những phong tục đặc trưng của Nam bộ, bao gồm lễ đón xuân, nghi thức hôn lễ của người Chăm, và các lễ hội như Óc Om Bóc và Tết Chôl Chnăm Thmây của người Khmer Những phong tục này không chỉ thể hiện bản sắc văn hóa mà còn gắn bó cộng đồng, thể hiện tinh thần đoàn kết trong cuộc sống và trong cuộc chiến bảo vệ độc lập dân tộc.
Đồng bào dân tộc Khmer Nam Bộ chủ yếu cư trú tại ba vùng dân cư tập trung lớn, tạo nên đặc điểm nổi bật về địa bàn sinh sống của họ.
- Tập trung ở Vùng tỉnh An Giang và tỉnh Kiên Giang
Vùng núi Tây Nam, với thiên nhiên đa dạng nhưng khắc nghiệt, đã tác động mạnh mẽ đến đời sống, tình trạng cư trú, lao động và sản xuất của các đồng bào dân tộc thiểu số, dân tộc Khmer và người Việt đang sinh sống tại đây.
- Tập trung ở Vùng tỉnh Trà Vinh - tỉnh Vĩnh Long (còn gọi là vùng nội địa)
4 Nguyễn Khắc Cảnh (2000), Sự hình thành cộng đồng người Khmer Nam bộ , Nxb ĐHQG TPHCM, tr 221
Vùng Nam Kỳ nửa đầu thế kỷ XIX có địa hình bằng phẳng, với những sống đất dọc theo hai bờ sông Tiền và sông Hậu, cùng các gờ đất cao vài mét chạy song song với bờ biển Những sống đất và gò đất này được cộng đồng người Khmer gọi là “phno” (giồng), và đây là một trong những khu vực cư trú cổ xưa nhất của người dân tộc Khmer tại Nam bộ.
- Tập trung ở Vùng tỉnh Sóc Trăng - tỉnh Bạc Liêu và tỉnh Cà Mau
THỰC TIỄN TRIỂN KHAI THỰC HIỆN GIẢM NGHÈO ĐỐI VỚI ĐỒNG BÀO DÂN TỘC KHMER
2.2.1 Quán triệt và lập kế hoạch, đề xuất những giải pháp thực hiện Nghị định số 05/2011/NĐ-CP của Chính phủ
Sau khi Nghị định số 05/2011/NĐ-CP có hiệu lực, Ủy ban Nhân dân tỉnh Cà Mau đã chỉ đạo Ban Dân tộc phối hợp với các sở, ban, ngành tổ chức quán triệt nội dung và tầm quan trọng của nghị định đến các cấp ủy Đảng, chính quyền và cán bộ công chức Điều này nhằm nâng cao nhận thức và trách nhiệm của hệ thống chính trị, đồng thời tranh thủ sự đồng thuận của nhân dân về công tác dân tộc Nghị định cũng định hướng rõ trách nhiệm của các đơn vị và địa phương trong việc xây dựng và thực hiện các chương trình, chính sách cho đồng bào dân tộc thiểu số, phát huy vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội trong công tác tuyên truyền và nâng cao nhận thức cho cộng đồng dân tộc thiểu số tại địa phương.
UBND tỉnh Cà Mau đã chỉ đạo Ban Dân tộc phối hợp với các sở, ban, ngành tiến hành khảo sát thực tế tại địa phương để nắm bắt tình hình đời sống của đồng bào dân tộc Đồng thời, việc kiểm tra thực hiện các chính sách dân tộc tại các xã thuộc Chương trình 135 và xã có đông đồng bào DTTS cũng được thực hiện Mục tiêu là hiểu rõ tâm tư, nguyện vọng của đồng bào, đồng thời xác định những tồn tại, hạn chế và khó khăn tại địa phương Qua đó, tỉnh sẽ kịp thời lập kế hoạch và đề ra các giải pháp nhằm triển khai hiệu quả các chính sách dân tộc, góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần, cũng như xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Trong những năm qua, tỉnh Cà Mau đã thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về công tác dân tộc thông qua việc triển khai các chính sách giảm nghèo cho đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) Tỉnh tập trung vào các dự án hỗ trợ đất ở, đất sản xuất, tín dụng và giải quyết việc làm nhằm nâng cao thu nhập cho hộ nghèo DTTS Cụ thể, tỉnh đã triển khai 06 nhóm pháp luật về giảm nghèo, góp phần tạo thu nhập, ổn định cuộc sống và phát triển kinh tế - xã hội cho hộ đồng bào DTTS và hộ dân tộc Khmer nghèo Những nỗ lực này không chỉ giúp các hộ thoát nghèo bền vững mà còn thúc đẩy xây dựng nông thôn mới tại Cà Mau.
2.2.2 Ban hành các văn bản triển khai thực hiện Nghị định số 05/2011/NĐ-CP của Chính phủ
Trong giai đoạn 2011 - 2015, UBND tỉnh Cà Mau đã ban hành 08 Quyết định và 07 Kế hoạch nhằm chỉ đạo và điều hành việc triển khai Nghị định số 05/2011/NĐ-CP của Chính phủ về công tác dân tộc Những Quyết định và Kế hoạch này đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện các chính sách dân tộc tại địa phương.
Kế hoạch chỉ đạo, điều hành triển khai thực hiện pháp luật về giảm nghèo đối với đồng bào dân tộc Khmer trên địa bàn tỉnh bao gồm:
Quyết định số 1087/QĐ-UBND ngày 16/7/2011 của UBND tỉnh Cà Mau phê duyệt Kế hoạch phân khai hỗ trợ nhằm giải quyết vấn đề đất ở, đất sản xuất và tạo việc làm cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo có đời sống khó khăn trong tỉnh.
- Quyết định số 113/QĐ-UBND ngày 20/01/2011 của UBND tỉnh về việc phê duyệt đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020”
Quyết định số 1438/QĐ-UBND ngày 11/10/2012 của UBND tỉnh Cà Mau phê duyệt Kế hoạch phân khai vốn hỗ trợ nhằm giải quyết đất ở và đất sản xuất cho các hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo có cuộc sống khó khăn trên địa bàn tỉnh Kế hoạch này hướng đến việc cải thiện đời sống và phát triển kinh tế cho cộng đồng dân tộc thiểu số tại Cà Mau.
Quyết định số 940/QĐ-UBND ngày 12/7/2012 của UBND tỉnh Cà Mau đã phê duyệt Kế hoạch triển khai Chương trình hành động của Chính phủ nhằm nâng cao công tác phổ biến giáo dục pháp luật tại địa phương trong giai đoạn 2012 - 2016 Kế hoạch này nhằm tăng cường nhận thức pháp luật cho người dân, góp phần xây dựng một xã hội tuân thủ pháp luật và phát triển bền vững.
Quyết định số 1591/QĐ-UBND ngày 22/10/2014 của UBND tỉnh Cà Mau đã phê duyệt Kế hoạch thực hiện chính sách giải quyết đất ở và việc làm cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, nhằm cải thiện đời sống khó khăn của họ Kế hoạch này được xây dựng theo tinh thần của Quyết định số 29/2013/QĐ-TTg, thay thế cho Quyết định số 74/2008/QĐ-TTg.
Kế hoạch số 17/KH-UBND, ban hành ngày 16/5/2014, của Ủy ban Nhân dân tỉnh nhằm triển khai Đề án tăng cường hợp tác quốc tế, với mục tiêu hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
- Kế hoạch số 14/KH-UBND ngày 06/5/2014 của Ủy ban nhân dân tỉnh Cà Mau triển khai thực hiện chiến lược công tác dân tộc đến năm 2020
Ủy ban nhân dân tỉnh Cà Mau cùng với Ban Dân tộc và các sở, ban, ngành đã ban hành nhiều văn bản pháp luật nhằm hướng dẫn các địa phương thực hiện hiệu quả chính sách giảm nghèo cho đồng bào các dân tộc thiểu số, đặc biệt là dân tộc Khmer tại tỉnh Cà Mau.
2.2.3 Kiện toàn bộ máy và huy động các nguồn lực cho việc thực hiện pháp luật về giảm nghèo với đồng bào dân tộc Khmer trên địa bàn tỉnh Cà Mau
2.2.3.1 Kiện toàn tổ chức bộ máy cơ quan làm công tác dân tộc
Theo Nghị định số 13/2008/NĐ-CP ngày 04/02/2008 của Chính phủ, quy định về tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, và Nghị định số 24/2014/NĐ-CP, Ủy ban nhân dân tỉnh Cà Mau đã ban hành Quyết định số 1470/QĐ-UBND vào ngày 13/10/2008 để thành lập Ban Dân tộc tỉnh Cà Mau Đối với cấp huyện, thành phố, căn cứ theo Nghị định số 12/2010/NĐ-CP ngày 26/02/2010, tỉnh Cà Mau đã tiến hành rà soát và tham mưu thành lập các cơ quan chuyên môn thuộc UBND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.
Tại tỉnh Cà Mau, có 05 phòng Dân tộc được thành lập tại các huyện Trần Văn Thời, U Minh, Đầm Dơi, Thới Bình và thành phố Cà Mau Bốn huyện còn lại chưa đáp ứng đủ tiêu chí để thành lập phòng Dân tộc, tuy nhiên mỗi huyện đều có một lãnh đạo Văn phòng hoặc một chuyên viên Văn phòng HĐND-UBND phụ trách theo dõi công tác dân tộc trên địa bàn.
Theo Thông tư liên tịch 07/2014/TTLT-UBDT-BNV ngày 22/12/2014, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc và Bộ trưởng Bộ Nội vụ đã hướng dẫn về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của cơ quan công tác dân tộc ở cấp tỉnh và huyện Dựa trên hướng dẫn này, Ban Dân tộc tỉnh và phòng Dân tộc các huyện, thành phố đã tham mưu cho UBND ban hành Quy định liên quan Kết quả là, các đơn vị này đã tiến hành sắp xếp và kiện toàn tổ chức, cán bộ, biên chế để đáp ứng hiệu quả các chức năng và nhiệm vụ được giao.
Cơ cấu tổ chức của Ban Dân tộc tỉnh hiện nay bao gồm Ban lãnh đạo và 05 phòng chuyên môn: Văn phòng, Thanh tra, Chính sách Dân tộc, Kế hoạch Tổng hợp, Tuyên truyền và Địa bàn Tổng số biên chế của Ban Dân tộc tỉnh là 22 người, trong đó có 02 hợp đồng theo Nghị định số 68/2000/NĐ-CP và 03 hợp đồng đặc thù cho con em đồng bào dân tộc thiểu số Đối với phòng Dân tộc tại các huyện, thành phố, biên chế được giao là 05 người.
2.2.3.2 Huy động và sử dụng các nguồn lực
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIẢM NGHÈO ĐỐI VỚI ĐỒNG BÀO DÂN TỘC KHMER VÀ KẾT QUẢ
Trong những năm qua, tỉnh Cà Mau đã ghi nhận sự giảm đáng kể số hộ nghèo trong cộng đồng dân tộc Khmer Tỉnh có 13 dân tộc thiểu số với hơn 53.200 người, trong đó dân tộc Khmer và Hoa chiếm số lượng đông đảo Nhờ những nỗ lực không ngừng của chính quyền địa phương, đời sống của đồng bào dân tộc ngày càng được cải thiện, góp phần vào công cuộc giảm nghèo nhanh chóng.
Tỉnh Cà Mau có 65 xã, phường, thị trấn thuộc vùng dân tộc thiểu số (DTTS), được chia thành 3 khu vực, trong đó có 127 ấp đặc biệt khó khăn Tại đây, có 14 dân tộc anh em sinh sống, trong đó có 13 DTTS với tổng số hơn 53.200 người, tương đương 11.448 hộ Dân tộc Khmer là nhóm DTTS đông nhất tại tỉnh, với hơn 9.600 hộ và gần 45.000 người.
Trong giai đoạn 2014 - 2019, mặc dù tỉnh Cà Mau và vùng đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, nhưng nhờ sự lãnh đạo quyết liệt của Đảng, quản lý hiệu quả của Nhà nước, cùng với sự đồng thuận cao từ nhân dân, các tầng lớp nhân dân, bao gồm cả đồng bào DTTS, đã nỗ lực vượt qua khó khăn và đạt được nhiều thắng lợi quan trọng.
Bảng 2.1 Thống kê tỷ lệ của hộ nghèo (%)
Kế hoạch Thực hiện Kế hoạch Thực hiện
Tỷ lệ hộ nghèo dân tộc Kmer
Nguồn: Cục thống kê tỉnh Cà Mau
Theo số liệu rà soát, tỷ lệ hộ nghèo ở vùng đồng bào DTTS của tỉnh năm
Tỷ lệ hộ nghèo trong cộng đồng dân tộc thiểu số (DTTS) đã giảm mạnh từ gần 36% vào năm 2010 xuống còn gần 15,6% hiện nay Đến cuối năm 2018, thu nhập bình quân đầu người của DTTS đạt 35,96 triệu đồng, cho thấy sự cải thiện đáng kể Đặc biệt, tỷ lệ giảm nghèo hàng năm trong đồng bào DTTS đạt từ 3-4%, phản ánh những nỗ lực trong công tác xóa đói giảm nghèo.
Theo thống kê các năm, tỷ lệ hộ nghèo của đồng bào dân tộc Khmer và dân tộc thiểu số có giảm qua các năm trong giai đoạn 2016 – 2018
Cũng trong giai đoạn 2014-2019, Cà Mau đã tập trung xây dựng hoàn thành
Chương trình 135 của Chính phủ đã đầu tư xây dựng 256 công trình giao thông và duy tu 274 công trình khác trong vùng dân tộc thiểu số, với tổng vốn phân bổ lên đến 220 tỷ đồng Trong đó, hơn 160,6 tỷ đồng được hỗ trợ từ ngân sách Trung ương, còn lại 60 tỷ đồng là từ ngân sách tỉnh.
Ban dân tộc tỉnh đã tham mưu UBND tỉnh xem xét xuất ngân sách hỗ trợ thêm khoảng 20 tỷ đồng ngoài Chương trình 135 để đầu tư hoàn thành một số tuyến đường giao thông bức xúc thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) Trong những năm qua, Chương trình 135 luôn được ưu tiên về nguồn lực đầu tư, đặc biệt là nguồn vốn ngân sách hỗ trợ từ Trung ương và nguồn vốn đối ứng của ngân sách tỉnh Huyện U Minh nổi bật trong công tác giảm nghèo ở vùng DTTS với 1.469 hộ DTTS, chiếm hơn 5,7% tổng số hộ dân toàn huyện, trong đó đồng bào dân tộc Khmer chiếm tỷ lệ lớn nhất, chủ yếu làm nông nghiệp, buôn bán nhỏ và lao động phổ thông, tập trung chủ yếu ở các xã Khánh Lâm, Khánh Hoà, Nguyễn Phích và Khánh Thuận.
Từ năm 2015 đến nay, huyện đã hỗ trợ hơn 2.000 hộ dân tộc thiểu số (DTTS) mua giống, cây trồng và con giống để phát triển sản xuất Tỉnh đã phân bổ hơn 4 tỷ đồng từ Chương trình 135 cho 4 xã khu vực III và xã bãi ngang ven biển, nhằm nâng cao đời sống và sản xuất của người dân.
572 lượt hộ nghèo nuôi tôm, nuôi heo hướng nạc, gà nòi thương phẩm, nuôi dê, nuôi vịt biển, trồng cây ăn trái phát triển kinh tế gia đình,…
Tỉnh Cà Mau đã triển khai nhiều chính sách giáo dục-đào tạo nhằm hỗ trợ học sinh, bao gồm miễn giảm học phí, hỗ trợ tiền đò, và tạo điều kiện học tập tại các trường dân tộc nội trú Đặc biệt, chính sách cử tuyển học sinh Khmer vào các cơ sở giáo dục đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp theo Nghị định số 134/2006-NĐ-CP của Chính phủ đã được thực hiện hiệu quả Hiện tại, trung bình mỗi năm có khoảng 10 học sinh Khmer tham gia các lớp dự bị đại học tại tỉnh.
Tỉnh đã triển khai chính sách chăm sóc sức khỏe bằng cách cấp thẻ bảo hiểm y tế miễn phí cho đồng bào Khmer nghèo ở vùng kinh tế-xã hội khó khăn, với tổng kinh phí lên tới hàng chục tỷ đồng Ngoài ra, 5.000 hộ được hỗ trợ nhà ở theo Quyết định 134/2004/QĐ-TTg và 400 hộ khác theo Quyết định 167/2008/QĐ-TTg Hơn nữa, khoảng 1.300 hộ cũng nhận được hỗ trợ đất ở theo Quyết định số 74/2008/QĐ-TTg và Quyết định số 29/2013/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.
Ngoài ra, tỉnh còn thực hiện hỗ trợ nước sinh hoạt, điện thắp sáng, dầu hỏa… cho hàng ngàn hộ dân tộc Khmer nghèo
Nhờ các chính sách giảm nghèo hiệu quả, đời sống của đồng bào dân tộc Khmer đã có sự cải thiện đáng kể Thu nhập bình quân đầu người năm 2015 đã tăng gấp đôi so với năm 2005 Tỷ lệ hộ nghèo trong cộng đồng Khmer giảm khoảng 2-3% mỗi năm, nhiều hộ gia đình đã thoát nghèo và có cuộc sống khá giả, đủ đầy Đặc biệt, nhiều gia đình có con em trở thành bác sĩ, kỹ sư và giáo viên, thể hiện sự phát triển vượt bậc trong giáo dục và nghề nghiệp.
2.3.1 Thực hiện pháp luật về chính sách đầu tư phát triển bền vững
2.3.1.1 Quá trình thực hiện và kết quả
Quyết định số 74/2008/QĐ-TTg được ban hành nhằm hỗ trợ giải quyết vấn đề đất ở, đất sản xuất và tạo việc làm cho đồng bào dân tộc thiểu số nghèo tại vùng đồng bằng sông Cửu Long Chính sách này hướng tới việc cải thiện đời sống của người dân gặp khó khăn, góp phần phát triển kinh tế và xã hội bền vững trong khu vực.
Tổng nguồn vốn phân bổ cho dự án là 63.230 triệu đồng, bao gồm 56.000 triệu đồng từ ngân sách Trung ương và 7.230 triệu đồng từ ngân sách tỉnh Đến nay, đã phân khai 62.147,6 triệu đồng, đạt 98,29% so với tổng vốn giao, với kết quả thực hiện đạt 54.402,004 triệu đồng, tương đương 87,54% kế hoạch Cụ thể, dự án đã hỗ trợ đất sản xuất cho 328 hộ, đất ở cho 1.103 hộ, đào tạo nghề cho 832 lao động, và cung cấp dụng cụ máy móc cho 2.106 hộ Ngoài ra, dự án cũng đã đầu tư mua đất ở và đất sản xuất tập trung tại 47 điểm, với tổng diện tích 879.370,2m2 và tổng số tiền là 31.278 triệu đồng.
UBND tỉnh Cà Mau đã ban hành Quyết định số 1861/QĐ-UBND ngày 13/12/2013, phê duyệt Kế hoạch thực hiện chính sách giao đất ở và đất sản xuất cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo Đến thời điểm báo cáo, đã có 201 hộ được giao đất, trong đó 48 hộ nhận đất ở, 72 hộ nhận đất sản xuất, và 81 hộ được cấp cả hai loại đất.
* Thực hiện Quyết định số 102/2009/QĐ-TTg ngày 07/8/2009 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách hỗ trợ trực tiếp cho người dân thuộc hộ nghèo ở vùng khó khăn
Tổng kinh phí phân bổ trong 5 năm là 24.405,560 triệu đồng, bao gồm ngân sách Trung ương 1.328 triệu đồng và ngân sách tỉnh 23.077,560 triệu đồng Đến nay, đã hỗ trợ cho 46.141 hộ dân, tương ứng với 199.725 khẩu, với tổng kinh phí thực hiện là 18.901,080 triệu đồng, trên địa bàn 20 xã thuộc 7 huyện, thành phố.
2014 và 2015 thực hiện theo Quyết định 1049/QĐ-TTg ngày 26/6/2014 của Thủ tướng Chính phủ trên địa bàn tỉnh Cà Mau có 38 xã thuộc 8 huyện được thụ hưởng chính sách
Thực hiện Quyết định số 1592/QĐ-TTg và Quyết định số 755/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, chính sách hỗ trợ nước sinh hoạt được triển khai nhằm giúp đỡ các hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, cải thiện đời sống khó khăn của họ.
NHỮNG THÀNH TỰU, HẠN CHẾ VÀ NGUYÊN NHÂN TRONG CÔNG TÁC GIẢM NGHÈO ĐỐI ĐỐI ĐỒNG BÀO DÂN TỘC KHMER TẠI CÀ MAU
Trong giai đoạn 2011 - 2015, tỉnh Cà Mau đã triển khai hiệu quả pháp luật về giảm nghèo cho đồng bào dân tộc Khmer, theo Nghị định số 05/2011/NĐ-CP của Chính phủ Các chính sách giảm nghèo được thực hiện đồng bộ, kịp thời và đạt được kết quả tích cực, thể hiện sự quan tâm đầy đủ đối với nhóm đối tượng này.
Pháp luật về chính sách giảm nghèo đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo giảm nghèo, xóa đói và phát triển bền vững cho các vùng dân tộc Khmer Chính sách đầu tư phát triển bền vững, hỗ trợ giáo dục và đào tạo, cùng với bảo tồn văn hóa được chú trọng, giúp hoàn thành nhiều mục tiêu trước thời hạn Đối với các chính sách theo Nghị định số 05/2011/NĐ-CP, tỉnh đã nghiên cứu và đề xuất với Trung ương để triển khai đúng tinh thần của Nghị định, nhằm thúc đẩy hiệu quả thực hiện các chính sách này.
Theo báo cáo của Ủy ban Nhân dân tỉnh Cà Mau năm 2015, tổng kết 5 năm thực hiện Nghị định 05/2011 trong giai đoạn 2011-2015 cho thấy sự tiến bộ trong việc thực hiện các chính sách Thông tin chi tiết có thể được tìm thấy trên cổng thông tin điện tử của Ủy ban Nhân dân tỉnh Cà Mau tại www.camau.gov.vn Việc áp dụng các quy định và văn bản pháp luật liên quan đã giúp đảm bảo tiến độ thực hiện các chính sách một cách kịp thời.
Để ngăn chặn sai lệch và tham nhũng trong chính sách giảm nghèo liên quan đến đầu tư, tỉnh đã kiện toàn tổ chức và quán triệt nội dung kiểm tra, giám sát Điều này đặc biệt chú trọng vào các cơ quan, tổ chức thực hiện công tác dân tộc trên địa bàn tỉnh, nhờ đó tiêu cực đã không xảy ra.
Hàng năm, tỉnh Cà Mau tiến hành đánh giá và tổng kết công tác thực hiện pháp luật về giảm nghèo cho đồng bào dân tộc Khmer, nhằm rút ra kinh nghiệm và cải thiện hiệu quả công tác này Điều này không chỉ góp phần phát triển kinh tế - xã hội mà còn hướng tới mục tiêu xóa đói giảm nghèo bền vững cho vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số.
Việc thực hiện pháp luật về giảm nghèo và các chương trình, chính sách cho đồng bào dân tộc thiểu số đã cải thiện cơ sở hạ tầng vùng nông thôn, giúp việc đi lại thuận tiện hơn và thúc đẩy tiêu thụ hàng hóa nông sản Điều này đã tạo dựng lòng tin vững chắc của người dân, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số, vào chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, đồng thời củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Các công trình Trung tâm cụm xã đã trở thành trung tâm giao lưu hàng hóa cho đồng bào dân tộc thiểu số, góp phần sắp xếp lại dân cư và liên kết vùng nguyên liệu với các cơ sở chế biến Điều này thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển kinh tế thị trường và ổn định đời sống nhân dân Ngoài ra, việc kích thích sản xuất nông nghiệp đã làm tăng diện tích, năng suất và sản lượng cây trồng, đồng thời chuyển giao công nghệ sản xuất tiên tiến cho đồng bào DTTS, giúp giảm tỷ lệ đói nghèo và tạo việc làm cho lao động địa phương.
Việc thực hiện pháp luật về giảm nghèo và các chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội cho vùng dân tộc thiểu số sẽ giúp thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng Điều này không chỉ tạo điều kiện cho vùng dân tộc thiểu số tiến tới hoàn thành các tiêu chí xây dựng nông thôn mới mà còn nâng cao chất lượng sống của người dân và giảm sự chênh lệch giữa các dân tộc Đồng thời, niềm tin của đồng bào dân tộc thiểu số vào sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước sẽ được củng cố Đời sống văn hóa - tinh thần của cộng đồng ngày càng được nâng cao, với phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” phát triển mạnh mẽ, cùng với việc duy trì và phát huy các lễ hội truyền thống, góp phần bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc và các phong tục tập quán tốt đẹp.
Sự nghiệp giáo dục và đào tạo được chú trọng, đặc biệt trong công tác tuyển sinh vào Trường Phổ thông Dân tộc nội trú Việc này không chỉ đảm bảo quyền lợi học tập cho con em người dân tộc thiểu số mà còn hướng tới mục tiêu phát triển nguồn cán bộ cho địa phương.
Mạng lưới y tế đã được mở rộng với đầu tư hợp lý vào cơ sở hạ tầng, thiết bị, nhân lực và ngân sách cho công tác y tế dự phòng, giúp nâng cao hiệu quả hoạt động Cơ sở khám chữa bệnh cho đồng bào dân tộc thiểu số được cải thiện về quy mô và chất lượng, đảm bảo họ được tiếp cận các dịch vụ y tế và chương trình chăm sóc sức khỏe tốt nhất Chính sách dân số được thực hiện hiệu quả, góp phần vào việc giảm sinh hợp lý Đồng thời, sự phát triển kinh tế - xã hội đã nâng cao thu nhập bình quân hộ gia đình qua từng năm.
Công tác thông tin - truyền thông được tăng cường thông qua chương trình mục tiêu quốc gia, nhằm nâng cao năng lực mạng lưới thông tin cơ sở và đầu tư xây dựng các trạm phát sóng truyền thanh, truyền hình, cùng với nhà văn hóa cộng đồng Các hoạt động này không chỉ tuyên truyền các chủ trương, chính sách, văn hóa, khoa học, kỹ thuật mà còn thúc đẩy nếp sống văn minh hiện đại, tạo nhận thức sâu rộng về văn hóa - xã hội cho đồng bào Điều này góp phần giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống của từng vùng, dân tộc Tỷ lệ hộ và ấp đạt chuẩn văn hóa, cũng như số hộ được nghe Đài tiếng nói Việt Nam và xem truyền hình hàng năm đều tăng, giúp rút ngắn khoảng cách về hưởng thụ thông tin giữa các vùng trong tỉnh, đồng thời củng cố các hoạt động văn hóa mang đậm bản sắc vùng và dân tộc.
Công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số là nhiệm vụ quan trọng, sử dụng nhiều hình thức phong phú trên các phương tiện thông tin đại chúng Qua đó, ý thức tôn trọng và tuân thủ pháp luật của đồng bào dân tộc thiểu số được nâng cao, hình thành thói quen tìm hiểu pháp luật trong giải quyết tranh chấp Đồng thời, công tác này cũng phát huy tinh thần tự lực, tự cường, khát vọng vươn lên làm giàu, góp phần xóa đói, giảm nghèo.
Chính sách pháp luật dành cho người có uy tín trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số nhằm phát huy vai trò của họ trong tuyên truyền và vận động cộng đồng, góp phần thực hiện các chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước Những người này đóng vai trò quan trọng trong việc phòng, chống tội phạm, giữ gìn an ninh trật tự, cũng như giải quyết mâu thuẫn và tranh chấp trong nội bộ nhân dân Họ còn tham gia đóng góp ý kiến cho kế hoạch phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội địa phương và nắm bắt tình hình dư luận, đời sống, sản xuất, tâm tư, nguyện vọng của đồng bào để phản ánh kịp thời đến cấp ủy, chính quyền và cơ quan công tác dân tộc.
Trong những năm gần đây, việc thực hiện pháp luật về giảm nghèo đối với đồng bào dân tộc Khmer đã góp phần cải thiện rõ rệt tình hình kinh tế - xã hội tại các vùng đồng bào dân tộc thiểu số Công tác giáo dục, đào tạo, văn hóa, y tế và môi trường được chú trọng, nâng cao chất lượng giáo dục tại các trường dân tộc bán trú và nội trú, với tỷ lệ học sinh đến trường và tốt nghiệp tăng lên Tỷ lệ học sinh thi đỗ vào các trường đại học, cao đẳng cũng có xu hướng tăng hàng năm Cơ sở vật chất trường học và trạm y tế được nâng cấp đạt tiêu chuẩn quốc gia, trong khi chất lượng khám chữa bệnh tuyến cơ sở được cải thiện Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 2-3% mỗi năm, và hệ thống chính trị cơ sở ngày càng hoàn thiện An ninh chính trị và trật tự xã hội được giữ vững, không xảy ra điểm nóng hay khiếu kiện đông người, đồng thời xây dựng tình đoàn kết giữa các dân tộc ngày càng gắn bó.
2.4.2 Hạn chế và nguyên nhân
Trong giai đoạn 2011 - 2015, quá trình triển khai và thực hiện pháp luật về giảm nghèo cho đồng bào dân tộc Khmer tại Cà Mau đã gặp một số hạn chế được UBND tỉnh chỉ ra.