TỔNG QUAN VỀ DÒNG VỐN ĐẦU TƯ GIÁN TIẾP NƯỚC NGOÀI
NHỮNG KHÁI NIỆM CƠ BẢN VỀ TTCK
Thị trường chứng khoán (TTCK) là một phần của thị trường vốn, nơi diễn ra các giao dịch mua bán giấy nợ trung và dài hạn, bao gồm chứng khoán có thời hạn trên 1 năm cùng với các loại cổ phiếu.
TTCK là thị trường tạo lập và cung ứng vốn trung, dài hạn cho nền kinh tế
Các công cụ ở TTCK bao gồm: cổ phiếu, trái phiếu chính phủ, trái phiếu công ty, trái phiếu chính quyền địa phương, các hợp đồng vay thế chấp
Các công cụ trên thị trường vốn, như trái phiếu và cổ phiếu, thường có thời hạn dài và giá cả dao động mạnh hơn so với các công cụ thị trường tiền tệ Điều này khiến chúng trở thành những chứng khoán có độ rủi ro cao hơn Do đó, cơ chế phát hành và lưu thông các công cụ này được quản lý chặt chẽ để hạn chế biến động và bảo vệ nền kinh tế xã hội.
Căn cứ vào tính chất phát hành hay lưu hành chứng khoán, TTCK được chia làm 2 cấp:
Thị trường sơ cấp, hay còn gọi là thị trường phát hành, là nơi diễn ra hoạt động chào bán công chúng lần đầu tiên các loại chứng khoán của Chính phủ hoặc doanh nghiệp Việc phát hành chứng khoán ra công chúng yêu cầu sự chấp thuận từ Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN), ngoại trừ trái phiếu Chính phủ Thông thường, quá trình này được hỗ trợ bởi các tổ chức tài chính trung gian như công ty chứng khoán và ngân hàng đầu tư.
Thị trường thứ cấp, hay còn gọi là thị trường lưu hành chứng khoán, là nơi diễn ra hoạt động chuyển nhượng quyền sở hữu chứng khoán giữa các nhà đầu tư Tại đây, nhà đầu tư có khả năng mua và bán chứng khoán nhiều lần, tạo ra một khối lượng giao dịch khổng lồ hàng ngày, lên đến hàng ngàn tỷ đô la trên các thị trường chứng khoán toàn cầu.
Thị trường sơ cấp đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành thị trường thứ cấp, vì đây là nơi sản xuất và cung cấp hàng hóa cho các giao dịch sau đó Sự liên kết giữa hai thị trường này giúp duy trì tính thanh khoản và ổn định cho nền kinh tế.
Thị trường thứ cấp đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển của thị trường sơ cấp nhờ vào khả năng giao dịch mua bán linh hoạt, tạo ra tính thanh khoản cho chứng khoán Tính thanh khoản, tức là khả năng chuyển đổi chứng khoán thành tiền mặt một cách dễ dàng, thu hút các nhà đầu tư tìm kiếm cơ hội để bán chứng khoán nhằm kiếm lời Chính nhờ vào tính chất này mà thị trường chứng khoán trở nên hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư.
Căn cứ vào tính chất pháp lý của hình thức tổ chức thị trường chia ra: TTCK tập trung ( SGDCK ) và TTCK không tập trung ( thị trường OTC )
Thị trường chứng khoán tập trung, hay còn gọi là sàn giao dịch chứng khoán (SGDCK), là nơi diễn ra các giao dịch chứng khoán chính thức Tại đây, các nhà môi giới gặp gỡ để đấu giá và thương lượng mua bán chứng khoán cho khách hàng hoặc cho chính họ, tuân thủ các quy định và nguyên tắc giao dịch của SGDCK, dựa trên Luật chứng khoán.
Thị trường chứng khoán không tập trung (OTC) là hình thức giao dịch chứng khoán không thông qua sàn giao dịch chứng khoán, mà được thực hiện bởi các công ty chứng khoán thành viên phân bố rộng rãi trên toàn quốc Giao dịch trong thị trường này chủ yếu diễn ra qua mạng điện thoại và máy tính.
Căn cứ vào phương thức giao dịch của thị trường, chia ra 2 loại thị trường:
Thị trường giao ngay (Spot market) là nơi diễn ra các giao dịch chứng khoán, trong đó lệnh của khách hàng được thực hiện ngay lập tức dựa trên giá hiện tại và sẽ được thanh toán trong một khoảng thời gian ngắn sau đó.
Thị trường kỳ hạn, hay còn gọi là thị trường tương lai, là nơi giao dịch các hợp đồng tương lai và các công cụ tài chính phái sinh từ chứng khoán Các hợp đồng này được thiết lập dựa trên giá hiện tại, nhưng việc thanh toán sẽ diễn ra vào một thời điểm trong tương lai.
Thị trường chứng khoán (TTCK) đóng vai trò quan trọng trong việc thu hút và tập trung nguồn vốn nhàn rỗi từ người dân, tạo ra nguồn tài chính lớn cho các dự án đầu tư dài hạn và mở rộng sản xuất kinh doanh Đây là công cụ huy động vốn hiệu quả không chỉ trong nước mà còn quốc tế Đặc biệt, tại Việt Nam, việc phát triển TTCK song hành với sự ra đời của các công ty cổ phần là chiến lược cần thiết để khai thác nguồn vốn tiềm năng chưa được đưa vào sản xuất, góp phần vào sự phát triển kinh tế bền vững.
Thị trường chứng khoán (TTCK) không chỉ tạo ra cơ hội đầu tư mà còn khuyến khích mọi người tiết kiệm và sử dụng tiền một cách hiệu quả Khả năng sinh lợi từ các loại chứng khoán thúc đẩy ý thức tiết kiệm trong cộng đồng Mặc dù mỗi cá nhân chỉ có một khoản tiết kiệm nhỏ, nhưng tổng số tiền tiết kiệm của xã hội lại rất lớn, vượt xa bất kỳ tài sản cá nhân nào Hơn nữa, các quỹ tiền tệ tập trung như ngân hàng đầu tư, ngân hàng thương mại, quỹ bảo hiểm và quỹ đầu tư đều nhằm mục đích khuyến khích tiết kiệm, nhưng hiệu quả của chúng sẽ được tối ưu hóa khi có một TTCK hoạt động song song.
Công cụ đảm bảo thanh khoản cho các khoản tiết kiệm phục vụ đầu tư dài hạn là rất quan trọng, với vai trò của thị trường chứng khoán (TTCK) trong việc nhanh chóng chuyển đổi chứng khoán thành tiền mặt Tính thanh khoản cao không chỉ thu hút nhà đầu tư mà còn phản ánh hiệu quả hoạt động của TTCK.
Công cụ đo lường giá trị các tích sản của doanh nghiệp cung cấp thông tin quan trọng cho nhà đầu tư thông qua các bảng phân tích đánh giá năng lực sản xuất, triển vọng và khả năng sinh lợi của doanh nghiệp Những thông tin này giúp lượng giá tích sản một cách khách quan và khoa học trong khoảng thời gian từ 3 đến 5 năm tới Bên cạnh đó, sự nhạy bén của thị trường chứng khoán phản ánh sự biến động giá trị doanh nghiệp tại bất kỳ thời điểm nào thông qua sự lên xuống của giá cổ phiếu.
Thị trường chứng khoán (TTCK) thúc đẩy doanh nghiệp sử dụng vốn hiệu quả cho sản xuất kinh doanh thông qua nguyên tắc công khai, công bằng và trung thực Mọi thông tin về doanh nghiệp đều được công chúng kiểm tra và đánh giá, tạo điều kiện cho doanh nghiệp hoạt động đúng pháp luật và đạt hiệu quả cao trong sản xuất kinh doanh.
• Vai trò chống lạm phát của TTCK : TTCK còn làm giảm áp lực lạm phát
ĐẶC ĐIỂM VÀ CÁC HÌNH THỨC ĐẦU TƯ GIÁN TIẾP NƯỚC NGOÀI
1.2.1 Khái ni ệ m “ đầ u t ư gián ti ế p n ướ c ngoài”
Lý thuyết và thực tiễn đầu tư phân biệt hai hình thức chính: đầu tư trực tiếp và gián tiếp Đầu tư trực tiếp nước ngoài đề cập đến các hoạt động đầu tư vật chất của nhà đầu tư từ một nền kinh tế vào việc thành lập doanh nghiệp tại nền kinh tế khác, với mục tiêu kinh doanh lâu dài.
Khái niệm đầu tư gián tiếp xuất hiện khi thị trường chứng khoán phát triển, với việc mua bán cổ phiếu và trái phiếu trở nên phổ biến Nhiều nhà đầu tư đã chuyển từ phương thức đầu tư trực tiếp sang đầu tư thông qua các tổ chức tài chính hoặc mua cổ phiếu, trái phiếu của doanh nghiệp và tổ chức tự trị Thuật ngữ "Portfolio Investment" được sử dụng để phản ánh các hoạt động đầu tư này.
Như vậy, Portfolio Investment là thuật ngữ phản ánh các hoạt động đầu tư không phải là đầu tư trực tiếp truyền thống
Khi thị trường chứng khoán (TTCK) phát triển toàn cầu, hoạt động mua bán chứng khoán mở rộng cho các nhà đầu tư quốc tế và được liên thông giữa các TTCK khác nhau Điều này khiến ranh giới giữa đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và đầu tư gián tiếp nước ngoài (FPI) trở nên mờ nhạt, dẫn đến sự thay đổi đáng kể trong cách hiểu về FDI và FPI.
Khái niệm FDI (Đầu tư trực tiếp nước ngoài) bao gồm cả hoạt động đầu tư gián tiếp thông qua việc mua cổ phiếu của doanh nghiệp nước ngoài, với điều kiện nhà đầu tư sở hữu từ 10% trở lên để tham gia quản lý doanh nghiệp Tại Việt Nam, giới hạn này là 30% Sự phát triển của sở hữu nhiều tầng và sở hữu chéo đã tạo ra sự phức tạp trong việc phân biệt đầu tư trực tiếp và gián tiếp Hiện có ba phương pháp chính để xác định đầu tư trực tiếp: phương pháp của Mỹ (USM), phương pháp của EU (EUM) và phương pháp của OECD (FCS) Ngoài ra, FPI (Đầu tư danh mục nước ngoài) chỉ các hoạt động đầu tư qua mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng chỉ có giá khác thông qua quỹ đầu tư trung gian.
Trong hệ thống thuật ngữ kinh tế quốc tế, "Indirect Investment" và "Portfolio Investment" thường được coi là đồng nghĩa, tuy nhiên, một số chuyên gia phân biệt chúng Theo Marie Montanjees (2004), Indirect Investment liên quan đến đầu tư trực tiếp, chỉ bao gồm việc mua cổ phiếu doanh nghiệp mà không tính đến trái phiếu hay chứng chỉ khác, trong khi Portfolio Investment có nghĩa rộng hơn, cho phép nhà đầu tư sở hữu và quản lý doanh nghiệp trực tiếp hoặc gián tiếp.
Trong hệ thống thuật ngữ kinh tế và chính sách của Việt Nam, chỉ có hai khái niệm chính là đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp, mà chưa có thuật ngữ thứ ba Do đó, thuật ngữ đầu tư gián tiếp ở Việt Nam có thể được xem là tương đương với hai khái niệm Portfolio Investment và Indirect Investment.
Luật Đầu tư 2006 đã định nghĩa đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp tại điều 3, đồng thời giải thích nội dung của hai hình thức đầu tư này ở các điều 21 và 26 Tuy nhiên, các định nghĩa và giải thích trong Luật Đầu tư 2006 vẫn chưa cung cấp sự phân định rõ ràng giữa đầu tư gián tiếp và đầu tư trực tiếp.
Vì vậy đầu tư gián tiếp nước ngoài có thể tạm hiểu theo nghĩa khá rộng thông qua 3 hình thức:
Mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác là hoạt động đầu tư quan trọng, bao gồm cả việc mua từ các doanh nghiệp, tổ chức tự trị được phép phát hành và Chính phủ.
- Đầu tư “thông qua Quỹ đầu tư chứng khoán”
- “Thông qua các định chế tài chính trung gian khác”
Với nghĩa rộng như vậy, đầu tư gián tiếp nước ngoài được hiểu tương đương với thuật ngữ Foreign Portfolio Investment ( FPI )
1.2.2 Các kênh, hình th ứ c FPI
Trên thị trường quốc tế, FPI được chia thành hai kênh chính là FPI trực tiếp và FPI gián tiếp, mỗi kênh đều có những hình thức đầu tư cụ thể riêng.
1.2.2.1 FPI theo phương thức trực tiếp : kênh FPI này có hai hình thức:
- Mua các chứng chỉ đầu tư nước ngoài tại thị trường nước ngoài
- Mua các chứng chỉ đầu tư nước ngoài tại thị trường tài chính trong nước
1.2.2.2 FPI theo phương thức gián tiếp : kênh này có 3 hình thức sau:
Investing in European bonds with equity conversion options, known as equity-linked eurobonds, offers unique opportunities in the financial market There are two primary types of European bonds available: eurobonds with warrants, which grant the right to purchase shares, and convertible eurobonds, which can be exchanged for a predetermined number of shares.
- Mua cổ phiếu của các công ty liên quốc gia ( MNC ), các MNC luôn có đầu tư ( trực tiếp và gián tiếp ) vào các quốc gia khác
- Đầu tư thông qua các quỹ tương hỗ quốc tế ( International Mutual Funds ) Mỗi một kênh, hình thức đầu tư nêu trên có đặc điểm riêng nhất định
Xét về hình thức chứng từ có giá trong đầu tư gián tiếp, ta có các hình thức FPI sau:
- Mua cổ phiếu công ty và các tổ chức được phép phát hành
- Mua trái phiếu công ty
- Mua trái phiếu chính phủ
- Mua các chứng chỉ có giá khác do Chính phủ hoặc các tổ chức tài chính phát hành
- Đầu tư thông qua các định chế tài chính trung gian như quỹ đầu tư, quỹ bảo hiểm,…
1.2.3 Quy mô và tác độ ng c ủ a đầ u t ư gián ti ế p n ướ c ngoài
Số liệu về FPI thường khó xác định chính xác do phương pháp thống kê và tính toán chưa đồng nhất Bên cạnh đó, nhiều hoạt động FPI diễn ra trên các thị trường và hình thức khác nhau, dẫn đến khả năng tính trùng lặp hoặc bỏ sót thông tin.
Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (IMF) đã thu thập dữ liệu thống kê qua chương trình khảo sát FPI toàn cầu trong nhiều năm Theo số liệu của IMF, quy mô FPI đã tăng mạnh mẽ trong gần 20 năm qua, từ 5.885 tỷ USD vào năm 1997 lên 12.711 tỷ USD vào năm 2001, và đạt 23.263 tỷ USD vào năm 2004.
BẢNG 1.1 : Động thái FPI của thế giới Đơn vị tính: tỷ USD
Trong đó: hình thức cổ phiếu 2.600 5.200 4.803 6.954 8.706
Nguồn: IMF ( 2004 ), Global Portfolio Investment Survey
Quy mô FPI toàn cầu đã tăng gấp đôi trong 4 năm qua và xu hướng này vẫn đang tiếp tục gia tăng mạnh mẽ Đặc biệt, đầu tư theo hình thức cổ phần luôn chiếm từ 30-35% tổng giá trị FPI.
Theo số liệu của IMF, các quốc gia có quy mô đầu tư FPI ra nước ngoài lớn nhất cũng là những nước thu hút FPI vào trong nước mạnh mẽ Đặc biệt, 65% tổng FPI toàn cầu tập trung vào 8 quốc gia hàng đầu, bao gồm Mỹ, Anh, Nhật Bản, Luxembourg, Đức, Pháp, Italia và Hà Lan.
Theo số liệu từ IMF trong chương trình khảo sát đầu tư gián tiếp (CPIS), cơ cấu vốn FPI toàn cầu được phân bổ với hơn 1/3 dành cho cổ phiếu, hơn 1/2 cho trái phiếu dài hạn và chỉ một tỷ lệ nhỏ cho trái phiếu ngắn hạn.
KINH NGHIỆM THU HÚT VÀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG CỦA NĐTNN TRÊN TTCK Ở MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI
TRÊN TTCK Ở MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI
Vốn đầu tư gián tiếp có thể mang lại lợi ích cho nền kinh tế, nhưng nếu không được quản lý chặt chẽ, nó cũng có thể dẫn đến khủng hoảng tài chính, như bài học từ Thái Lan năm 1997 Việt Nam, với nền tảng kinh tế còn non yếu, dễ bị ảnh hưởng bởi những biến động nhỏ, có thể dẫn đến tình trạng rút vốn ồ ạt Do đó, việc thu hút vốn đầu tư gián tiếp là cần thiết cho sự phát triển kinh tế, nhưng cần phải có sự kiểm soát hợp lý để tránh những rủi ro Những bài học kinh nghiệm từ các quốc gia khác là điều chúng ta cần suy ngẫm để xây dựng một chiến lược đầu tư hiệu quả.
1.3.1 Bài h ọ c kinh nghi ệ m v ề thu hút và qu ả n lý ho ạ t độ ng c ủ a N Đ TNN trên TTCK Trung Qu ố c
1.3.1.1 Quan điểm và nguyên tắc quản lý của Trung Quốc
Với nguồn dự trữ ngoại hối dồi dào và tiềm lực tài chính nội địa vững mạnh, Trung Quốc đã thể hiện quan điểm rõ ràng đối với các nhà đầu tư tài chính quốc tế.
Trung Quốc đã áp dụng quy định hạn chế dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài bằng cách phân biệt giữa đầu tư gián tiếp và đầu tư trực tiếp, trong đó đầu tư gián tiếp được xác định là việc nắm giữ dưới 10% cổ phần tại một tổ chức phát hành Những tổ chức nắm giữ trên 10% sẽ được coi là thực hiện đầu tư trực tiếp Chính sách này chỉ cho phép các tổ chức đầu tư chuyên nghiệp lớn, có kinh nghiệm và uy tín trên thế giới tham gia đầu tư một cách hạn chế, nhằm định hướng sự phát triển bền vững của thị trường chứng khoán.
Với quan điểm này, Trung Quốc đã có những quy định cụ thể như sau:
- Đối với nhà đầu tư cá nhân nước ngoài: Không cho phép các nhà đầu tư cá nhân tham gia TTCK Trung Quốc
Nhà đầu tư tổ chức nước ngoài sẽ được cấp phép đầu tư theo hạn ngạch, nhưng chỉ dành cho một số tổ chức đầu tư lớn trên thế giới Để đủ điều kiện nhận cấp phép, các tổ chức này phải đáp ứng các tiêu chí tối thiểu và được gọi là nhà đầu tư tổ chức đủ tiêu chuẩn (QFII).
Hạn chế đối với hoạt động đầu tư của các tổ chức đầu tư QFII
Các tổ chức đầu tư QFII được phép đầu tư vào cổ phiếu B, trái phiếu chuyển đổi, trái phiếu doanh nghiệp và các loại chứng khoán khác được Ủy ban Chứng khoán Nhà nước chấp thuận.
Một tổ chức đầu tư QFII không được phép nắm giữ hơn 10% tổng số cổ phần hoặc cổ phiếu có quyền biểu quyết đang lưu hành của một tổ chức phát hành.
Tỷ lệ nắm giữ của các tổ chức đầu tư nước ngoài theo hình thức QFII tại một tổ chức phát hành không được phép vượt quá 20% tổng vốn cổ phần hoặc số cổ phiếu đang lưu hành có quyền biểu quyết.
Tổ chức đầu tư QFII, ngoại trừ các quỹ đầu tư dạng đóng, có thể rút vốn sau 1 năm hoạt động, với quy mô rút vốn không vượt quá 20% cho mỗi đợt Khoảng cách giữa các đợt rút vốn tối thiểu là 1 tháng, trong khi các quỹ đầu tư dạng đóng chỉ được phép rút vốn sau 3 năm hoạt động tại Trung Quốc.
Tổ chức đầu tư QFII đã có khả năng chuyển nhượng hạn ngạch đầu tư cho một tổ chức QFII khác hoặc một tổ chức đầu tư nước ngoài đủ điều kiện sau hơn 3 tháng thực hiện đầu tư.
Chính sách ngoại hối đối với các tổ chức QFII
Trung Quốc khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) mà không áp đặt hạn chế, trong khi đối với đầu tư gián tiếp nước ngoài (FPI), chính phủ quản lý chặt chẽ do tính thanh khoản cao của dòng vốn này Chính sách của Trung Quốc là mở cửa thị trường cho nhà đầu tư nước ngoài một cách thận trọng và từng bước.
Cục Quản lý ngoại hối quản lý hoạt động ngoại hối cho dòng vốn đầu tư trực tiếp (FDI) và gián tiếp (FPI) Các nhà đầu tư trực tiếp cần xin giấy phép đầu tư từ Bộ Thương mại, trong khi nhà đầu tư gián tiếp phải xin giấy phép từ Ủy ban Chứng khoán Sau khi được cấp phép, nhà đầu tư phải xin Cục Quản lý ngoại hối phê duyệt hoặc cấp hạn ngạch đầu tư để chuyển đổi vốn đầu tư từ ngoại tệ sang đồng Nhân dân tệ.
Trung Quốc đã thực hiện các biện pháp điều tiết nhằm hạn chế dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài, với mục tiêu ngăn ngừa khủng hoảng tài chính Những nỗ lực này đã mang lại thành công nhất định cho nền kinh tế nước này.
Trung Quốc đã áp dụng chiến lược quản lý chặt chẽ dòng vốn đầu tư gián tiếp để phát triển thị trường, nhận thức rằng loại vốn này tiềm ẩn nhiều rủi ro do tính linh hoạt của nó Sự ảnh hưởng của nguồn vốn từ nhà đầu tư nước ngoài có thể tác động đến cơ hội đầu tư của các nhà đầu tư trong nước.
Trung Quốc áp dụng chính sách quản lý nghiêm ngặt đối với dòng vốn đầu tư gián tiếp, mặc dù có tiêu chí cao để lựa chọn các nhà đầu tư tổ chức uy tín với mục tiêu đầu tư dài hạn Chính phủ kiểm soát quy mô đầu tư của các tổ chức này thông qua cơ chế xét duyệt hạn ngạch đầu tư Với tỷ lệ đầu tư dưới 1% vốn hóa thị trường, các nhà đầu tư nước ngoài không thể gây ra khủng hoảng cho thị trường Trung Quốc.
Trung Quốc đã triển khai chính sách khai thác lợi thế từ kinh nghiệm và kỹ thuật của nhà đầu tư nước ngoài để thúc đẩy sự phát triển của thị trường chứng khoán, thay vì chỉ mở cửa thị trường với mục tiêu thu hút vốn.
- Hoạt động quản lý dòng vốn đầu tư gián tiếp của Trung Quốc là hợp lý và phù hợp với chủ trương của Trung Quốc
THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH THU HÚT VÀ QUẢN LÝ VỐN ĐẦU TƯ GIÁN TIẾP NƯỚC NGOÀI TRÊN TTCK VN THỜI GIAN QUA
THỰC TRẠNG VIỆC THU HÚT VÀ QUẢN LÝ VỐN ĐẦU TƯ GIÁN TIẾP NƯỚC NGOÀI (FPI) TRÊN TTCK VN THỜI GIAN QUA
NƯỚC NGOÀI ( FPI ) TRÊN TTCK VIỆT NAM THỜI GIAN QUA
2.2.1 Tình hình thu hút v ố n đầ u t ư gián ti ế p n ướ c ngoài trên TTCK Vi ệ t Nam
2.2.1.1 Sự quan tâm của các NĐTNN đến TTCK Việt Nam Đối tượng tham gia mua chứng khoán hiện là các nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư tổ chức như các quỹ đầu tư, công ty bảo hiểm, ngân hàng, công ty chứng khoán và các định chế tài chính khác Các nhà đầu tư cá nhân vẫn là nhân tố chính tham gia vào thị trường, chiếm hơn 99% tổng số tài khoản giao dịch chứng khoán với khối lượng giao dịch đạt hơn 70% tổng khối lượng giao dịch trên thị trường Theo thống kê của
Tính đến cuối tháng 6/2007, thị trường chứng khoán Việt Nam ghi nhận 243.809 tài khoản, tăng 2,5 lần so với 95.220 tài khoản vào tháng 12/2006 Trong số này, có 242.624 tài khoản thuộc về nhà đầu tư cá nhân và 1.185 tài khoản của nhà đầu tư tổ chức.
Thị trường chứng khoán Việt Nam ngày càng thu hút không chỉ các nhà đầu tư trong nước mà còn cả nhà đầu tư nước ngoài, thể hiện qua sự gia tăng nhanh chóng tỷ lệ nắm giữ cổ phiếu của họ qua các năm.
Nguồn : Cty CP CK Sài Gòn (SSI)
Trước năm 2005, vai trò của nhà đầu tư nước ngoài (NĐTNN) trên thị trường chứng khoán Việt Nam không nổi bật do sự tăng trưởng hạn chế của thị trường và giai đoạn đi ngang kéo dài của chỉ số chứng khoán Điều này khiến cả nhà đầu tư trong nước và NĐTNN không đánh giá cao tiềm năng phục hồi của giá cổ phiếu Tuy nhiên, từ tháng 10/2005, khi NĐTNN được phép nắm giữ tối đa 49% cổ phiếu niêm yết, tỷ lệ nắm giữ này đã tăng đáng kể, mở ra cơ hội mới cho sự phát triển của thị trường.
Hiện tại, thị trường chứng khoán Việt Nam có khoảng 5.568 tài khoản giao dịch của nhà đầu tư nước ngoài, bao gồm 5.353 tài khoản cá nhân và 215 tài khoản tổ chức Khoảng 260 quỹ đầu tư nước ngoài cũng đang tham gia đầu tư, với tổng giá trị danh mục đầu tư ước tính lên đến 5 tỷ USD Đặc biệt, hơn 70% số tài khoản cá nhân của nhà đầu tư nước ngoài thuộc về các nhà đầu tư Nhật Bản.
Trong thời gian qua, do giới hạn tỷ lệ sở hữu cổ phiếu trên thị trường OTC thấp hơn so với thị trường chính thức (30% so với 49%) và những rủi ro liên quan, đa số nhà đầu tư nước ngoài đã tập trung vào thị trường niêm yết Cụ thể, giá trị đầu tư vào cổ phiếu của các công ty niêm yết chiếm 68% tổng giá trị đầu tư, trong khi đầu tư vào trái phiếu niêm yết chiếm 25% Ngược lại, đầu tư vào trái phiếu không niêm yết chỉ chiếm 6%, và cổ phiếu không niêm yết chỉ vỏn vẹn 1%.
BIỂU ĐỒ 2.2 : CƠ CẤU ĐẦU TƯ VÀO CỔ PHIẾU VÀ TRÁI PHIẾU CỦA NĐTNN
Trong số 109 loại cổ phiếu và chứng chỉ quỹ đang niêm yết tại HOSE hiện đã có
Tính đến ngày 30/06/2007, có 6 loại cổ phiếu AGF, GIL, GMD, REE, STB và TYA đã hết room cho nhà đầu tư nước ngoài, với tỷ lệ sở hữu tối đa là 30% đối với ngành ngân hàng và 49% cho các ngành khác Đáng lưu ý, các cổ phiếu này không nằm trong TOP 5 cổ phiếu có giá cao nhất trên sàn TPHCM, mà năm cổ phiếu cao giá nhất là BMC, FPT, TCT, SJS và DHG lại không phải là những cổ phiếu được ưa chuộng Cụ thể, BMC chỉ có hơn 325.000 cổ phiếu do nhà đầu tư nước ngoài sở hữu, chiếm 8,29%, trong khi các cổ phiếu khác như DHG, FPT, SJS và TCT vẫn còn nhiều room cho nhà đầu tư nước ngoài với số lượng cổ phiếu còn lại lần lượt là hơn 1,1 triệu, trên 27,5 triệu, 6,5 triệu và 766.000 cổ phiếu.
Trong bối cảnh thị trường chứng khoán hiện nay, các nhà đầu tư nước ngoài (NĐTNN) tỏ ra thận trọng trước những cổ phiếu tăng nóng và phi mã Bên cạnh BMC và TCT, cổ phiếu LBM cũng ghi nhận mức tăng vượt 780 ngàn.
803 ngàn cổ phiếu, SGH dù đồn đoán NĐTNN thu gom nhưng room vẫn còn khá nhiều ( trên 286 ngàn cổ phiếu ) riêng HAX còn đến trên 548 ngàn / 796 ngàn cổ phiếu
Hai loại chứng chỉ quỹ BF1 và VF1 sắp hết room cho nhà đầu tư nước ngoài, chỉ còn dưới 5%, mặc dù BF1 là loại chứng khoán có giá thấp nhất sàn TPHCM và VF1 gặp nhiều “tai tiếng” gần đây Điều này cho thấy nhà đầu tư nước ngoài chưa bao giờ mạnh tay đầu tư vào các cổ phiếu có dấu hiệu bị đẩy giá, mặc dù lợi nhuận trước mắt có vẻ hấp dẫn Họ thường ưa chuộng những cổ phiếu có giá ổn định, không quá cao cũng không quá thấp, vì nhận thấy triển vọng tăng trưởng và tính thanh khoản tốt.
Trong số 6 loại cổ phiếu đã hết room cho nhà đầu tư nước ngoài, chỉ có TYA không thuộc nhóm doanh nghiệp hiệu quả, trong khi 5 cổ phiếu còn lại đều là những doanh nghiệp hoạt động tốt trong nhiều năm và đã được nhà đầu tư nước ngoài biết đến nhờ thông tin tài chính minh bạch TYA, mặc dù chưa phải là một "blue chip" thực thụ, nhưng lại thu hút sự quan tâm lớn từ cổ đông nước ngoài do nhu cầu nắm quyền kiểm soát, dẫn đến việc mua vào mạnh mẽ.
Nhà đầu tư nước ngoài (NĐTNN) thể hiện sự chủ động trong việc lựa chọn cổ phiếu, thường giữ tư thế độc lập và không bị ảnh hưởng bởi tâm lý đám đông của các nhà đầu tư trong nước Trong đợt điều chỉnh đầu tiên của VN-Index xuống dưới 1.000 điểm, việc mua vào của NĐTNN không có sự đột biến, trong khi họ vẫn chiếm khoảng 20% giá trị giao dịch toàn thị trường ngay cả khi thị trường sụt giảm mạnh Nhiều ý kiến cho rằng, các đợt "làm giá" gần đây có sự thao túng từ phía NĐTNN Với tỷ trọng nắm giữ từ 20-25% cổ phiếu niêm yết, nếu NĐTNN đồng loạt rút vốn, số vốn bị rút có thể lên đến 3,5 – 4,2 tỷ USD, gây rủi ro cho nhu cầu nhập khẩu và trả nợ nước ngoài của Việt Nam.
2.2.1.2 Sự tham gia của các tổ chức nước ngoài vào TTCK Việt Nam
Khi thị trường chứng khoán Việt Nam chưa ra đời vào năm 1991, đã có 8 quỹ đầu tư mạo hiểm nước ngoài với tổng vốn 417,6 triệu USD tìm kiếm cơ hội đầu tư tại Việt Nam Tuy nhiên, hầu hết các quỹ này đã rút lui do không tìm thấy cơ hội tiềm năng, chỉ trừ Dragon Capital vẫn tiếp tục hoạt động.
Từ năm 1999, đầu tư của các quỹ nước ngoài vào Việt Nam ngày càng gia tăng, với tổng giá trị giao dịch trên SGDCK TPHCM đạt hơn 2.700 tỷ đồng tính đến cuối năm 2003, trong đó 27% là từ các nhà đầu tư nước ngoài Sự gia tăng này thể hiện rõ qua việc số lượng nhà đầu tư nước ngoài mở tài khoản giao dịch tăng 36% so với năm 2002, chủ yếu tại công ty cổ phần chứng khoán Sài Gòn (SSI) Năm 2003, ngoài Dragon Capital, hai quỹ nước ngoài mới là Vina Capital và Mekong Capital cũng tham gia vào thị trường chứng khoán Việt Nam VOF đã ghi nhận mức tăng trưởng tài sản ròng 24,5% trong năm 2004, đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ của thị trường Năm 2006 được xem là thời kỳ hoàng kim của TTCK Việt Nam, khi các quỹ đầu tư nước ngoài đua nhau đầu tư sau các báo cáo tích cực từ tổ chức tài chính Merrilynch Gần đây, quỹ đầu tư mạo hiểm GrandFord đã hợp tác với Lion Capital để huy động vốn cho các dự án bất động sản tại Việt Nam, trong khi VinaCapital niêm yết quỹ Vietnam Infrastructure Limited tại sàn chứng khoán London.
VNI là quỹ đầu tư đóng đầu tiên tại Việt Nam với vốn 402 triệu USD, chuyên sâu vào các dự án cơ sở hạ tầng trong các ngành kinh tế chiến lược như năng lượng, giao thông, viễn thông và nước VinaCapital đang tích cực nghiên cứu các dự án liên quan đến đường cao tốc, sân bay, và nhà máy điện, đồng thời tìm kiếm cơ hội đầu tư từ việc cổ phần hóa tài sản hạ tầng của Nhà nước Năm nay, Mekong Capital cũng chuẩn bị ra mắt quỹ Azalea Fund, đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ trong lĩnh vực đầu tư quỹ tại Việt Nam.
Quỹ Azalea Fund với mục tiêu đầu tư 100 triệu USD vào các công ty Nhà nước cổ phần hóa, phản ánh sự phát triển mạnh mẽ của Mekong Capital qua nguồn vốn đầu tư gia tăng Quỹ đầu tiên của Mekong chỉ có 18,5 triệu USD, nhưng quỹ thứ hai đã tăng lên 50 triệu USD và quỹ thứ ba đạt 100 triệu USD Nhiều quỹ khác cũng đang chờ UBCKNN cấp phép, trong đó có quỹ đầu tư Nhật Bản dự kiến với số vốn 200 triệu USD Các tổ chức tài chính từ Hồng Kông và Trung Quốc cũng đã gia nhập thị trường Việt Nam, tập trung vào tư vấn đầu tư cho các đợt IPO của các doanh nghiệp Nhà nước lớn sắp cổ phần hóa.
NHỮNG YẾU TỐ CẢN TRỞ TRONG VIỆC THU HÚT VÀ QUẢN LÝ NGUỒN VỐN FPI THỜI GIAN QUA
Chính phủ Việt Nam khuyến khích sự tham gia của các quỹ đầu tư và tổ chức đầu tư nước ngoài, coi đây là một phần không thể tách rời của nền kinh tế Các luồng vốn đầu tư nước ngoài đã đóng vai trò quan trọng trong phát triển và tăng trưởng kinh tế trong hơn 20 năm qua Tuy nhiên, việc thu hút vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài (FPI) vẫn còn khiêm tốn so với các nước trong khu vực và nhu cầu phát triển kinh tế Mặc dù FPI vào Việt Nam đã bắt đầu tăng trở lại sau khủng hoảng kinh tế khu vực, nhưng vẫn tồn tại nhiều hạn chế cần khắc phục.
Vốn đầu tư gián tiếp (FPI) vào Việt Nam chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ so với vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), với các thống kê cho thấy tỷ lệ này lần lượt là 1,2% năm 2002, 2,3% năm 2003 và 3,7% năm 2004 Tỷ lệ FPI này quá khiêm tốn so với nhu cầu vốn cho sự phát triển của nền kinh tế và so với các quốc gia trong khu vực, nơi mà tỷ lệ FPI thường dao động từ 30% đến 40% như Thái Lan, Malaysia và Trung Quốc.
Thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam, với giá trị vốn hóa chỉ trên 9 tỷ USD, vẫn còn khiêm tốn so với các thị trường trong khu vực như Trung Quốc (480 tỷ USD), Philippines (80 tỷ USD) và Thái Lan (100 tỷ USD).
- Thực tế cho thấy vốn FPI vào Việt Nam còn thấp, nguyên nhân từ cả hai phía Nhà nước và doanh nghiệp
Nhiều doanh nghiệp Việt Nam đang gặp khó khăn về vốn, nhưng lại có xu hướng từ chối hoặc không biết tận dụng nguồn vốn đầu tư nước ngoài Điều này phản ánh sự thiếu hiểu biết và chiến lược trong việc giải quyết nhu cầu tài chính của họ.
- Những công ty tư nhân hầu hết đều không sẵn lòng hoặc không thể đáp ứng yêu cầu về tính minh bạch
- Với nhiều doanh nghiệp Việt Nam, phương thức tìm vốn để phát triển công việc sản xuất kinh doanh xưa nay chủ yếu vẫn là từ ngân hàng
Nhiều doanh nghiệp mặc dù cần vốn nhưng vẫn lo ngại khi hợp tác với quỹ đầu tư, chủ yếu vì sợ mất quyền kiểm soát và sở hữu Họ chưa sẵn sàng chấp nhận khái niệm “công ty đại chúng” và thiếu niềm tin trong việc giao quyền tham gia Hội đồng quản trị cho quỹ Đồng thời, doanh nghiệp cũng không muốn công khai thông tin tài chính, trong khi đây là những yếu tố quan trọng quyết định sự lựa chọn của quỹ đầu tư.
Hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn ngần ngại trong việc công khai thông tin về hoạt động kinh doanh của mình Hội đồng quản trị thường không bao gồm những cổ đông lớn và thiếu tính độc lập trong hoạt động.
Nhu cầu về vốn của doanh nghiệp rất lớn trong khi quỹ đầu tư lại hạn chế, khiến các nhà đầu tư phải lựa chọn kỹ lưỡng Ví dụ, Dragon Capital chỉ tham gia vào các công ty có giá trị thị trường từ 7 triệu USD trở lên, điều này tạo ra rào cản cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Các công ty tư nhân tại Việt Nam thường được thành lập trong khoảng thời gian 10 năm và có quy mô nhỏ, dẫn đến việc khó thu hút đầu tư từ các quỹ Hầu hết các quỹ tư nhân trong khu vực hiện đang tìm kiếm cơ hội đầu tư với mức tối thiểu là 5 triệu USD.
Đối với nhà đầu tư, việc hiểu rõ hoạt động của doanh nghiệp thông qua báo cáo tài chính là rất quan trọng Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp ở Việt Nam chỉ coi báo cáo tài chính như một công cụ đối phó với cơ quan thuế, không thực sự phục vụ cổ đông và nhà đầu tư Hệ thống kiểm toán còn nhiều hạn chế và không tuân thủ đầy đủ các chuẩn mực quốc tế Phương pháp định giá doanh nghiệp Nhà nước trong cổ phần hóa chủ yếu dựa vào giá trị sổ sách, thiếu phương pháp chiết khấu dòng tiền, làm cho việc đánh giá giá trị thực của doanh nghiệp trở nên khó khăn Hơn nữa, hệ thống thông tin doanh nghiệp còn yếu, không cung cấp đầy đủ thông tin về tình hình hoạt động và dự báo tương lai cho nhà đầu tư.
Nguyên nhân từ phía Nhà nước
Nhà nước Việt Nam hiện chưa có hệ thống chính sách rõ ràng và minh bạch đối với đầu tư gián tiếp nước ngoài (FPI), dẫn đến nhiều quy định chồng chéo và thiên vị các nhà đầu tư trong nước Sự thiên vị này thể hiện qua việc giới hạn tỷ lệ tham gia góp vốn của nhà đầu tư nước ngoài, làm giảm sức hấp dẫn của FPI vào Việt Nam Mặc dù nhiều công ty tài chính lớn trên thế giới đang tìm kiếm cơ hội đầu tư tại Việt Nam, nhưng những hạn chế này khiến họ khó có thể thực hiện các khoản đầu tư lớn Các nhà đầu tư nước ngoài không chỉ muốn hưởng ưu đãi mà còn mong muốn tham gia vào ban điều hành để cải cách quản trị và phương thức kinh doanh Tuy nhiên, với tỷ lệ góp vốn bị giới hạn, nhiều quỹ đầu tư nước ngoài buộc phải bán bớt cổ phiếu hoặc rút vốn khỏi Việt Nam, làm giảm khả năng thu hút đầu tư lâu dài.
Nhà nước vẫn còn tồn tại những nhận thức không thiện cảm về các quỹ đầu tư, cho rằng các quỹ đầu tư nước ngoài chỉ tìm kiếm lợi nhuận cao từ doanh nghiệp Việt Nam và có khả năng gây thất thoát vốn cho nền kinh tế Mặc dù những lo ngại này có lý do chính đáng do rủi ro tiềm ẩn, nhưng cần nới lỏng chính sách để thúc đẩy quá trình hội nhập của Việt Nam vào WTO Điều này sẽ cải thiện môi trường đầu tư, tạo sự đồng đều hơn giữa hai khu vực thu hút vốn FPI và FDI Hơn nữa, dòng vốn FPI có thể tác động tích cực đến việc thu hút FDI, giúp giảm thiểu mất cân đối giữa hai loại vốn trong quá trình hội nhập.
Nhà nước vẫn còn dè dặt trong việc phát triển thị trường vốn và dịch vụ tài chính tại Việt Nam, dẫn đến quy mô thị trường chứng khoán (TTCK) hiện nay còn nhỏ bé so với thế giới, với tổng giá trị vốn hóa chỉ gần 9 tỷ USD Số liệu này chỉ tương đương với tổng vốn đầu tư của khoảng 10 quỹ đầu tư nước ngoài lớn, cho thấy khả năng hấp thụ vốn của TTCK Việt Nam đang bị đánh giá thấp Điều này là nguyên nhân chính khiến Việt Nam chưa thu hút được các tổ chức đầu tư lớn, và nếu có, họ thường tham gia giao dịch một cách dè dặt Nếu không nâng cao quy mô thị trường và thu hút các doanh nghiệp lớn niêm yết, TTCK Việt Nam sẽ gặp khó khăn trong việc thu hút các nhà đầu tư tài chính nước ngoài có tiềm lực mạnh.
Quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước diễn ra chậm chạp, cản trở tự do hóa kinh tế và hạn chế tăng trưởng bền vững khu vực tư nhân Hiện tại, chỉ khoảng 70% doanh nghiệp Nhà nước đã được cổ phần hóa, chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, với một số ít doanh nghiệp lớn Tuy nhiên, dự kiến đến cuối năm, nhiều doanh nghiệp Nhà nước lớn như ngân hàng Công thương, ngân hàng Ngoại thương, và các công ty viễn thông như Viettel, Vinafone, Mobifone sẽ được cổ phần hóa, góp phần gia tăng cung hàng hóa trên thị trường và mở ra nhiều cơ hội đầu tư cho cả nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Nhà nước chưa chú trọng đến việc quảng bá hình ảnh Việt Nam, dẫn đến khó khăn cho nhà đầu tư nước ngoài trong việc tìm kiếm thông tin về thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam Mặc dù có sự quan tâm gia tăng từ các nhà đầu tư nước ngoài, nhưng thông tin chủ yếu chỉ được cung cấp bằng tiếng Việt, trong khi tài liệu bằng tiếng Anh của các công ty niêm yết còn hạn chế và không đủ để thu hút cổ đông nước ngoài Các bản cáo bạch và báo cáo gửi tới Sở Giao dịch Chứng khoán TP.HCM và Ủy ban Chứng khoán Nhà nước chưa được dịch sang tiếng Anh, và các cơ quan này cũng chưa cung cấp thông tin qua trang web Hệ thống dịch vụ thông tin chuyên nghiệp chưa phát triển, khiến chi phí tìm kiếm thông tin cao và ảnh hưởng đến sự quan tâm của nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các nhà đầu tư cá thể.
Chính sách thuế hiện nay chưa được cải cách, dẫn đến việc thiếu minh bạch trong các doanh nghiệp, ngoại trừ những doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán buộc phải công khai thông tin Các doanh nghiệp còn lại thường e ngại công bố thông tin vì lo ngại gặp rắc rối với cơ quan thuế Điều này đặt ra câu hỏi về sự an tâm của nhà đầu tư nước ngoài khi họ không thể nắm bắt thông tin chính xác về doanh nghiệp, một vấn đề khó giải quyết trong thời gian ngắn.
PHÂN TÍCH KẾT QUẢ ĐIỀU TRA QUA BẢNG CÂU HỎI
Để khẳng định tính khách quan của các đánh giá về quan điểm đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam, tác giả đã tiến hành khảo sát trong 80 ngày với 87 nhà đầu tư cá nhân và 5 tổ chức nước ngoài Cuộc khảo sát bao gồm việc yêu cầu các nhà đầu tư trả lời bản câu hỏi trắc nghiệm và thu thập ý kiến từ các chuyên gia cùng nhà quản lý của các công ty, quỹ đầu tư uy tín Kết quả được tổng hợp và thống kê nhằm cung cấp cái nhìn chi tiết hơn về hành vi đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Theo khảo sát, 97,8% nhà đầu tư, bao gồm 100% nhà đầu tư cá nhân và 3 tổ chức, đã đầu tư vào thị trường chứng khoán Việt Nam với số vốn dưới 5 triệu USD.
Chỉ có hai tổ chức đầu tư với số vốn từ 5 đến 10 triệu USD, có thâm niên đầu tư từ 3 đến 6 năm, cho thấy họ là những nhà đầu tư chuyên nghiệp nhưng vẫn dè dặt với thị trường chứng khoán Việt Nam Tuy nhiên, 97% nhà đầu tư đã bày tỏ ý định gia tăng vốn và tiếp tục đầu tư vào Việt Nam trong thời gian tới, đây là tín hiệu khả quan cho thị trường chứng khoán nước này.
Trong cơ cấu đầu tư, 83% nhà đầu tư nước ngoài (NĐTNN) chọn cổ phiếu, với 97% đầu tư vào cổ phiếu niêm yết và 3% vào cổ phiếu chưa niêm yết Tuy nhiên, khi được hỏi về kế hoạch đầu tư trong tương lai, 81% NĐTNN dự định đầu tư vào cổ phiếu niêm yết, trong khi 19% có ý định đầu tư vào cổ phiếu chưa niêm yết Tỷ lệ đầu tư vào trái phiếu và chứng chỉ quỹ cũng cần được xem xét.
BẢNG 2.5 : CƠ CẤU ĐẦU TƯ VÀO TRÁI PHIẾU VÀ CHỨNG CHỈ QUỸ CỦA
Sự gia tăng tỷ lệ đầu tư vào cổ phiếu chưa niêm yết trong tương lai được thúc đẩy bởi đánh giá của nhà đầu tư nước ngoài về lợi suất cao hơn so với cổ phiếu niêm yết, đặc biệt khi cổ phiếu niêm yết đã giảm giá trong thời gian gần đây Giá mua và bán cổ phiếu niêm yết không chênh lệch nhiều, trong khi cổ phiếu chưa niêm yết có thể mang lại lợi nhuận lớn nếu nhà đầu tư nắm bắt thông tin và trở thành cổ đông chiến lược Thêm vào đó, tỷ lệ đầu tư vào cổ phiếu chưa niêm yết bị hạn chế do các quy định và chính sách của một số công ty không cho phép nhà đầu tư nước ngoài tham gia, làm giảm cơ hội đầu tư vào loại hình này.
Thị trường trái phiếu và chứng chỉ quỹ hiện tại chưa thu hút được nhà đầu tư nước ngoài do lãi suất trái phiếu quá thấp so với kỳ vọng của họ.
Theo một khảo sát, 30,6% nhà đầu tư cho biết họ ưu tiên lợi nhuận ngắn hạn, trong khi 64,4% tập trung vào lợi nhuận dài hạn và chỉ 5% mong muốn nhận cổ tức Điều này cho thấy phần lớn nhà đầu tư tại Việt Nam hướng đến mục tiêu đầu tư lâu dài, xác định rõ ràng mục đích đầu tư thay vì đầu cơ như một số nhà đầu tư trong nước Khi thị trường có dấu hiệu suy giảm, nhà đầu tư nước ngoài vẫn tiếp tục mua vào cổ phiếu với khối lượng lớn, trái ngược với xu hướng bán ra của các nhà đầu tư trong nước.
Trong các phương pháp đánh giá đầu tư, nhà đầu tư cá nhân thường sử dụng phương pháp phân tích cơ bản, trong khi nhà đầu tư tổ chức kết hợp cả phân tích cơ bản và phân tích kỹ thuật Hầu hết nhà đầu tư nước ngoài là những người có chuyên môn cao, họ tập trung vào tiềm năng phát triển của công ty thay vì lợi nhuận hiện tại và không bị ảnh hưởng bởi tâm lý "bầy đàn" Để thu hút và giữ chân nhà đầu tư nước ngoài lâu dài, Việt Nam cần cải thiện môi trường pháp lý và đảm bảo tính đồng bộ trong các chính sách Thông tin không chính thống thường tác động đến nhà đầu tư trong nước nhiều hơn so với nhà đầu tư nước ngoài Kết quả khảo sát câu hỏi 11 và 12 cho thấy sự lựa chọn của đa số nhà đầu tư.
( Basic analysis ) b Phân tích kỹ thuật [ ] [ ] [X] [ ] [ ]
Combining technical analysis with fundamental analysis enhances investment strategies by providing a comprehensive view of market trends and company performance Investors often rely on securities brokerage companies for expert insights and resources, which can significantly influence their decision-making process Additionally, utilizing investment advisory services can further guide investors in navigating the complexities of the market, ensuring they make informed choices that align with their financial goals.
( Good reputation of that company ) b Quy mô vốn của công ty [ ] [ ] [ ] [X] [ ]
The company's equity extent is a crucial factor, alongside its revenue, which significantly influences profitability Recent information about the company highlights its current standing and market activities, while the potential for growth indicates promising opportunities for future development.
( Potentiality of that company ) f Tính thanh khoản cao [ ] [ ] [X] [ ] [ ]
( High liquidity of that security ) g Tỷ số P/E [ ] [ ] [X] [ ] [ ]
( The P/E rate ) h Chỉ số EPS ( The EPS rate ) [ ] [ ] [X] [ ] [ ]
Các nhà đầu tư thường đánh giá cao độ tin cậy của nguồn thông tin từ các kết quả nghiên cứu, tiếp theo là thông tin từ các trang web chứng khoán, chuyên gia tư vấn đầu tư, tạp chí, và cuối cùng là ý kiến từ bạn bè, người thân cùng các công ty môi giới chứng khoán Điều này cho thấy rằng các nhà đầu tư nước ngoài rất chủ động trong việc đưa ra quyết định đầu tư.
Nhà đầu tư chỉ tin tưởng vào thông tin từ các nguồn uy tín và chính thức, trong khi những tin đồn hoặc thông tin chưa được xác nhận không ảnh hưởng nhiều đến quyết định đầu tư của họ.
Phần lớn nhà đầu tư (88,5%) tin tưởng vào khả năng sinh lợi của chứng khoán mà họ chọn, trong khi chỉ 22% lo ngại về rủi ro đầu tư Họ cho rằng rủi ro chủ yếu đến từ sự thay đổi chính sách của Nhà nước, như dự thảo Luật thuế TNCN mới đây với mức thuế 5% trên cổ tức và 25% trên giá trị chuyển nhượng Sự thay đổi này đã ảnh hưởng đến tâm lý nhà đầu tư, khiến giao dịch trên thị trường giảm sút Nhiều ý kiến phản hồi cho rằng mức thuế này quá cao và nếu không được xem xét lại, họ có thể rút vốn về nước.
- Nhận định về xu hướng phát triển của TTCK Việt Nam, các nhà đầu tư đã đưa ra những đánh giá sau ( xem b ả ng 2.6 )
BẢNG 2.6: XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA TTCK VIỆT NAM
Số lượng cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Việt Nam
( The quantity of shares in Vietnamese securities market )
Số lượng công ty chứng khoán
( The quantity of the stock companies )
Số lượng nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam
( The quantity of investors in Vietnamese securities market )
- Về phần câu hỏi mở chỉ có khoảng 18% các nhà đầu tư cho ý kiến và đã được người viết tổng hợp trong ph ụ l ụ c 3
Trong bối cảnh thu hút và quản lý vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài ở Việt Nam, Nhà nước đã từng thiên vị vốn đầu tư trực tiếp, dẫn đến sự bỏ quên nguồn vốn gián tiếp Tuy nhiên, gần đây, nhận thức của Nhà nước đã có những thay đổi tích cực về tầm quan trọng của vốn đầu tư gián tiếp Chính vì vậy, Nhà nước đang nỗ lực thu hút một lượng vốn lớn từ thị trường toàn cầu nhằm phát triển đất nước và xây dựng một thị trường tài chính lành mạnh, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
Vai trò của nguồn vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài tại Việt Nam ngày càng được khẳng định, với lượng vốn gia tăng đáng kể, góp phần làm cho thị trường chứng khoán trở nên sôi động và phát triển mạnh mẽ Để nguồn vốn này trở thành yếu tố quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế, Nhà nước và các doanh nghiệp Việt Nam cần nỗ lực hơn nữa để khắc phục hạn chế và phát huy thế mạnh, hướng tới mục tiêu đưa Việt Nam “hóa rồng” trong tương lai gần.