Nghiên cứu trong nước
Tác giả đã tiến hành khảo sát các nghiên cứu liên quan đến việc dự đoán khả năng hoạt động liên tục của doanh nghiệp, dựa trên cơ sở dữ liệu về Luận văn và Luận án tại Đại học Kinh tế Tp Hồ Chí Minh Nhiều nghiên cứu đã được thực hiện trong lĩnh vực này, cung cấp cái nhìn sâu sắc về các yếu tố ảnh hưởng đến sự bền vững của doanh nghiệp.
Nghiên cứu của Huỳnh Cát Tường (2008) tại Đại học Kinh tế Tp Hồ Chí Minh áp dụng mô hình Z-score để dự báo khánh kiệt tài chính và khả năng phá sản của doanh nghiệp Việt Nam Kết quả cho thấy mô hình Z-score hiệu quả trong việc dự đoán khả năng phá sản, đồng thời cung cấp các phương pháp hỗ trợ và dự báo tình trạng khánh kiệt tài chính cho doanh nghiệp.
Nghiên cứu của Đào Thị Trang (2013) tại Đại học Kinh tế Tp Hồ Chí Minh đã đánh giá khả năng lâm vào tình trạng phá sản của các doanh nghiệp niêm yết Kết quả cho thấy rằng các chỉ số tài chính có thể dự báo nguy cơ phá sản với độ chính xác trên 90%.
Nghiên cứu của Trần Ngọc Trâm (2013) tại Đại học Kinh tế Tp Hồ Chí Minh phân tích các biểu hiện gian lận báo cáo tài chính qua sự kết hợp chỉ số Z và chỉ số P của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam Tác giả đã thực hiện khảo sát thực nghiệm tại 4 công ty bị phát hiện gian lận trong giai đoạn này Kết quả nghiên cứu phù hợp với các nghiên cứu trước đó về việc sử dụng các chỉ số này để phát hiện nguy cơ phá sản, khả năng hoạt động liên tục và gian lận trong báo cáo tài chính Tác giả cũng đề xuất mô hình nhận diện khả năng xảy ra gian lận báo cáo tài chính tại các công ty niêm yết trên thị trường Việt Nam.
Nghiên cứu của Liêu Minh Lý (2014) trình bày mô hình dự báo Z-score và H-score, cùng với ứng dụng của những mô hình này trong việc dự đoán khả năng phá sản của các công ty niêm yết tại Việt Nam.
Nghiên cứu của Trần Thị Mỹ Tú (2014) chỉ ra rằng có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến hành vi quản trị lợi nhuận Kết quả nghiên cứu đã xác định một số biến quan trọng có tác động trực tiếp đến hành vi này.
Các đề tài này không xem xét ảnh hưởng của hành vi điều chỉnh lợi nhuận đến dự báo khả năng hoạt động liên tục của doanh nghiệp, do đó, hướng nghiên cứu của tác giả là độc đáo và không trùng lặp với các nghiên cứu trước đây trong nước.
Nghiên cứu nước ngoài
Ngoài ra, tác giả đã thực hiện khảo sát thông qua cơ sở dữ liệu tại http://www.ssrn.com/ để nghiên cứu ảnh hưởng của việc điều chỉnh lợi nhuận đến khả năng dự báo hoạt động liên tục Nhiều nghiên cứu đã tập trung vào vấn đề này, cho thấy sự quan tâm lớn từ cộng đồng nghiên cứu.
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng chỉ số Z thấp có mối liên hệ với việc điều chỉnh lợi nhuận của các công ty (Ahn & Choi, 2009; Zang, 2012) Yasuda, Okuda và Konishi (2004) đã liên kết chỉ số Z thấp với sự cần thiết phải quản lý rủi ro cao hơn trong tổ chức, điều này có thể dẫn đến những tác động trong các hành động điều chỉnh lợi nhuận.
Giroux và Cassell (2011) chỉ ra rằng các công ty có chỉ số Z cao hơn có khả năng bảo toàn vốn đầu tư tốt hơn và giảm rủi ro kinh doanh đáng kể Theo một số nhà môi giới và nhà phân tích, chỉ số Z cao được coi là dấu hiệu của khả năng lợi nhuận tiềm năng tốt (Chanos, 2006; Escalada, 2011) Z-Score cho thấy có hai loại công ty: những công ty có chỉ số Z thấp thường có nguy cơ cao hơn trong việc điều chỉnh lợi nhuận, trong khi các công ty có chỉ số Z cao thì ít có khả năng điều chỉnh lợi nhuận để công bố báo cáo tài chính.
Kirkos, Spathis, và Manopoulos (2007) chỉ ra rằng biến động cao hơn của mức độ hoạt động có thể cho thấy khả năng xảy ra gian lận báo cáo tài chính Các nghiên cứu trước đó đã sử dụng biến động mức độ hoạt động như một chỉ số cho hiệu quả tài chính của doanh nghiệp (Caramanis & Spathis, 2006; Denis & Denis, 1995; Lee & Urrutia, 1996) Fairfield và Yohn (2001) cũng xem biến động này như một dấu hiệu cho việc điều chỉnh lợi nhuận Sự thống nhất trong quan điểm về vai trò của biến động mức độ hoạt động cho thấy nó có thể được áp dụng để định lượng các thao tác quản trị lợi nhuận.
Việc kiểm tra chỉ số vòng quay tài sản (doanh thu/tổng tài sản) là rất quan trọng trong các lý thuyết hiện đại nhằm phát hiện điều chỉnh lợi nhuận Các mô hình phân tích điều chỉnh lợi nhuận thường sử dụng biến vòng quay tài sản như một trong những biến độc lập (Dechow và cộng sự, 1995; Jansen và cộng sự, 2012; Jones, 1991) Ngoài ra, Myers, Myers và Skinner (2007) cũng chỉ ra rằng các giá trị bất thường của chỉ số vòng quay tài sản ở các công ty có thể ảnh hưởng đến lợi nhuận.
Bảng 1.1: Thống kê các nghiên cứu về ảnh hưởng của các chỉ tiêu tài chính, hành vi điều chỉnh lợi nhuận đến khả năng hoạt động liên tục
Tác giả Năm Kết quả
Nghiên cứu đã phân tích các chỉ số tài chính từ 79 doanh nghiệp phá sản và các doanh nghiệp không phá sản trong giai đoạn 1954-1964 Kết quả cho thấy các chỉ tiêu tài chính của doanh nghiệp gặp khó khăn về khả năng hoạt động liên tục thấp hơn nhiều so với doanh nghiệp bình thường Điều này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phát hiện sớm khả năng hoạt động của doanh nghiệp để ngăn chặn tình trạng phá sản.
Tác giả Năm cho rằng khi kết quả động của doanh nghiệp liên tục, cần so sánh các chỉ số tài chính với mức trung bình mà Beaver đã đưa ra.
Công ty ngưng hoạt động thường được xác định qua các chỉ số tài chính dựa trên mô hình dự đoán khả năng hoạt động liên tục Nghiên cứu cho thấy nhiều công ty không có chỉ tiêu tài chính bất lợi trong năm trước khi gặp rủi ro không còn hoạt động liên tục.
Nghiên cứu chỉ ra rằng 70% công ty trong trường hợp nghiên cứu không có dấu hiệu tiềm tàng về nghĩa vụ nợ trong năm trước khi gặp khó khăn Đồng thời, các công ty có dấu hiệu ngưng hoạt động thường có đặc điểm tài chính tương tự, bao gồm đòn bẩy hoạt động cao, tính thanh khoản thấp, lợi nhuận thấp hơn và hiệu suất sinh lợi của cổ phiếu kém.
Nghiên cứu cho thấy rằng 68% các công ty phá sản không có nghĩa vụ trả nợ hay nghĩa vụ tiềm tàng nào trong năm trước khi nộp đơn phá sản, dẫn đến việc ngừng hoạt động liên tục.
Tác giả Năm Kết quả
Nghiên cứu về tác động của quy mô doanh nghiệp khách hàng đến ý kiến kiểm toán của các công ty kiểm toán Big 5 cho thấy không có bằng chứng cho thấy quy mô kinh tế ảnh hưởng đến ý kiến kiểm toán Tuy nhiên, đối với các khách hàng lớn, có nhiều rủi ro hơn, và nghiên cứu phát hiện rằng báo cáo kiểm toán của Big 5 thường có các thỏa thuận với những khách hàng lớn nhằm bảo vệ danh tiếng và đạo đức trong nghề kiểm toán.
Nghiên cứu cho thấy khoảng 76% công ty nghiên cứu phá sản không có kỹ thuật hay nghĩa vụ nợ trong năm trước khi gặp khó khăn tài chính.
Nghiên cứu cho thấy rằng các nhà quản lý có xu hướng chấp nhận rủi ro cao hơn sẽ thúc đẩy sự tham gia vào các hành vi điều chỉnh lợi nhuận.
Nghiên cứu cho thấy các công ty gặp khó khăn tài chính thường có EBIT thấp hơn lãi vay và có đòn bẩy tài chính cao Khi tỷ số nợ trên vốn chủ sở hữu tăng ở những công ty này, tình trạng tài chính của họ càng trở nên yếu kém và đối mặt với rủi ro lớn hơn so với các công ty không có nợ.
Tác giả Năm Kết quả
Nghiên cứu chỉ ra rằng sự sụt giảm doanh thu có thể phản ánh sự giảm sút hàng hóa, giá cả hoặc vấn đề trong chiến dịch quảng cáo Tuy nhiên, nó cũng có thể là hệ quả từ việc đối thủ cạnh tranh cung cấp sản phẩm và dịch vụ tốt hơn, điều này là một chỉ số quan trọng để đánh giá khả năng hoạt động bền vững của doanh nghiệp.
Hartadi, Mahfooz Ansari và Ishak Ismail
Kh ả n ă ng ho ạ t độ ng liên t ụ c (Going Concern)
Khái ni ệ m
Theo Khuôn mẫu lý thuyết của IASB, giả định hoạt động liên tục yêu cầu rằng báo cáo tài chính phải được lập trên cơ sở đơn vị đang hoạt động liên tục và sẽ tiếp tục trong tương lai gần Điều này có nghĩa là đơn vị không có ý định thanh lý hoặc thu hẹp quy mô hoạt động Nếu giả định này không được đáp ứng, báo cáo tài chính cần được lập trên một cơ sở khác và phải thuyết minh rõ ràng về cơ sở đó.
Khái niệm về giả định hoạt động liên tục được chấp nhận rộng rãi trong các hệ thống kế toán toàn cầu, tuy nhiên, các khuôn mẫu lý thuyết của FASB không nêu rõ điều này Theo chuẩn mực kế toán FASB No 2014-15 về “Trình bày báo cáo tài chính - Hoạt động liên tục” được phát hành vào tháng 8 năm 2014, giả định hoạt động liên tục là cơ sở lập báo cáo tài chính, trừ khi nhà quản lý có ý định thanh lý hoặc dừng hoạt động Việc lập báo cáo tài chính theo giả định này được gọi là cơ sở hoạt động liên tục của kế toán, và chỉ khi doanh nghiệp thanh lý hoặc thu hẹp quy mô, báo cáo tài chính mới được lập theo cơ sở kế toán thanh lý khác Khái niệm này không khác biệt nhiều so với định nghĩa của IASB.
Theo Chuẩn mực kế toán Việt Nam số 1, ban hành theo Quyết định số 165/2002/QĐ-BTC, báo cáo tài chính phải được lập dựa trên giả định doanh nghiệp hoạt động liên tục Điều này có nghĩa là doanh nghiệp không có ý định hoặc không bị buộc phải ngừng hoạt động hoặc thu hẹp quy mô Nếu có tình huống khác với giả định này, báo cáo tài chính cần được lập trên cơ sở khác và phải có giải thích rõ ràng về cơ sở đó.
Như vậy, về kế toán giả định hoạt động liên tục được hiểu là:
- Cơ sở cho việc lập BCTC
- Doanh nghiệp sẽ không có ý định hoặc bắt buộc phải ngừng, thu hẹp kinh doanh.
Trách nhi ệ m xem xét gi ả đị nh ho ạ t độ ng liên t ụ c
Theo IAS 1 và Chuẩn mực kế toán Việt Nam số 21, trách nhiệm đánh giá giả định hoạt động liên tục khi lập báo cáo tài chính (BCTC) thuộc về Ban giám đốc doanh nghiệp Điều này nhấn mạnh vai trò quan trọng của Ban giám đốc trong việc đảm bảo tính chính xác của BCTC, bởi họ là những người có quyền lực cao nhất và hiểu rõ tình hình kinh doanh cũng như phương hướng hoạt động dài hạn của doanh nghiệp Tuy nhiên, việc đánh giá này cũng tiềm ẩn rủi ro về các hành vi che đậy thông tin, do dựa vào nhiều yếu tố chủ quan và thiếu hướng dẫn cụ thể, dẫn đến khả năng thiếu thận trọng và độc lập trong quá trình xem xét giả định hoạt động liên tục.
D ấ u hi ệ n vi ph ạ m gi ả đị nh ho ạ t độ ng liên t ụ c
Theo Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 570, có một số lý do chính gây ra nghi ngờ đáng kể về giả định hoạt động liên tục của đơn vị Những lý do này bao gồm tình trạng tài chính khó khăn, thiếu hụt nguồn lực, hoặc các yếu tố bên ngoài ảnh hưởng đến khả năng duy trì hoạt động Việc nhận diện và đánh giá các yếu tố này là rất quan trọng để đảm bảo tính chính xác trong báo cáo tài chính.
- Đơn vị lâm vào tình trạng nợ phải trả lớn hơn tài sản hoặc nợ phải trả ngắn hạn lớn hơn tài sản lưu động.
Đơn vị gặp khó khăn khi có các khoản nợ dài hạn sắp đến hạn mà không thể giãn nợ hoặc thanh toán Hơn nữa, việc phụ thuộc quá nhiều vào các khoản vay ngắn hạn để tài trợ cho các tài sản dài hạn cũng là một vấn đề nghiêm trọng.
- Dấu hiệu về việc các chủ nợ ngừng hoặc thu hồi các hỗ trợ tài chính
- Lưu chuyển tiền từ hoạt động kinh doanh bị âm thể hiện trên báo cáo tài chính hay dự báo trong tương lai
- Đơn vị có các chỉ số tài chính xấu hơn mức bình thường
- Lỗ hoạt động kinh doanh lớn hoặc có sự suy giảm lớn về giá trị của các tài sản được dùng để tạo ra các luồng tiền
- Nợ tồn đọng hoặc ngừng thanh toán cổ tức
- Không có khả năng thanh toán nợ khi đến hạn
- Không có khả năng tuân thủ các điều khoản của hợp đồng tín dụng
- Chuyển đổi từ các giao dịch mua chịu sang mua thanh toán ngay với các nhà cung cấp
- Không có khả năng tìm kiếm các nguồn tài trợ cho việc phát triển các sản phẩm mới thiết yếu hoặc các dự án đầu tư thiết yếu
- Ban Giám đốc có ý định ngừng hoạt động hoặc giải thể đơn vị;
- Thiếu thành phần lãnh đạo chủ chốt mà không được thay thế;
Mất một thị trường lớn có thể dẫn đến việc đánh mất khách hàng quan trọng, ảnh hưởng đến quyền kinh doanh thông qua các hình thức cấp phép và nhượng quyền thương mại, cũng như mất đi những nhà cung cấp thiết yếu.
- Gặp các vấn đề khó khăn về lao động;
- Thiếu hụt vật tư đầu vào chủ yếu;
- Xuất hiện đối thủ cạnh tranh mới thành công hơn;
- Không tuân thủ các quy định về góp vốn cũng như các quy định khác của pháp luật;
Đơn vị hiện đang đối mặt với các vụ kiện chưa được giải quyết, và nếu thua kiện, có thể phải chịu trách nhiệm bồi thường mà không đủ khả năng chi trả.
- Thay đổi về pháp luật và các quy định hoặc chính sách của Nhà nước làm ảnh hưởng bất lợi tới đơn vị
- Xảy ra các rủi ro, tổn thất mà không được bảo hiểm hoặc bảo hiểm với giá trị thấp.
Cách th ứ c đ o l ườ ng
Khả năng hoạt động liên tục là khái niệm quan trọng chỉ sự duy trì hoạt động của doanh nghiệp trong tương lai gần, trong khi khả năng không còn hoạt động là hiện tượng tự nhiên nhằm loại bỏ những doanh nghiệp yếu kém trước áp lực cạnh tranh Việc dự báo khả năng hoạt động liên tục của doanh nghiệp là cần thiết để giảm thiểu rủi ro và điều chỉnh kế hoạch tài chính Mặc dù mô hình dự báo này đã có từ lâu trên thế giới, nhưng việc nghiên cứu mô hình phù hợp với thị trường Việt Nam vẫn còn hạn chế Bài viết giới thiệu các mô hình Atman Z-Score, Springate Z-Score và Fulmer H-Score, cùng với việc ứng dụng chúng để dự báo khả năng hoạt động liên tục của các công ty niêm yết tại Việt Nam Dữ liệu chủ yếu từ báo cáo tài chính giúp phân tích lợi nhuận dễ dàng, và các mô hình này đã được áp dụng thành công ở nhiều quốc gia như Jordan, Thái Lan và Ấn Độ.
Nghiên cứu của Altman dựa trên công trình của William Beaver và các cộng sự, những người đã thu thập các chỉ số kế toán từ báo cáo tài chính của các công ty phá sản vào những năm 1930 Chỉ số Z của Altman, phát triển từ kỹ thuật phân tích biệt số của R.A Fisher (1936), là một bước tiến trong việc dự đoán phá sản Beaver, trong các nghiên cứu năm 1966 và 1968, lần đầu tiên áp dụng T-test để đánh giá tầm quan trọng của các chỉ số kế toán qua phân tích đơn biến Sự khác biệt của Altman so với Beaver là việc áp dụng phân tích thống kê và phân tích biệt số để xem xét nhiều chỉ số cùng lúc, nâng cao độ chính xác trong dự đoán.
Altman đã áp dụng kỹ thuật phân tích biệt số dựa trên dữ liệu của 66 doanh nghiệp tại Mỹ, được chia thành hai nhóm Nhóm 1 bao gồm 33 doanh nghiệp đã phá sản trong giai đoạn 1946-1965, trong khi Nhóm 2 gồm 33 doanh nghiệp vẫn hoạt động bình thường đến năm 1966.
Dựa trên số liệu từ bảng cân đối kế toán và báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, 22 chỉ số tài chính đã được tính toán và phân thành 5 nhóm: thanh khoản, lợi nhuận, đòn bẩy, khả năng thanh toán và chỉ số hoạt động Trong số 22 chỉ số này, 5 chỉ số được lựa chọn để áp dụng vào mô hình dự đoán khả năng phá sản dựa trên 4 tiêu chí.
Để phân tích ý nghĩa thống kê của phương trình nhiều biến, cần đánh giá mức độ tương quan giữa các biến liên quan và quan sát khả năng dự đoán chính xác của mô hình Ngoài ra, dự đoán từ chuyên gia phân tích cũng đóng vai trò quan trọng Kết quả nghiên cứu của Altman đã cho ra hàm số cụ thể.
X1 = Vốn lưu động/ Tổng tài sản (Working Capital/ Total Assets)
Tỷ số này đo lường tài sản lưu động của công ty so với tổng tài sản, cho thấy khả năng đáp ứng nghĩa vụ nợ ngắn hạn Công ty có vốn lưu động cao hơn sẽ có nhiều tài sản ngắn hạn hơn, giúp dễ dàng thanh toán các khoản nợ Đây là một chỉ số quan trọng để đánh giá khả năng tiếp tục hoạt động của công ty, vì vốn lưu động thấp có thể dẫn đến khó khăn trong việc đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn.
X2 = Lợi nhuận chưa phân phối/ Tổng tài sản (Retained Earning/ Total Assets)
Tỷ số lợi nhuận giữ lại chưa phân phối so với tổng tài sản là một chỉ số quan trọng, cho thấy sự ổn định tài chính của công ty Những doanh nghiệp có lịch sử hoạt động lâu dài thường có chỉ số này cao hơn so với các công ty mới thành lập Điều này cũng phản ánh thực tế rằng tỷ lệ thất bại trong kinh doanh cao hơn đáng kể trong những năm đầu hoạt động của các công ty trẻ.
X3 = Lợi nhuận trước thuế và lãi vay/ Tổng tài sản (Earnings before interest and taxes/ Total Assets)
Một công ty khỏe mạnh có khả năng tạo ra thu nhập hiệu quả từ tài sản của mình Nếu tỷ lệ này thấp, điều đó cho thấy lợi nhuận không khả quan và công ty có nguy cơ phá sản, dễ bị tổn thương trong bối cảnh thị trường suy giảm, ảnh hưởng đến thu nhập Phân tích này áp dụng cho cả công ty sản xuất, dịch vụ và các doanh nghiệp tư nhân.
X4 = Giá trị vốn hoá thị trường của chủ sở hữu/ Tổng giá trị sổ sách của tổng nợ (Market Value of Equity/ Book Value of Total Liabities)
Tỷ số này phản ánh ảnh hưởng của yếu tố thị trường đối với khả năng phá sản của doanh nghiệp Theo lý thuyết, các công ty có giá trị vốn hóa lớn thường ít có nguy cơ phá sản hơn vì giá cổ phiếu của họ vượt xa giá trị sổ sách Hơn nữa, tỷ số này cũng giúp đánh giá kỳ vọng của thị trường về tương lai tài chính của công ty, do đó cần xem xét các thông tin tài chính dự báo.
X5 = Doanh thu/ Tổng tài sản (Sales/ Total Assets)
Tỷ số vòng quay tổng tài sản cho thấy hiệu quả sử dụng tài sản của công ty trong việc tạo ra doanh thu Một chỉ số thấp cảnh báo về hiệu suất kém, đồng thời gia tăng nguy cơ phá sản cho doanh nghiệp.
Dựa vào kết quả tính toán của chỉ số Z, Altman phân chia các doanh nghiệp thành
- Nếu Z > 2,99: Doanh nghiệp nằm trong vùng an toàn, chưa có nguy cơ phá sản
- Nếu 1,81 < Z < 2,99: Doanh nghiệp nằm trong vùng cảnh báo, có nguy cơ phá sản
- Nếu Z < 1,81: Doanh nghiệp nằm trong vùng nguy hiểm, có nguy cơ phá sản cao
Altman đã chỉ ra rằng việc phân tích các chỉ số tài chính đơn lẻ không còn quan trọng trong môi trường học thuật do tính đơn giản của nó Để đánh giá chính xác các chỉ số tài chính, cần kết hợp nhiều chỉ số trong phân tích biệt số nhằm dự đoán khả năng phá sản của doanh nghiệp Phân tích trong khuôn khổ đa biến mang lại ý nghĩa thống kê lớn hơn so với việc so sánh từng chỉ số tài chính một cách tuần tự Trong các thử nghiệm ban đầu, chỉ số Z của Altman đã dự đoán chính xác 72% khả năng phá sản trong hai năm trước khi sự kiện xảy ra Qua ba thập kỷ tiếp theo, mô hình này đã chứng minh độ chính xác từ 80-90% trong việc dự đoán phá sản trong một năm, đồng thời phát hiện các gian lận liên quan đến báo cáo tài chính.
Từ năm 1985, chỉ số Z đã trở thành công cụ phổ biến cho kiểm toán viên, kế toán quản trị, tòa án và hệ thống dữ liệu trong đánh giá cho vay Mặc dù ban đầu được phát triển cho các công ty sản xuất có tài sản trên một triệu đô la Mỹ, công thức tính này đã được điều chỉnh để phù hợp với các công ty tư nhân và phi sản xuất, cho thấy tính linh hoạt và ứng dụng rộng rãi của nó trên toàn cầu.
Mô hình Springate, được phát triển vào năm 1978 tại Đại học Simon Fraser, Canada bởi Gordon L.V Springate, là một phương pháp dự báo khả năng hoạt động liên tục của doanh nghiệp Mô hình này dựa trên mô hình của Altman và sử dụng phân tích từng bước để chọn ra 4 chỉ số tài chính trong số 19 chỉ số phổ biến.
X1 = Vốn lưu động/ Tổng tài sản (Working Capital/ Total Assets)
X2= Lợi nhuận hoạt động trước thuế và lãi vay/ Tổng tài sản (Net Profit before interest and taxes/ Total Assets)
X3= Lợi nhuận trước thuế/ Nợ ngắn hạn (Net Profit before Taxes/Current Liabilities) X4= Doanh thu/ Tổng tài sản (Sales/Total Assets)
Nếu Z< 0,862: công ty có khả năng phá sản
Mô hình đạt tỷ lệ chính xác 92,5% trong cuộc thử nghiệm ở 40 công ty Botheras
Năm 1979, mô hình Springate đã được thử nghiệm trên 50 công ty với tổng tài sản bình quân 2.500.000 USD, đạt tỷ lệ chính xác 88% Tiếp theo, năm 1980, Sands đã áp dụng mô hình này cho 24 công ty có tổng tài sản bình quân 63.400.000 USD, với tỷ lệ chính xác đạt 83,3%.
Mô hình Fulmer, hay còn gọi là Chỉ số H, là một công cụ phân loại khả năng hoạt động liên tục được phát triển từ nghiên cứu năm 1984 Mô hình này dựa trên phân tích 40 chỉ tiêu tài chính từ mẫu 60 công ty, bao gồm 30 công ty thành công và 30 công ty phá sản, với tài sản bình quân của các doanh nghiệp này đạt 455.000 USD.
Đ i ề u ch ỉ nh l ợ i nhu ậ n
Khái ni ệ m
Để nắm bắt khái niệm điều chỉnh lợi nhuận, trước tiên cần tìm hiểu về cơ sở ghi nhận bút toán trong kế toán Hiện nay, kế toán áp dụng hai cơ sở ghi nhận bút toán, bao gồm cơ sở dồn tích và cơ sở tiền tệ.
Cơ sở dồn tích (Accrual basis) là phương pháp kế toán ghi nhận các bút toán khi phát sinh, bất kể việc thực thu hay chi bằng tiền đã diễn ra hay chưa Chẳng hạn, nếu vào ngày 15/12/2014 phát sinh một khoản doanh thu nhưng khách hàng chưa thanh toán, khoản tiền này sẽ được nhận vào ngày 15/01/2015 Theo cơ sở dồn tích, doanh thu này vẫn được ghi nhận trong báo cáo tài chính năm 2014.
Cơ sở tiền (Cash basis) là phương pháp ghi nhận kế toán chỉ thực hiện khi có thực thu hoặc chi bằng tiền Ví dụ, doanh thu chỉ được ghi nhận khi có tiền thực thu, dẫn đến việc doanh thu không được phản ánh trong báo cáo tài chính năm 2014 mà được ghi nhận vào năm 2015 Đối với doanh nghiệp, giao dịch kế toán thường dựa trên cơ sở dồn tích, từ đó tạo ra sự khác biệt giữa lợi nhuận bằng tiền (dòng tiền từ hoạt động kinh doanh) và lợi nhuận ghi nhận trên cơ sở dồn tích Sự khác biệt này xuất phát từ các khoản dồn tích như doanh thu nhận trước, khấu hao, dự phòng và trích trước Do đó, phương trình kế toán được thiết lập để phản ánh điều này.
Lợi nhuận sau thuế - Dòng tiền từ hoạt động kinh doanh = Các khoản dồn tích
Lợi nhuận sau thuế = Các khoản dồn tích + Dòng tiền từ hoạt động kinh doanh
Việc ghi nhận bút toán kế toán theo cơ sở dồn tích cho phép các nhà quản lý doanh nghiệp điều chỉnh lợi nhuận sau thuế, tăng hoặc giảm tùy theo mục tiêu công bố thông tin của họ thông qua các khoản dồn tích.
Khái niệm điều chỉnh lợi nhuận đề cập đến hành vi của nhà quản lý trong việc ghi nhận trên cơ sở dồn tích thông qua các tài khoản nhằm thay đổi lợi nhuận sau thuế theo các mục tiêu công bố thông tin Hiện nay, có nhiều khái niệm khác nhau về điều chỉnh lợi nhuận được áp dụng trong nghiên cứu.
Theo Ronen và Yaari (2008), điều chỉnh lợi nhuận được định nghĩa là tập hợp các quyết định quản lý nhằm không báo cáo chính xác tình hình tài chính trong ngắn hạn, với mục tiêu tối đa hóa giá trị lợi nhuận dự kiến Điều chỉnh lợi nhuận có thể mang lại lợi ích, gây hại hoặc trung tính Nếu có lợi, điều này cho thấy giá trị dài hạn; nếu gây hại, nó sẽ che giấu giá trị trong cả ngắn và dài hạn; còn trung tính sẽ phản ánh đúng kết quả thực hiện trong ngắn hạn.
Tóm lại, từ các khái niệm về điều chỉnh lợi nhuận đã được trình bày, có thể nhận thấy những đặc điểm chung trong các khái niệm này như sau:
Là hành vi phụ thuộc vào quyết định có chủ ý của nhà quản lý
Là sự can thiệp của nhà quản lý làm thay đổi các thông tin trên báo cáo tài chính
Là sự công bố thông tin liên quan đến các thời điểm trình bày báo cáo.
Cách ph ươ ng pháp đ o l ườ ng, d ự đ oán đ i ề u ch ỉ nh l ợ i nhu ậ n
Có ba phương pháp chính để đo lường và dự đoán điều chỉnh lợi nhuận Phương pháp thứ nhất nghiên cứu tổng các khoản dồn tích và áp dụng mô hình hồi quy để tính toán các khoản điều chỉnh dự tính hoặc bất thường, có thể tập trung vào các khoản dồn tích đặc thù như dự phòng phải thu khó đòi hoặc trong các lĩnh vực đặc biệt như bảo hiểm Phương pháp thứ hai liên quan đến việc phân bổ chi phí hoặc điều chỉnh thời gian của các khoản chi phí Cuối cùng, phương pháp thứ ba tập trung vào việc công bố thông tin, thông qua các gián đoạn trong phân phối lợi nhuận.
2.2.2.1 Dựa trên các khoản dồn tích
Trong phương pháp này, mô hình Jones (1991) được sử dụng phổ biến, mô hình này được xây dựng dựa trên kết quả nghiên cứu của Healy (1985) và DeAngelo (1986)
Mô hình Healy (1985) cho rằng các khoản dồn tích phát sinh từ các quyết định của nhà quản lý và sự biến động của điều kiện kinh tế doanh nghiệp Mô hình này xác định tổng các khoản dồn tích dựa trên sự thay đổi trong doanh thu và tổng mức tài sản cố định.
Healy (1985) chỉ ra rằng hành vi điều chỉnh có hệ thống xảy ra ở mỗi giai đoạn, và tác giả phân chia mẫu thành ba nhóm Trong đó, một nhóm có lợi nhuận dự đoán bị thổi phồng, trong khi hai nhóm còn lại có lợi nhuận dự đoán bị dấu bớt Việc so sánh giá trị trung bình tổng các khoản dồn tích giữa các nhóm cho thấy giá trị trung bình của tổng các khoản dồn tích trong giai đoạn ước tính tương ứng với giá trị các khoản dồn tích không tự định (NDA) Mô hình tính toán NDA được trình bày như sau:
NDA : Các khoản dồn tích không thể điều chỉnh ước tính;
TA : Tổng các khoản dồn tích tính theo tổng tài sản t : 1,2, ,T chỉ các năm trong giai đoạn ước tính
: năm ước tính các khoản dồn tích không tục định b Mô hình De Angelo (1986)
De Angelo (1986) đã phát triển một phương pháp đo lường hành vi điều chỉnh lợi nhuận bằng cách tính toán các khác biệt đầu tiên trong tổng các khoản dồn tích, với giả định rằng các khác biệt ban đầu có giá trị mong đợi bằng 0, theo giả thiết không có hành vi điều chỉnh lợi nhuận Mô hình này sử dụng tổng các khoản dồn tích của năm trước liền kề để tính toán NDA.
Mô hình của De Angelo là một trường hợp đặc biệt của mô hình Healy (1985), trong đó giai đoạn sử dụng để ước tính NDA chỉ được giới hạn trong năm trước liền kề Bên cạnh đó, mô hình Friedlan (1994) cũng đóng góp vào lĩnh vực này.
Mô hình Friedlan cho rằng sự thay đổi trong tổng số biến kế toán dồn tích giữa hai giai đoạn bao gồm hai yếu tố: (1) sự thay đổi do tăng trưởng và (2) sự thay đổi do lựa chọn chính sách kế toán của tổ chức Khi một công ty phát triển, số biến kế toán dồn tích không thể điều chỉnh và có thể điều chỉnh sẽ tăng lên Để kiểm soát ảnh hưởng của yếu tố tăng trưởng đến tổng số biến kế toán dồn tích, mô hình giả định một tỷ lệ tương ứng giữa tổng số biến kế toán dồn tích và doanh thu được sử dụng Tổng số biến kế toán dồn tích được điều chỉnh là sự khác biệt giữa tổng số biến kế toán dồn tích trong thời kỳ t được chuẩn hóa bởi doanh thu bán hàng của thời kỳ t và tổng số biến kế toán dồn tích của thời kỳ t-1 được chuẩn hóa bởi doanh thu bán hàng của thời kỳ t-1.
Mô hình này như sau:
Biến kế toán dồn tích có thể điều chỉnh t
Biến kế toán dồn tích t (TAt)
Biến kế toán dồn tích t-1 (TAt-1)
Doanh thu t Doanh thu t-1 d Mô hình Jones (1991)
Jones (1991) đã phát triển một mô hình nhằm làm suy yếu giả định rằng các khoản dồn tích không thể điều chỉnh (NDA) là bất biến Mô hình này tập trung vào việc kiểm soát ảnh hưởng của những biến động trong bối cảnh kinh tế của doanh nghiệp đối với các khoản dồn tích không thể điều chỉnh.
Biến kế toán dồn tích không thể điều chỉnh (NDA):
NDA t là biến kế toán dồn tích không thể điều chỉnh được năm t
TA t : Tổng biến dồn tích năm t
At-1: Tài sản cuối năm t-1
REV t : Doanh thu thuần năm t
PPEt là nguyên giá của tài sản cố định hữu hình e Mô hình Jones điều chỉnh (1995)
Mô hình Jones (1991) trong nguyên gốc sử dụng phương trình hồi quy với hai biến chính là REV và PPE Theo nghiên cứu, giá trị REV đại diện cho sự biến động trong doanh thu.
Doanh thu thuần của doanh nghiệp trong kỳ kế toán phản ánh tình hình và môi trường hoạt động kinh doanh, là khoản mục khách quan không bị quản trị viên điều chỉnh Tuy nhiên, nghiên cứu chỉ ra rằng doanh thu thuần có thể bị ảnh hưởng bởi các khoản doanh thu ghi nhận không đúng niên độ và doanh thu khống Để khắc phục hạn chế này, các nhà nghiên cứu đã bổ sung biến ∆REC nhằm loại bỏ tác động của doanh thu dồn tích từ khoản phải thu khách hàng, giúp giá trị doanh thu thuần phản ánh chính xác hơn môi trường kinh doanh trong năm.
REC t : Khoản phải thu năm t f Mô hình của Kothari và cộng sự (2005)
Kothari, Leone và Wasley (2005) đã mở rộng mô hình của Jones (1991) và Dechow, Sloan và Sweeney (1995) bằng cách xem xét biến kết quả hoạt động Mục tiêu của nghiên cứu là phân tích mối quan hệ tuyến tính giữa biến dồn tích và kết quả hoạt động.
Mô hình tuyến tính có xem xét kết quả hoạt động của Kothari, Leone and Wasley
Trong đó : ROA t-1 : Tỷ suất lợi nhuận trên tài sản của năm t-1
2.2.2.2 Dựa trên phân bổ hoặc dịch chuyển thời gian các khoản chi phí
Các công ty có thể điều chỉnh lợi nhuận thông qua việc phân bổ chi phí cho các hoạt động gia tăng giá trị, chuyển dịch chi phí sau thuế, hoặc dịch chuyển chi phí và doanh thu giữa các chi nhánh, công ty con ở các khu vực có mức thuế suất và chính sách kế toán khác nhau Mục tiêu của những chiến lược này là tối ưu hóa lợi nhuận và chi phí thuế dựa trên chiến lược công bố thông tin.
Hầu hết các báo cáo kết quả kinh doanh đều nêu rõ thu nhập từ hoạt động kinh doanh chính và các khoản thu nhập khác Khi người sử dụng báo cáo chú trọng đến các khoản thu nhập ngoài hoạt động kinh doanh chính, các công ty có thể chuyển đổi chi phí từ hoạt động sản xuất chính sang các hoạt động khác, từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động và gia tăng giá trị công ty.
2.2.2.3 Thông qua công bố thông tin
Balsam và cộng sự (2003) đã phát hiện rằng lợi nhuận của các công ty bị điều chỉnh thường xảy ra ở những công ty công bố thông tin về chi phí phát hành chứng khoán ưu đãi cho nhân viên Đồng thời, Schrand và Walther (2000) cũng chỉ ra rằng các nhà quản lý thường áp dụng chiến lược công bố lợi nhuận vào các giai đoạn khác nhau nhằm phù hợp với dự đoán và mong đợi của thị trường.
Các lý thuy ế t c ơ s ở
Lý thuy ế t đạ i di ệ n (Agency Theory)
Lý thuyết người chủ - người đại diện (hay lý thuyết đại diện) phát triển trong bối cảnh quản trị kinh doanh liên quan đến hành vi của người chủ và người làm thuê thông qua hợp đồng Các nghiên cứu ban đầu tập trung vào vấn đề thông tin không hoàn hảo trong hợp đồng bảo hiểm Tuy nhiên, lý thuyết này chỉ thực sự thu hút sự chú ý từ năm 1976, với nội dung chính liên quan đến mối quan hệ giữa người chủ và người đại diện trong việc quản lý và quyết định.
Chủ thể (Principal) hay cổ đông (Shareholders) và người đại diện (Agents) hay nhà quản trị (Manager) tạo thành mối quan hệ đại diện, trong đó cổ đông ủy quyền cho người quản lý thực hiện công việc quản lý công ty và ra quyết định liên quan đến tài sản công ty Tuy nhiên, giữa hai bên luôn tồn tại xung đột lợi ích Lý thuyết đại diện chỉ ra rằng, mặc dù cả cổ đông và nhà quản trị đều mong muốn tối đa hóa lợi ích, nhưng người quản lý không nhất thiết hành động vì lợi ích tốt nhất của cổ đông Cổ đông quan tâm đến giá trị công ty và giá cổ phiếu, trong khi nhà quản trị thường ưu tiên lợi ích cá nhân như lương, thưởng và các phúc lợi khác.
Sự không đồng nhất lợi ích giữa cổ đông và nhà quản trị dẫn đến chi phí đại diện, hay còn gọi là "chi phí đại diện" Chi phí này cần thiết để duy trì mối quan hệ đại diện hiệu quả và bằng không khi cổ đông cũng là Giám đốc công ty, đặc biệt khi Giám đốc sở hữu toàn bộ vốn Chi phí đại diện gia tăng khi Giám đốc sở hữu ít hoặc không có cổ phần trong công ty Các thành phần của chi phí đại diện bao gồm chi phí giám sát, chi phí ràng buộc và chi phí cơ hội.
Chi phí giám sát (Monitoring cost) là khoản chi mà người chủ phải trả để đo lường và kiểm tra hoạt động của người đại diện, bao gồm chi phí kiểm toán, chi phí cho hoạt động giám sát, chi phí ký hợp đồng bồi hoàn và chi phí sa thải người đại diện Mặc dù ban đầu người chủ chịu trách nhiệm về những chi phí này, nhưng theo Fama và Jensen (1983), cuối cùng người đại diện sẽ gánh chịu vì lương, thưởng và các ưu đãi của họ sẽ bị điều chỉnh để bù đắp cho những chi phí đó.
Chi phí ràng buộc là chi phí cần thiết để thiết lập một hệ thống quản lý nhằm giảm thiểu các hành vi không mong muốn, như việc bổ nhiệm thành viên bên ngoài vào ban điều hành hoặc tái cấu trúc tổ chức công ty Nếu người đại diện phải chịu trách nhiệm về chi phí giám sát và có khả năng xây dựng hệ thống hoạt động để tối đa hóa lợi nhuận cho cổ đông, họ sẽ phải đối mặt với bồi thường nếu vi phạm các điều khoản hợp đồng Do đó, chi phí để thiết lập và duy trì hệ thống này được gọi là chi phí ràng buộc.
Chi phí cơ hội (Residual loss) là chi phí phát sinh khi cổ đông thuê người đại diện, bao gồm thiệt hại do lạm dụng quyền lực của người đại diện, hạn chế quyền bỏ phiếu của cổ đông, và thiệt hại từ các biện pháp kiểm soát hoạt động của người đại diện Mặc dù có giám sát và ràng buộc, lợi ích của người đại diện và cổ đông không hoàn toàn đồng nhất, dẫn đến thiệt hại từ mâu thuẫn lợi ích Những thiệt hại này được gọi là chi phí cơ hội.
2.3.1.2 Áp dụng lý thuyết Đối với các công ty cổ phần nói chung và công ty niêm yết nói riêng, có sự tách biệt giữa quyền sở hữu và quản lý Chủ sở hữu các công ty cổ phần nay có xu hướng sẽ thuê một giám đốc đại diện cho mình điều hành công ty Chi phí đại diện sẽ luôn phát sinh và đây là chi phí không thể tránh khỏi khi Giám đốc và cổ đông luôn không đồng nhất về lợi ích như đã đề cập Người giám đốc điều hành này sẽ phải đáp ứng các yêu cầu mà các cổ đông đề ra như: được đào tạo một cách chuyên nghiệp, có năng lực điều hành công ty Ngược lại, hợp đồng đại diện này sẽ mang lại cho các giám đốc- người đại diện những lợi ích không nhỏ, họ có quyền ra quyết định và thực hiện các hoạt động mà được cho là sẽ đem lại lợi ích cho các cổ đông, họ được hưởng lương và các khoản lợi tức khác từ công việc quản trị công ty Khi bỏ tiền ra thuê người đại diện điều hành công ty, các cổ đông- chủ sở hữu- của công ty mong muốn mọi hoạt động của người đại diện đều nhằm mục đích tối đa hoá giá trị tài sản của công ty, gia tăng cổ tức Trong khi đó, người đại diện- người điều hành- của công ty lại có những lợi ích cá nhân riêng biệt, họ có thể trực tiếp quyết định hay ngụy tạo ra các lý do khiến cho các chủ sở hữu không thực hiện đầu tư vào những dự án có tỷ suất sinh lợi cao vì tâm lý e ngại rủi ro, hoặc quyết định đầu tư vào những dự án không đem lại lợi nhuận tối ưu cho công ty mà lại đem lại lợi nhuận cho riêng họ Trong khi đó các chủ sở hữu, nhà đầu tư, những người cần thông tin cho mục đích ra quyết định lại khó có cơ hội tiếp cận với thông tin Do đó, để kiểm soát hoạt động của doanh nghiệp, chủ sở hữu phải gia tăng các hoạt động giám sát dẫn đến việc gia tăng chi phí đại diện Tăng cường mức độ công bố và minh bạch thông tin sẽ làm sự giảm sự bất đối xứng thông tin giữa các cổ đông và nhà quản lý, do đó làm giảm chi phí đại diện
Lý thuyết đại diện giải thích sự minh bạch thông tin và thuyết minh tự nguyện của người điều hành công ty, theo nghiên cứu của Robert Bushman và Smith (2001) Hành vi của người đại diện, tức là nhà quản lý, trong việc gia tăng mức độ công bố thông tin phụ thuộc vào việc cân nhắc lợi ích và chi phí liên quan Khi hợp đồng giữa chủ sở hữu và nhà quản lý hiệu quả, lợi ích của nhà quản lý được đảm bảo, dẫn đến việc họ hành động vì lợi ích của chủ sở hữu.
Lý thuy ế t thông tin b ấ t cân x ứ ng
Lý thuyết thông tin bất cân xứng (Asymmetric Information) lần đầu tiên được giới thiệu vào những năm 1970 Đến năm 2001, các nhà nghiên cứu George Akerlof, Michael Spence và Jose Stiglitz đã được trao giải Nobel kinh tế vì những đóng góp quan trọng của họ trong lĩnh vực này.
Nghiên cứu của học giả kinh tế nổi tiếng Kyle (1985) đã định nghĩa thông tin bất cân xứng trên thị trường chứng khoán là tình trạng khi một hoặc nhiều nhà đầu tư có thông tin riêng hoặc nhiều thông tin công bố hơn về một công ty so với các nhà đầu tư khác Điều này có nghĩa là thông tin bất cân xứng xảy ra khi người mua và người bán sở hữu các thông tin khác nhau Tình trạng này xuất hiện trên thị trường khi một bên (bên mua hoặc bên bán) có lượng thông tin đầy đủ hơn về đặc tính sản phẩm.
Micheal Spence (1973) đã đề xuất giải pháp khắc phục tình trạng thông tin bất cân xứng thông qua cơ chế phát tín hiệu, cho phép bên có nhiều thông tin truyền đạt một cách trung thực đến bên ít thông tin Để phát tín hiệu chất lượng sản phẩm, người bán hàng hóa chất lượng cao thường phải áp dụng các biện pháp tốn kém hơn so với người bán hàng hóa kém chất lượng Ví dụ, các công ty nổi tiếng thường thực hiện các chiến dịch quảng cáo đắt tiền và duy trì chế độ bảo hành để khẳng định chất lượng sản phẩm Bên cạnh đó, các công ty niêm yết cũng duy trì tỷ lệ chi trả cổ tức bằng tiền mặt cao và ổn định, nhằm phát tín hiệu về khả năng quản lý dòng tiền và hiệu quả hoạt động của mình.
Sau hơn hai thập kỷ, lý thuyết về thông tin bất cân xứng đã chỉ ra rằng tình trạng này xảy ra khi các bên tham gia giao dịch không có cùng mức độ thông tin Cụ thể, ban điều hành công ty và cổ đông lớn thường nắm giữ nhiều thông tin hơn, tiếp cận thông tin sớm hơn hoặc dễ dàng hơn so với các nhà đầu tư nhỏ lẻ Thông tin bất cân xứng dẫn đến tình trạng thông tin không đầy đủ, không kịp thời, không tin cậy và không chính xác, tạo ra rào cản trong việc tiếp cận thông tin cho các nhà đầu tư khác Đây là biểu hiện rõ ràng của sự không minh bạch trên thị trường.
Thông tin bất cân xứng ảnh hưởng nghiêm trọng đến doanh nghiệp trong việc huy động vốn đầu tư và tác động tiêu cực đến thị trường chứng khoán Việc thiếu thông tin từ các tổ chức khiến nhà đầu tư không hiểu rõ tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, hoạt động mua bán chứng khoán và xu hướng thị trường, dẫn đến quyết định đầu tư không chính xác Quyền lợi của nhà đầu tư bị ảnh hưởng có thể dẫn đến sự đổ vỡ của thị trường chứng khoán.
Lý thuyết thông tin bất cân xứng giải thích việc phát tín hiệu ra thị trường và tăng cường công bố thông tin tích cực, giúp nhà đầu tư phân biệt giữa chứng khoán tốt và xấu của các công ty cổ phần đại chúng Teo đó, lý thuyết này cũng làm rõ ảnh hưởng của các yếu tố như hành vi điều chỉnh lợi nhuận của nhà quản lý, kết quả tài chính, hiệu quả sử dụng tài sản, tỷ suất đòn bẩy tài chính và mức độ tập trung quyền sở hữu đến tính minh bạch trong công bố thông tin tài chính của các công ty niêm yết.
Xác đị nh v ấ n đề nghiên c ứ u
Nghiên cứu này dựa trên cơ sở lý thuyết và tổng quan các nghiên cứu trước đây, cho thấy chưa có nghiên cứu nào tại Việt Nam xem xét mối tương quan giữa điều chỉnh lợi nhuận và khả năng hoạt động liên tục của doanh nghiệp Vì vậy, tác giả đề xuất một mô hình nghiên cứu để khám phá vấn đề này.
Hình 2.1 Mô hình nghiên cứu tổng quát Chi tiết các biến của mô hình, các giả thuyết sẽ được chi tiết trong nội dung của chương 3 luận văn này
Hành vi điều chỉnh lợi nhuận kế toán
Khả năng hoạt động liên tục
Qua nghiên cứu chương 2, tác giả đã tổng hợp và khái quát các vấn đề cơ bản liên quan đến khái niệm hoạt động liên tục và điều chỉnh lợi nhuận.
Dựa trên các vấn đề chung từ nghiên cứu trước, tác giả nghiên cứu chỉ số Z-score để dự báo khả năng hoạt động liên tục và tình trạng phá sản của doanh nghiệp Bằng cách kết hợp mô hình Z-score với việc điều chỉnh lợi nhuận, tác giả tìm hiểu tác động của điều chỉnh lợi nhuận đến khả năng hoạt động liên tục, làm nền tảng cho nghiên cứu trong chương 3.
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Mô t ả t ổ ng th ể và m ẫ u nghiên c ứ u
Mô t ả t ổ ng th ể
Thị trường chứng khoán Việt Nam chính thức hoạt động từ tháng 7/2000 và đã trải qua 15 năm phát triển với số lượng công ty niêm yết ngày càng tăng trên hai sàn HOSE và HNX Thị trường chứng khoán đã trở thành kênh huy động vốn hiệu quả, với tỷ lệ vốn huy động qua thị trường đạt khoảng 60% so với cung tín dụng từ ngân hàng, tăng mạnh từ mức 11% vào năm 2010 Đến hết tháng 8/2015, có 697 công ty niêm yết, trong đó 385 công ty trên HNX và 312 công ty trên HOSE Tuy nhiên, số lượng công ty bị hủy niêm yết cũng gia tăng, với 120 công ty bị hủy niêm yết từ năm 2012 đến 30/06/2015, trong đó có 78 công ty trên HNX và 42 công ty trên HOSE.
M ẫ u nghiên c ứ u
Nguồn: Mẫu khảo sát là các báo tài chính trong giai đoạn từ năm 2010 đến 2014 được thu thập từ website www.finance.vietstock.vn và www.s.cafef.vn)
Trong giai đoạn từ năm 2012 đến 30/06/2015, có 80 công ty bị hủy niêm trên thị trường chứng khoán Việt Nam đã công bố đầy đủ báo cáo tài chính hợp nhất trên các trang web liên quan.