1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

PHÂN TÍCH XU HƯỚNG CHỌN NGÀNHCỦA THÍ SINH TRONG CÁC KÌ THI ĐẠIHỌC

46 20 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 46
Dung lượng 241,45 KB

Cấu trúc

  • Ý KIẾN CỦA NGƯỜI HƯỚNG DẪN

  • DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

  • DANH MỤC BẢNG BIỂU, BẢNG VẼ

  • LỜI MỞ ĐẦU:

  • TÓM TẮT

  • PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

  • KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

  • 1. HIỆN TRẠNG XU HƯỚNG CHỌN NGÀNH CỦA CÁC THÍ SINH TRONG KÌ THI ĐẠI HỌC - CAO ĐẲNG TRONG GIAI ĐOẠN 2008-2012:

    • 1.1 Về nhóm ngành kinh tế:

    • 1.2 Về nhóm ngành Kỹ thuật – Công nghệ:

    • 1.3 Về nhóm ngành Y Dược

    • 1.4 Về nhóm ngành Xã hội

    • 1.5 Về nhóm ngành luật, sư phạm:

    • 1.6 Nhóm ngành nông – lâm – ngư:

  • 2. NHỮNG NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN XU HƯỚNG CHỌN NGÀNH CỦA THÍ SINH ĐẠI HỌC - CAO ĐẲNG GIAI ĐOẠN 2008- 2012

    • 2.1 Nguyên nhân chủ quan

    • 2.2. Nguyên nhân khách quan

      • 2.2.1 Gia đình

      • 2.2.2 Tình hình kinh tế và các chính sách:

  • 3. NHỮNG HẬU QUẢ TỪ XU HƯỚNG CHỌN NGÀNH CỦA THÍ SINH THI ĐẠI HỌC VÀ CAO ĐẲNG TRONG GIAI ĐOẠN 2008-2012

    • 3.1 Tỉ lệ chọi của các ngành không đồng đều

    • 3.2 Chất lượng học sinh đầu vào không đều giữa các trường

    • 3.3 Chất lượng đầu ra không đảm bảo

    • 3.4 Ảnh hưởng tới các ngành nói riêng và ngành giáo dục nói chung

    • 3.5 Tăng tỉ lệ thất nghiệp của nhiều ngành, hiện trạng thừa thầy thiếu thợ tràn lan

  • 4. NHỮNG GIẢI PHÁP ĐƯỢC ĐỀ RA CHO VIỆC CHỌN LỰA NGÀNH NGHỀ PHÙ HỢP:

    • 4.1.Đánh giá tầm quan trọng của việc chọn ngành nghề tuyển sinh Đại học, cao đẳng phù hợp với khả năng và nguyện vọng của thí sinh:

    • 4.2.Giải pháp vận dụng việc phân tích xu hướng chọn ngành nghề trong kì thi tuyển sinh Đại học, Cao đẳng từ năm 2008 đến 2011 đối với kì thi tuyển sinh

      • 4.2.2 Về phía thí sinh và gia đình:

    • 4.3 Dự đoán xu hướng chọn ngành của thí sinh trong kì thi tuyển sinh Đại học, Cao đẳng trong năm 2013:

  • KẾT LUẬN

    • 1. Thực trạng:

    • 2. Nguyên nhân:

    • 3.Kết quả:

    • 4.Giải pháp:

  • TÀI LIỆU THAM KHẢO:

  • PHỤ LỤC

Nội dung

HIỆN TRẠNG XU HƯỚNG CHỌN NGÀNH CỦA CÁC THÍ SINH TRONG KÌ

Về nhóm ngành kinh tế

Trong giai đoạn 2009 – 2010, các kỳ thi tuyển sinh đại học, cao đẳng tại Việt Nam chịu ảnh hưởng lớn từ những thay đổi kinh tế và xã hội Đặc biệt, đây là những năm đầu tiên sau khi Việt Nam gia nhập WTO, dẫn đến nhiều chuyển biến quan trọng trong kinh tế và chính sách đầu tư phát triển Những yếu tố này đã tác động đáng kể đến tỷ lệ thí sinh đăng ký vào các khối ngành kinh tế.

Theo thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo năm 2009, ngành kinh tế - quản trị kinh doanh thu hút 814.072 thí sinh đăng ký, chiếm 38% tổng số hồ sơ dự thi.

Năm 2010, dù tổng số hồ sơ đăng ký giảm mạnh (30%) tuy nhiên khối ngành kinh tế vẫn chiếm tỉ lệ áp đảo so với các khối ngành khác

Theo số liệu từ 7 trường, khoa thuộc ĐH Quốc gia Hà Nội trong năm học 2009 – 2010, Đại học Kinh Tế luôn dẫn đầu về tỉ lệ chọi, với 1/21.78 vào năm 2009 và 1/8 vào năm 2010.

Sự áp đảo của khối ngành Kinh tế - Tài chính - Ngân hàng được thể hiện qua mức điểm chuẩn cao nhất của các trường hàng đầu trong khối ngành Kỹ thuật - Công nghệ, vẫn chưa đạt bằng mức điểm chuẩn thấp nhất vào các trường top trong khối ngành này Cụ thể, điểm chuẩn thấp nhất của Đại học Ngoại Thương là 23,5 (gần 8 điểm/môn), trong khi Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội là 22,5 điểm, Học viện Ngân hàng và Học viện Tài chính đều có điểm chuẩn là 22 điểm Trong khi đó, điểm chuẩn cao nhất vào Đại học Bách khoa Hà Nội lại thấp hơn so với các trường trong khối ngành Kinh tế.

Điểm chuẩn của các trường đại học năm nay gồm: ĐH Bách khoa TP.HCM đạt 21,5 điểm, ĐH Khoa học Tự nhiên Hà Nội 20 điểm, ĐH Khoa học Tự nhiên TP.HCM 18 điểm, và ĐH Công nghệ (ĐHQG Hà Nội) 20,5 điểm.

Trong những năm gần đây, đặc biệt là năm 2009, có sự thay đổi đáng kể trong xu hướng lựa chọn ngành học của thí sinh Trong khi trước đây, các trường khối Kỹ thuật thu hút nhiều thí sinh điểm cao và thủ khoa, thì hiện nay, các trường như ĐH Ngoại Thương và ĐH Kinh tế quốc dân Hà Nội đang nổi bật Điều này phản ánh sự chuyển dịch trong ước mơ nghề nghiệp của học sinh giỏi từ lĩnh vực Kỹ thuật - Công nghệ sang Kinh tế - Tài chính.

Trong khối ngành kinh tế, ngân hàng và kinh doanh luôn dẫn đầu về điểm chuẩn Tại Khoa Kinh tế - ĐH Quốc gia TPHCM, ngành quản trị kinh doanh đạt điểm chuẩn cao từ 19 đến 19,5 trong các năm 2007 đến 2010, trong khi ngành tài chính – ngân hàng có điểm chuẩn từ 18 đến 22 Tại Trường ĐH Sài Gòn, hai ngành này cũng đứng đầu với mức điểm chuẩn 17 vào năm 2009 (khối D1).

Ngành tài chính ngân hàng tại Trường ĐH Kinh tế - ĐH Huế đã cho thấy sự cạnh tranh cao khi liên tục dẫn đầu về điểm chuẩn trong hai năm 2008 và 2009, với mức điểm lần lượt là 21 - 19 (khối A) và 21 - 18 (khối B).

D) Quản trị kinh doanh có mức điểm trúng tuyển khá cao: 17 – 15,5 (khối A), 16 – 15,5 (khối D) Tại Trường ĐH Kinh tế - ĐH Đà Nẵng, ngành ngân hàng cũng chiếm vị trí số 1 về điểm chuẩn năm 2009 với 21,5 điểm, kế đến là nhóm ngành quản trị kinh doanh có điểm chuẩn các ngành quản trị kinh doanh tổng quát (19), quản trị kinh doanh du lịch và dịch vụ (17,5), quản trị kinh doanh quốc tế (18,5), quản trị kinh doanh thương mại (17,5). Ở các trường ngoài công lập, 2 ngành học trên cũng “đắt hàng” Năm 2009, tại Trường ĐH Hoa Sen, dẫn đầu về điểm chuẩn là ngành quản trị kinh doanh và tài chính ngân hàng với 18 điểm và lần lượt 15, 16 điểm vào năm 2010.

Năm 2011, thí sinh có nhiều cơ hội lựa chọn ngành học hơn, với sự thay đổi trong xu thế chọn ngành, nhưng nhóm ngành kinh doanh vẫn được ưa chuộng nhất Kết quả tuyển sinh ba năm gần nhất cho thấy nhóm ngành này luôn chiếm thứ hạng cao trong sự lựa chọn của thí sinh Tuy nhiên, tỷ lệ thí sinh dự thi vào nhóm ngành kinh doanh năm 2011 giảm xuống còn 10,98%, so với 12,4% tổng số thí sinh trong năm 2010.

Năm 2012, mặc dù số lượng hồ sơ đăng ký dự tuyển vào các trường Đại học và Cao đẳng khối ngành kinh tế giảm, nhưng lĩnh vực này vẫn thu hút nhiều thí sinh và chiếm tỷ lệ cao nhất trong tổng số hồ sơ đăng ký.

Trường Đại học Thương mại luôn thu hút một lượng lớn hồ sơ đăng ký dự thi hàng năm Năm nay, ông Nguyễn Hóa, trưởng phòng đào tạo của trường, cho biết trường đã nhận khoảng 2.000 hồ sơ, trong đó ngành Tài chính - Ngân hàng và Kế toán là những ngành có số lượng hồ sơ cao nhất Trường cũng đã quy định mức điểm sàn theo từng khối và xây dựng điểm chuẩn theo từng ngành học, tạo nhiều cơ hội xét tuyển cho thí sinh.

GS Nguyễn Quang Đông, trưởng phòng đào tạo trường ĐH Kinh tế Quốc dân, cho biết trường đã nhận khoảng 1.000 hồ sơ ĐKDT và dự kiến tổng số hồ sơ ĐKDT năm nay sẽ đạt trên 20.000, tương đương với năm trước Các ngành có lượng hồ sơ đông nhất là Kế toán, Tài chính ngân hàng, Kinh tế và Quản trị kinh doanh, do nhu cầu xã hội đối với những ngành này vẫn rất cao.

Trường ĐH Ngoại thương, theo bà Lê Thị Thu Thủy trưởng phòng đào tạo, đến ngày cuối trường nhận được khoảng 800 bộ hồ sơ, tương đương với năm trước

Về nhóm ngành Kỹ thuật – Công nghệ

Ngành công nghệ kỹ thuật được coi là một lĩnh vực tiềm năng và thuận lợi cho sinh viên mới ra trường trong việc tìm kiếm việc làm Năm 2010, lĩnh vực này có số lượng chỉ tiêu cao nhất với 142.750 sinh viên, chiếm 25% tổng số chỉ tiêu đào tạo.

Công nghệ thông tin từng là ngành hot trong suốt một thập kỷ, mặc dù hiện tại không còn sức hút mạnh mẽ như trước, nhưng vẫn thu hút nhiều thí sinh lựa chọn.

2009, có hơn 100.000 thí sinh đăng kí dự thi ngành công nghệ thông tin, chiếm 5% tổng hồ sơ dăng ký dự thi cả nước.

Một số ngành trong lĩnh vực xây dựng – kỹ thuật thường gặp khó khăn trong việc tuyển sinh Tuy nhiên, các trường đại học có thế mạnh như Đại học Bách Khoa (ĐHQG) vẫn thu hút được nhiều thí sinh quan tâm đến các ngành này.

Trường ĐH Bách Khoa Đà Nẵng, ĐH Bách Khoa Hà Nội và ĐHQG TP.HCM duy trì ổn định nguồn tuyển sinh với khoảng 20% thí sinh lựa chọn mỗi năm Ngành xây dựng của Trường ĐH Bách Khoa (ĐHQG TP.HCM) nổi bật với tỉ lệ "chọi" cao nhất trong tuyển sinh năm 2010 Đặc biệt, ngành xây dựng cầu đường của Trường ĐH Giao thông vận tải TP.HCM ghi nhận tỉ lệ "chọi" lên đến 1/21, trong khi tỉ lệ "chọi" trung bình của trường chỉ là 1/7.

Theo thống kê năm 2011, các ngành công nghệ và kỹ thuật đang giảm sức hút với thí sinh Tại các trường như ĐH Bách khoa TPHCM, ĐH Khoa học Tự nhiên TPHCM, ĐH Công nghệ (ĐH Quốc gia Hà Nội), ĐH Công nghiệp TPHCM, ĐH Công nghiệp Hà Nội, và ĐH Sư phạm Kỹ thuật TPHCM, tỷ lệ “chọi” chỉ ở mức 1 “chọi” 3 đến 1 “chọi” 5, cho thấy sự cạnh tranh không quá gay gắt trong các ngành này.

Tiến sĩ Nguyễn Văn Thư, Hiệu trưởng Trường ĐH Giao thông Vận tải TPHCM, cho biết rằng trong vài năm qua, các chuyên ngành kỹ thuật và công nghệ tại hầu hết các trường gặp khó khăn trong việc tuyển sinh Tuy nhiên, đến năm 2012, nhóm ngành kỹ thuật công nghệ đã có những chuyển biến tích cực.

Tại Trường ĐH Bách khoa Hà Nội, hồ sơ đăng ký dự thi tăng 1.500 bộ so với năm

Năm 2011, số hồ sơ đăng ký vào các trường đại học tăng lên, chủ yếu do sự gia tăng từ nguyện vọng thi khối A1 Cụ thể, có 19.000 bộ hồ sơ cho 5.200 chỉ tiêu, tạo ra tỷ lệ “chọi” gần 1/4 Mặc dù tỷ lệ này không hoàn toàn phản ánh mức độ cạnh tranh, nhưng theo kinh nghiệm hàng năm, thí sinh thường đã có sự đánh giá chính xác về khả năng của bản thân trước khi nộp hồ sơ.

Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông năm nay không chỉ tuyển sinh khối A và nhận thí sinh "thi nhờ" khối D, mà còn bổ sung tuyển sinh khối A1 cho tất cả sáu ngành đại học và bốn ngành cao đẳng Ông Đặng Văn Tùng từ phòng đào tạo cho biết, số hồ sơ dự thi vào trường năm 2012 đã tăng khoảng 15%.

Về nhóm ngành Y Dược

Khối B có tổng chỉ tiêu tuyển sinh thấp hơn so với số lượng thí sinh, dẫn đến tỷ lệ chọi cao ở các ngành và trường Trong những năm gần đây, điểm chuẩn vào các ngành y dược tại các trường thuộc khối này luôn ở mức rất cao.

Mặc dù mức điểm chuẩn cao tại các trường đại học như ĐH Y Hà Nội không ảnh hưởng nhiều đến tỉ lệ thí sinh đăng ký, nhưng vẫn thu hút đông đảo học sinh có học lực giỏi đến xuất sắc Cụ thể, năm 2009, ĐH Y Hà Nội nhận được 8.546 hồ sơ, với tỉ lệ chọi 1/10, và năm 2010, con số này tăng lên 15,93 hồ sơ, tương đương tỉ lệ chọi 1/15,93.

Tuy nhiên nhóm ngành kén thí sinh nhất này năm 2011 đã nhảy lên vị trí thứ 7, tăng 1,2 lần so với năm 2010

Các ngành học thuộc lĩnh vực y dược luôn thu hút thí sinh với điểm chuẩn đầu vào cao Năm nay, hơn 27.000 thí sinh đăng ký dự thi để cạnh tranh cho 1.600 chỗ học tại Trường ĐH Y dược TPHCM, điều này cho thấy sự quan tâm lớn đối với ngành y dược trong bối cảnh tuyển sinh.

Nhiều thí sinh mơ ước trở thành bác sĩ đa khoa nhưng do khả năng hạn chế đã chọn các ngành khác như điều dưỡng, bác sĩ y học dự phòng hay xét nghiệm Gần đây, những ngành này lại thu hút đông đảo thí sinh đăng ký.

Năm vừa qua, ngành điều dưỡng Trường ĐH Y Dược TPHCM dù chỉ tiêu chỉ

Năm nay, ngành y tế ghi nhận sự gia tăng mạnh mẽ trong số lượng hồ sơ đăng ký dự thi, với 3.612 hồ sơ cho chỉ tiêu 120 Ngành bác sĩ y học dự phòng có 1.100 hồ sơ đăng ký cho chỉ tiêu 100, trong khi ngành xét nghiệm chỉ có 60 chỉ tiêu nhưng nhận tới 1.367 hồ sơ Tại Khoa Y thuộc ĐH Quốc gia TPHCM, mặc dù chỉ tiêu là 100, số hồ sơ đăng ký đã lên đến 1.799, khiến điểm chuẩn tăng lên 23,5, cao hơn 3 điểm so với năm 2010 Ở miền Trung, trường ĐH Y khoa (ĐH Huế) cũng có tỷ lệ "chọi" cao nhất trong các trường ĐH thành viên, với các ngành như Y sĩ đa khoa đạt tỷ lệ 1/87,2, Điều dưỡng 1/33,32 và Kỹ thuật y học 1/22,54.

Các trường đại học y như ĐH Y Thái Bình và ĐH Y Hải Phòng có tỷ lệ chọi cao, dao động từ 1/17 đến 1/20 Tương tự, ĐH Y Hà Nội cũng ghi nhận tỷ lệ chọi 1/16, cho thấy sự cạnh tranh lớn trong việc tuyển sinh vào các trường y.

Về nhóm ngành Xã hội

Khối ngành khoa học xã hội không có nhiều biến động trong giai đoạn 2009 –

Báo chí – truyền thông tiếp tục dẫn đầu trong khối ngành này, nhờ sự phát triển kinh tế và bùng nổ thông tin, tạo nên vị trí quan trọng cho nghề báo trong các trường đại học Điều này được thể hiện rõ qua điểm chuẩn của ngành tại nhiều trường, cho thấy khả năng tìm việc làm cao.

Tại Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn TPHCM, ngành báo chí và truyền thông luôn dẫn đầu về điểm chuẩn Cụ thể: năm 2009 khối C, D1: 19, năm

Năm 2009, ngành báo chí của Trường ĐH Khoa học – ĐH Huế đạt điểm chuẩn cao thứ hai trong khối C với 16 điểm, chỉ sau ngành luật với 17,5 điểm.

Tại Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn – ĐH Quốc gia Hà Nội, ngành học báo chí có điểm chuẩn cao, với khối C năm 2009 đạt 19,5 và khối D1 là 20, trong khi năm 2010 điểm chuẩn khối C và D1 đều là 18 Tương tự, Học viện Báo chí và Tuyên truyền cũng yêu cầu điểm chuẩn cao cho các ngành báo chí, cụ thể năm 2009, điểm chuẩn cho báo in là 21 (khối C) và 18,5 (khối D1); báo ảnh là 19 (khối C) và 17 (khối D1); báo phát thanh 21 (khối C) và 17,5 (khối D1); báo truyền hình 21 (khối C) và 18,5 (khối D1); và quay phim truyền hình là 20,5 (khối C) và 17 (khối D1).

Khối ngành Ngoại ngữ từng thu hút nhiều thí sinh nhưng hiện nay lại rơi vào tình trạng ít được quan tâm, đặc biệt là các ngành không phải tiếng Anh Tại những trường top, tình hình vẫn khả quan, trong khi các trường ngoài công lập gặp khó khăn, nhiều ngành buộc phải tạm ngừng tuyển sinh do số lượng sinh viên đăng ký quá thấp, không đủ điều kiện mở lớp.

Ngành Tiếng Nhật tại ĐH Hùng Vương đã nhiều năm gặp tình trạng thiếu hồ sơ xét tuyển Tương tự, các ngành tiếng Đức, tiếng Trung, tiếng Pháp và Trung Quốc học tại ĐH Ngoại ngữ - Tin học cũng phải tạm ngừng tuyển sinh do số lượng thí sinh đăng ký quá ít Những thí sinh trúng tuyển được khuyến khích chuyển sang các ngành học khác trong trường.

Các ngành nghề trong nhóm ngành xã hội, như công tác xã hội và môi trường, đang ngày càng trở nên cần thiết nhưng vẫn chưa nhận được sự quan tâm thích đáng, dẫn đến tỷ lệ lựa chọn thấp cho những lĩnh vực này.

Trong giai đoạn 2011-2012, số lượng thí sinh nộp hồ sơ vào các trường thuộc khối ngành xã hội giảm đáng kể Ông Đinh Việt Hải, Phó phòng Đào tạo Trường ĐH Khoa học xã hội và nhân văn (ĐH Quốc gia Hà Nội), cho biết ngành triết học và thông tin thư viện là hai ngành ít thí sinh lựa chọn nhất, với mỗi ngành chỉ tuyển được vài chục thí sinh Trong khi đó, Trường ĐH Khoa học xã hội và nhân văn (ĐH Quốc gia TP.HCM) nhận gần 800 hồ sơ, chủ yếu từ khối D, trong khi chỉ khoảng 1/3 là từ khối C, theo Tiến sĩ Phạm Tấn Hạ, Trưởng phòng Đào tạo của trường Mặc dù vậy, thí sinh vẫn quan tâm đến các ngành như báo chí, ngữ văn Anh, quan hệ quốc tế, và tâm lý học, đặc biệt là ngành công tác xã hội, với số hồ sơ tăng lên so với các năm trước.

Về nhóm ngành luật, sư phạm

Số lượng thí sinh đăng ký vào ngành luật và sư phạm đang có xu hướng giảm Cụ thể, trong năm 2010, trường ĐH Luật TP.HCM ghi nhận giảm gần 3000 hồ sơ đăng ký dự thi.

10000 hồ sơ với con số 13.200 cả năm 2009.

Số lượng đăng ký vào nhóm ngành sư phạm – quản lý giáo dục đang có xu hướng giảm mạnh qua từng năm, với mức giảm rõ rệt nhất xảy ra vào năm gần đây.

2010 trong khi chỉ tiêu tăng mỗi năm từ 2,4 – 13,7% Cụ thể là ĐH Sư phạm TP.HCM, giảm từ 24.000 hồ sơ năm 2009 còn 15.000 hồ sơ năm 2010.

Trong khi một số ngành ngoài sư phạm có hồ sơ đăng ký tăng lên so với năm 2011, nhiều ngành sư phạm, đặc biệt là ngoại ngữ, lại ghi nhận sự giảm sút đáng kể Cụ thể, các ngành sư phạm như tin học, vật lý, hóa học và sinh học đều có số hồ sơ đăng ký dự thi giảm mạnh Tình hình càng trở nên đáng lo ngại hơn khi nhiều ngành sư phạm và cử nhân khác chỉ có số hồ sơ đăng ký rất thấp so với chỉ tiêu.

Ngành giáo dục quốc phòng an ninh hiện có 120 chỉ tiêu tuyển sinh nhưng chỉ nhận được 12 hồ sơ đăng ký Các chuyên ngành như sư phạm tiếng Nga, tiếng Pháp, vật lý và văn học quốc tế cũng đều có số hồ sơ thấp hơn chỉ tiêu được giao.

Tại ĐH Đà Nẵng, tình hình tuyển sinh các ngành sư phạm tại Trường ĐH Sư phạm có triển vọng tốt hơn, trong khi đó, Trường ĐH Ngoại ngữ lại gặp khó khăn khi hồ sơ vào nhiều ngành ngoại ngữ, đặc biệt là các ngành sư phạm tiếng Pháp, Trung, cùng với ngôn ngữ Nga và Thái Lan, đều có số lượng hồ sơ thấp hơn chỉ tiêu Thí sinh đăng ký vào những ngành này sẽ không phải đối mặt với sự cạnh tranh từ các thí sinh khác.

Tại Trường ĐH Bách khoa, ngành sư phạm kỹ thuật công nghiệp chỉ nhận được 40 hồ sơ, trong khi chỉ tiêu của ngành này là 60 Tương tự, ngành sư phạm tiếng Pháp tại Trường ĐH Cần Thơ cũng rơi vào tình trạng tương tự khi chỉ có 26 hồ sơ đăng ký, trong khi chỉ tiêu là 40.

Năm 2012, số lượng hồ sơ đăng ký dự thi vào ngành sư phạm tăng mạnh, đặc biệt tại trường ĐH Sư phạm Hà Nội 2 với 10.000 hồ sơ, so với 7.500 hồ sơ năm trước Trong khi đó, chỉ tiêu tuyển sinh của trường chỉ có 2.500.

Trao đổi với Dân trí, ông Đinh Văn Dũng, trưởng phòng đào tạo nhà trường cho biết:

Sự gia tăng đáng kể số lượng hồ sơ năm nay là một tín hiệu tích cực, cho thấy trường có nhiều cơ hội lựa chọn những thí sinh có chất lượng tốt.

Theo ông Dũng, ngành Mầm non và Tiểu học hiện đang có số lượng hồ sơ đông đảo nhất, dẫn đến việc điểm chuẩn của hai ngành này thường cao hơn so với các ngành khác.

Trường ĐH Vinh năm nay đã nhận 20.100 bộ hồ sơ, trong đó có 3.495 bộ đăng ký vào 14 ngành sư phạm, tăng hơn vài trăm bộ so với năm trước.

Trường ĐH Sư phạm Hà Nội năm nay số lượng hồ sơ cũng tăng gần 1.000 so với năm trước với tổng số hồ sơ là 16.300 bộ.

Trường ĐH Sư phạm TP.HCM năm nay nhận được 18.361 bộ hồ sơ, tăng 500 bộ so với năm 2011

Nhóm ngành nông – lâm – ngư

Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, cả nước hiện có 13 trường đại học, cao đẳng đào tạo về nông lâm nghiệp, nhưng số lượng cử nhân, kỹ sư ra trường hàng năm không đủ đáp ứng nhu cầu xã hội Mặc dù lĩnh vực nông, lâm nghiệp chiếm hơn 75% dân số và đóng góp khoảng 25% GDP, nhiều thí sinh, đặc biệt là những học sinh giỏi, lại "né" ngành này Nhiều chuyên ngành trong khối nông, lâm nghiệp đang gặp khó khăn, với một số ngành không thể mở lớp trong 4 năm liên tiếp do thiếu sinh viên Ví dụ, Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên có 13.000 thí sinh đăng ký, nhưng chỉ khoảng 1.600 thí sinh đạt điểm sàn Điểm chuẩn của nhiều ngành không vượt qua mức sàn của Bộ Giáo dục và Đào tạo, dẫn đến tình trạng không tuyển đủ chỉ tiêu Đáng lo ngại, khoảng 20% sinh viên năm nhất đã chuyển trường sau năm học đầu tiên Mặc dù nhóm ngành nông, lâm nghiệp có tổng chỉ tiêu gần bằng hai nhóm ngành kỹ thuật - công nghệ và kinh tế - tài chính - ngân hàng, nhưng số lượng thí sinh đăng ký lại chênh lệch lớn.

2009, tổng số thí sinh đăng ký nhóm ngành này chỉ chiếm 5%

Năm 2012, ngành nông lâm đã thu hút sự quan tâm đáng kể từ học sinh, với gần 80.000 hồ sơ được Sở GDĐT Thanh Hoá chuyển cho 260 trường ĐH, CĐ Số lượng hồ sơ của khối ngành nông lâm chiếm tỷ lệ lớn hơn so với năm trước, cho thấy sự gia tăng đáng kể trong sự lựa chọn của học sinh.

Trong số 10 trường đại học có lượng hồ sơ cao nhất, Đại học Nông nghiệp Hà Nội đứng thứ hai với 6.313 hồ sơ Ông Nguyễn Văn Long, Phó phòng Giáo dục chuyên nghiệp của Sở GDĐT Thanh Hóa, cho biết rằng số lượng hồ sơ trong khối ngành này đã tăng đáng kể so với những năm trước, cho thấy các thí sinh đã có định hướng nghề nghiệp rõ ràng hơn và không còn chạy theo những ngành học đang bị cảnh báo về tình trạng dư thừa lao động như kinh tế, tài chính và ngân hàng.

Bà Trần Thị Truyền, Phó phòng Giáo dục chuyên nghiệp thuộc Sở GDĐT Vĩnh Phúc, cho biết rằng trong tổng số 23.539 hồ sơ của tỉnh, trường ĐH Sư phạm Hà Nội 2 nhận được số hồ sơ nhiều nhất, với 2.500 bộ.

Tại Sở GDĐT Nam Định, Trường ĐH Sư phạm Hà Nội chiếm 1.471 hồ sơ, ĐH

Sư phạm Hà Nội 2 là 403 hồ sơ, ĐH Nông nghiệp Hà Nội là 3.917 hồ sơ, ĐH Lâm nghiệp là 587 hồ sơ.

Lãnh đạo Trường ĐH Sư phạm Hà Nội 2 vui mừng thông báo rằng năm nay trường đã nhận tổng cộng 10.000 hồ sơ đăng ký dự thi, trong đó có 9.800 hồ sơ từ các tỉnh và số hồ sơ thí sinh nộp trực tiếp, tăng gấp rưỡi so với năm 2011.

Bà Nguyễn Thị Thanh Hà, Trưởng phòng Giáo dục chuyên nghiệp của Sở GDĐT Hải Phòng, cho biết: “Khối ngành nông – lâm – ngư và sư phạm đang có sự trở lại tại Hải Phòng Chúng tôi, cùng với các trường THPT trong tỉnh, đã định hướng cho học sinh ưu tiên chọn những ngành này, vì đây là những lĩnh vực cần nhiều nhân lực chất lượng để thúc đẩy phát triển kinh tế địa phương.”

Khoảng thời gian 2008, ngành Kỹ thuật-Công nghệ thu hút nhiều thí sinh, nhưng đến năm 2009, các ngành Kinh tế trở nên phổ biến hơn, với nhiều hồ sơ nộp vào ĐH Ngoại thương, ĐH Kinh tế quốc dân và ĐH Bách khoa Mặc dù vậy, ngành Kỹ thuật-Công nghệ vẫn giữ được sức hút do tâm lý dễ tìm việc làm sau khi tốt nghiệp Các trường top như ĐH Y dược vẫn nhận được nhiều hồ sơ và có tỷ lệ chọi cao Ngành Xã hội, đặc biệt là Báo chí, cũng thu hút nhiều thí sinh nhờ sự phát triển của phương tiện truyền thông Ngược lại, các ngành Ngoại ngữ không phải tiếng Anh, cùng với công tác xã hội và môi trường, vẫn chưa được quan tâm Các ngành Sư phạm và Nông-lâm-ngư chứng kiến sự giảm sút về số lượng thí sinh, nhưng đến năm 2012, hồ sơ ĐKDT vào Sư phạm đã tăng vọt, cho thấy dấu hiệu khả quan cho ngành này.

NHỮNG NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN XU HƯỚNG CHỌN NGÀNH CỦA THÍ

Nguyên nhân chủ quan

Sở thích là một trong những nguyên nhân phổ biến khiến sinh viên chọn ngành học, khi họ thường có hứng thú với một lĩnh vực nào đó và tin rằng nó phù hợp với bản thân Điều này hoàn toàn bình thường, vì nó tạo động lực cho các bạn phấn đấu trong học tập và sự nghiệp.

Thích một lĩnh vực là điều quan trọng, nhưng theo đuổi nó thành công lại phụ thuộc vào năng lực của mỗi người Năng lực là yếu tố quyết định khả năng thành công trong ngành nghề mà bạn chọn Nhiều bạn trẻ thường chỉ chú ý đến sở thích mà bỏ qua năng lực, dẫn đến khó khăn trong việc học tập và làm việc sau này do không đủ khả năng tiếp thu kiến thức chuyên môn.

Quyết định chọn ngành học tiếp theo thường xuất phát từ nguyện vọng và khả năng của thí sinh, giúp họ phát huy thế mạnh và đạt thành công trong sự nghiệp Tuy nhiên, một vấn đề lớn là không phải lúc nào thí sinh cũng yêu thích ngành mình chọn Việc lựa chọn ngành nghề không phù hợp với sở thích có thể kìm hãm sự năng động và sáng tạo của bản thân Dù ngành học có phù hợp với năng lực, nếu không đúng với đam mê, thí sinh sẽ khó phát huy hết tiềm năng và niềm yêu thích trong công việc.

Việc cân bằng giữa sở thích và nguyện vọng là rất quan trọng khi chọn ngành nghề Bạn có thể yêu thích một ngành nhưng không có khả năng theo đuổi, hoặc ngược lại, có năng lực nhưng không đam mê Cả hai trường hợp đều không tốt cho tương lai Thay vì chỉ chọn ngành yêu thích hay có khả năng nhất, hãy tìm ngành nghề có yếu tố bạn yêu thích và có thể theo đuổi lâu dài Khi đó, bạn sẽ cảm nhận được niềm đam mê trong công việc và mở ra nhiều cơ hội thăng tiến hơn.

Tính tò mò và hiếu kỳ là một trong những nguyên nhân quan trọng ảnh hưởng đến việc chọn nghề của thí sinh Nhiều bạn trẻ thường không tìm hiểu kỹ về ngành nghề và năng lực bản thân, mà lại chọn theo số đông hoặc theo xu hướng hiện tại, thường là do bạn bè rủ rê Hiện tượng này khá phổ biến trong giới học sinh-sinh viên, đặc biệt khi các ngành nghề "nóng" thu hút nguồn nhân lực mà không xem xét đến khả năng và sở thích cá nhân Sự lựa chọn nghề nghiệp chỉ dựa trên cảm hứng nhất thời có thể dẫn đến quyết định sai lầm, khiến nhiều thí sinh nhận ra sau 2-4 năm học rằng họ đã chọn sai nghề Đây thực sự là một vấn đề ngày càng gia tăng trong cộng đồng học sinh - sinh viên.

Để giúp thí sinh lựa chọn ngành học khi vào đại học, việc tiếp cận thông tin là rất quan trọng Hiện nay, báo chí, truyền hình và đặc biệt là Internet đã tạo điều kiện thuận lợi cho thí sinh tìm kiếm thông tin về ngành nghề chỉ với một cú click Tuy nhiên, trong thời đại thông tin bùng nổ, việc tràn lan thông tin trên Internet gây khó khăn cho thí sinh trong việc chọn lựa nghề phù hợp Nhiều thông tin không được kiểm chứng hoặc chỉ là dự đoán không chính xác từ cá nhân trên mạng, dẫn đến việc học sinh – sinh viên có thể ghi vào nguyện vọng một cách thiếu suy nghĩ Điều này có thể gây ra nhiều phiền toái trong một thời điểm quan trọng của cuộc đời Do đó, lựa chọn nguồn thông tin đáng tin cậy sẽ mang lại sự an tâm cho thí sinh trước ngưỡng cửa đại học.

Bảng 2.1: Mức độ tham khảo ý kiến khi chọn nghề của học sinh THPT (khảo sát trên

Nhiều Trung bình Ít Điể m số TB

6 Những người đã học & làm trong nghề này

"XU HƯỚNG CHỌN NGHỀ CỦA HỌC SINH TRƯỜNG THPT TRỰC NINH A, TỈNH NAM ĐỊNH" – Đồng Thị Cúc, Triệu Thị Hậu, Nguyễn Thị Ly

Dựa vào bảng số liệu, có thể thấy rằng phần lớn học sinh quyết định lựa chọn nghề nghiệp dựa trên sở thích cá nhân, với tỷ lệ tham khảo chiếm tới 79,7% Bên cạnh đó, lời khuyên từ gia đình cũng đóng vai trò quan trọng, chiếm tỷ lệ 63,8%.

Tỉ lệ tham khảo ý kiến của thầy cô chỉ đạt 7,2%, cho thấy công tác hướng nghiệp tại trường chưa thực sự hiệu quả và chưa đủ quan tâm đến nhu cầu của học sinh.

Tỉ lệ học sinh tham khảo thông tin từ các nguồn đại chúng và chuyên gia trong lĩnh vực mình quan tâm chỉ ở mức trung bình, cho thấy sự tìm hiểu về thông tin nghề nghiệp của học sinh còn hạn chế.

Bảng 2.2: Đánh giá mức độ của các yếu tố quyết định đến việc chọn nghề của học sinh (khảo sát trên 101 học sinh )

Xếp hạng 7 4 1 3 2 5 8 6 Điểm số 2,5 5,16 6,52 6,25 6,46 3,69 2,43 3,15 Đánh giá mức độ quan trọng

Các yếu tố ảnh hưởng a b c d e f g h

Các yếu tố ảnh hưởng đến lựa chọn nghề nghiệp bao gồm nghề truyền thống gia đình, nghề phù hợp với điều kiện gia đình, sở thích cá nhân, khả năng của bản thân, cơ hội việc làm lớn, chi phí học thấp, thời gian học ngắn và xu hướng xã hội với nhiều người theo học.

"XU HƯỚNG CHỌN NGHỀ CỦA HỌC SINH TRƯỜNG THPT TRỰC NINH A, TỈNH NAM ĐỊNH" – Đồng Thị Cúc, Triệu Thị Hậu, Nguyễn Thị Ly

Nhận xét: Thật dễ hiểu khi học sinh quyết định lựa chọn nghề chủ yếu dựa vào ba yếu tố : sở thích, khả năng, và cơ hội việc làm.

Yếu tố quyết định đầu tiên trong việc chọn nghề là sở thích cá nhân, tiếp theo là cơ hội việc làm, và cuối cùng là khả năng thực hiện công việc Tuy nhiên, nhiều học sinh vẫn lo lắng về cơ hội việc làm mà không chú trọng đến năng lực của bản thân Điều này có thể dẫn đến sự chán nản và thất bại trong công việc Kết quả này phản ánh thực trạng hướng nghiệp tại các trường học còn thiếu sự quan tâm và hạn chế.

Yếu tố quyết định thứ năm là điều kiện gia đình, cho thấy sự phát triển của gia đình trong việc tạo ra môi trường thuận lợi và quan tâm đến nghề nghiệp cũng như tương lai của con cái.

Xu hướng xã hội đóng vai trò quan trọng trong việc lựa chọn nghề nghiệp, đứng ở vị trí thứ sáu trong các yếu tố quyết định Bên cạnh đó, các yếu tố truyền thống và thời gian học chỉ có ảnh hưởng nhỏ đến quyết định này Điều này cho thấy học sinh hiện nay đã có cái nhìn thực tế và rõ ràng hơn về nghề nghiệp tương lai của mình.

Nguyên nhân khách quan

Nguyên tố gia đình có ảnh hưởng lớn đến sự lựa chọn ngành nghề của thí sinh, bởi vì gia đình hiểu rõ tính cách và phẩm chất của họ hơn bất kỳ ai khác Điều kiện kinh tế gia đình cũng là yếu tố quan trọng, đặc biệt đối với học sinh ở các vùng nông thôn, nơi mà hoàn cảnh còn khó khăn Nhiều em có đam mê với ngành công nghệ thông tin nhưng lại thiếu điều kiện cần thiết như máy tính để thực hành, dẫn đến lo lắng trong việc theo đuổi ước mơ Hệ quả là nhiều em chọn ngành học chỉ vì lý do miễn giảm học phí, mặc dù không thực sự hứng thú, nhằm giảm bớt gánh nặng tài chính cho gia đình.

Quyết định chọn ngành nghề của nhiều người Việt Nam thường chịu ảnh hưởng từ truyền thống gia đình, một yếu tố quan trọng trong văn hóa phương Đông Cha mẹ thường hướng dẫn con cái theo nghề nghiệp của mình, vì họ đã có kinh nghiệm và hiểu rõ về con đường đó, từ đó giúp con em họ dễ dàng hơn trong việc lựa chọn Điều này thể hiện rõ ràng ở những gia đình có cha mẹ làm trong các lĩnh vực như công an, bác sĩ, hay giáo viên, khi mà con cái thường bị ràng buộc vào những khuôn mẫu nghề nghiệp đã định sẵn Hơn nữa, có thể đây cũng là ước mơ chưa hoàn thành của cha mẹ, khiến họ mong muốn con cái tiếp tục thực hiện ước mơ đó.

Một nguyên nhân quan trọng khác ảnh hưởng đến việc chọn ngành nghề của học sinh là áp lực từ phụ huynh Nhiều bậc phụ huynh tin rằng việc theo học tại các trường đại học danh tiếng sẽ nâng cao cơ hội việc làm cho con cái Tuy nhiên, điều này có thể gây ra gánh nặng tâm lý và làm giảm hiệu suất học tập của thí sinh Hệ quả là cả gia đình và thí sinh đều có thể phải đối mặt với những vấn đề không mong muốn, mà chúng tôi sẽ đề cập ở phần sau.

2.2.2 Tình hình kinh tế và các chính sách:

Trong những năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam đã trải qua nhiều biến động phức tạp, ảnh hưởng đến sự lựa chọn ngành nghề của giới trẻ trong nước.

Dư âm của cuộc khủng hoảng tài chính 2008 và khủng hoảng kinh tế 2012 đã khiến người dân và nhà nước gặp khó khăn, tạo ra nỗi hoang mang cho thí sinh về khối ngành kinh tế Điều này dẫn đến sự giảm sút đáng kể trong số lượng hồ sơ đăng ký vào các ngành kinh tế, đặc biệt là những ngành từng "hot" như ngân hàng và tài chính, với số lượng đăng ký năm 2010 giảm mạnh so với năm trước.

2009 Số thí sinh đăng ký dự thi vào các trường chuyên đào tạo khối ngành kinh tế tăng thật sự không đáng kể.

Gia nhập WTO mang lại nhiều lợi ích cho thí sinh Việt Nam, đặc biệt là mở rộng cơ hội nghề nghiệp và xuất hiện các ngành mới Trước thời kỳ hội nhập, doanh nghiệp Việt Nam đã nhanh chóng thành lập công ty tư nhân và công ty liên quốc gia, tạo điều kiện cho lao động Việt Nam có nhiều lựa chọn hơn Các công ty tuyển dụng lao động từ nhiều lĩnh vực khác nhau như kỹ thuật, công nghệ, kinh tế và tài chính Đặc biệt, một số ngành nghề mới lần đầu tiên xuất hiện tại Việt Nam như Kỹ thuật Hạt Nhân, Xét Nghiệm Y Học, và Kiểm Toán Quốc Tế, mang đến cho giới trẻ nhiều lựa chọn cho con đường học vấn tại Đại Học và Cao Đẳng, với Kỹ thuật hạt nhân là một ngành “đón đầu”.

Kinh tế Việt Nam đang thu hút sự chú ý của nhiều doanh nghiệp quốc tế nhờ vào sự năng động và tiềm năng to lớn Đối với các nhà đầu tư, Việt Nam là một mảnh đất đầy thách thức và cơ hội Đặc biệt, giới trẻ Việt Nam nhận thức rõ ràng về tiềm năng của kinh tế, coi đây là lĩnh vực phù hợp với họ Trong bối cảnh xã hội liên tục thay đổi, kinh tế cũng không ngừng phát triển và chịu ảnh hưởng từ những biến động đó Giới trẻ chính là những nhân tố quyết định, đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của nền kinh tế.

Để thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa, nền kinh tế Việt Nam cần giảm tỉ trọng ngành Nông nghiệp và tăng cường phát triển khu vực Công nghiệp và Dịch vụ Sự chuyển biến này đã tạo ra động lực lớn, khiến nhiều thí sinh không lựa chọn các ngành nghề thuộc khối Nông Lâm-Ngư.

Nghiệp Mà thay vào đó là khối ngành kĩ thuật cao, và khối ngành kinh tế

Theo khảo sát với 101 học sinh, ngành nghề có cơ hội việc làm cao đứng thứ hai trong các yếu tố quyết định việc chọn nghề Điều này cho thấy thí sinh rất quan tâm đến thị trường việc làm hiện tại Họ thường đăng ký những ngành nghề đảm bảo việc làm cho sinh viên sau khi tốt nghiệp hoặc trong quá trình học đại học, phản ánh nhu cầu việc làm của xã hội.

Trong vòng năm năm qua, ngành Kinh tế luôn dẫn đầu về tuyển sinh với chỉ tiêu cao nhất, số lượng thí sinh đông đảo và nhiều trường đào tạo nhất.

Trong giai đoạn 2008-2012, quyết định chọn ngành của thí sinh chủ yếu bị ảnh hưởng bởi năng lực, sở thích và nguyện vọng cá nhân, bên cạnh đó còn có tác động từ gia đình, nền kinh tế và chính sách Nhà nước Nhiều thí sinh có nguyện vọng riêng nhưng cũng có không ít người bị ảnh hưởng bởi các yếu tố khách quan, dẫn đến việc họ không xác định rõ năng lực của bản thân và thường chọn theo xu hướng chung hoặc những ngành có tiềm năng việc làm cao.

NHỮNG HẬU QUẢ TỪ XU HƯỚNG CHỌN NGÀNH CỦA THÍ SINH THI ĐẠI HỌC VÀ CAO ĐẲNG TRONG GIAI ĐOẠN 2008-2012

Tỉ lệ chọi của các ngành không đồng đều

Tại các trường đại học hàng đầu, tỉ lệ chọi cao cho thấy số lượng thí sinh tham gia thi rất lớn Hệ quả là sự cạnh tranh trở nên gay gắt, làm cho điểm chuẩn của các trường tăng cao, dẫn đến việc nhiều thí sinh có điểm khá nhưng vẫn không có cơ hội trúng tuyển vào nguyện vọng 1.

Khu vực TP.HCM năm 2012:

Trường Đại học Quốc tế có ngành Quản trị kinh doanh có tỷ lệ chọi cao nhất là 1/5,9 với 240 chỉ tiêu cho 1.418 thí sinh Các ngành khác cũng có tỷ lệ chọi đáng chú ý như Công nghệ thông tin 1/3,3 (60/196), Công nghệ sinh học 1/6,2 (120/743), Kỹ thuật điện tử, truyền thông 1/1,4 (50/71), Kỹ thuật hệ thống công nghiệp 1/1,5 (50/75), Kỹ thuật y sinh 1/4,5 (50/223), Quản lý nguồn lợi thủy sản 1/1,5 (20/30), Công nghệ thực phẩm 1/2,7 (50/136), Tài chính ngân hàng 1/4 (120/485), và Kỹ thuật xây dựng 1/3 (40/120).

Trường ĐH Bách khoa nổi bật với ngành kiến trúc dân dụng và công nghiệp, có tỷ lệ cạnh tranh 1/18 với 40 chỉ tiêu trên 737 hồ sơ Các ngành khác cũng có tỷ lệ cạnh tranh đáng chú ý như công nghệ thông tin (1/3,3 với 330/1.100), điện - điện tử (1/3,1 với 660/2.010), cơ khí - cơ điện tử (1/3,8 với 500/1.899), và công nghệ dệt may (1/3 với 70/210) Ngoài ra, ngành công nghệ hóa - thực phẩm - sinh học có tỷ lệ 1/3,7 (430/1.600), xây dựng 1/3,9 (520/2.017), kỹ thuật địa chất - dầu khí 1/6,9 (150/1.040), quản lý công nghiệp 1/4,7 (160/758), kỹ thuật và quản lý môi trường 1/4 (160/642), kỹ thuật giao thông 1/3 (180/601), kỹ thuật hệ thống công nghiệp 1/2 (80/186), công nghệ vật liệu 1/0,5 (200/90), trắc địa - địa chính 1/1,2 (90/110), vật liệu và cấu kiện xây dựng 1/1,8 (80/146), và vật lý kỹ thuật - cơ kỹ thuật 1/3 (150/452).

Trường ĐH Kinh tế - Luật ghi nhận ngành tài chính ngân hàng có tỷ lệ chọi cao nhất là 1/10,5 với 225 chỉ tiêu cho 2.363 thí sinh Các ngành khác bao gồm kinh tế (kinh tế học, kinh tế và quản lý công) với tỷ lệ 1/5,6 (200/1.112), kinh tế đối ngoại 1/6 (225/1.375), quản trị kinh doanh 1/9,4 (225/2.105), kinh doanh quốc tế 1/7,3 (100/727), kế toán và kiểm toán 1/5,4 (225/1.223), hệ thống thông tin quản lý 1/2 (100/211), luật dân sự 1/7 (100/713) và luật kinh tế cùng luật quốc tế (luật kinh doanh, luật thương mại quốc tế, luật tài chính - ngân hàng - chứng khoán) với tỷ lệ 1/7,4 (300/2.217).

Trường ĐH Khoa học tự nhiên ghi nhận tỷ lệ "chọi" cao nhất thuộc về ngành công nghệ sinh học, với tỷ lệ 1/15,8 (200 chỉ tiêu/3.160 thí sinh) tính đến ngày 16.5 Các ngành khác có tỷ lệ "chọi" lần lượt như sau: toán học 1/2,1 (300/643), vật lý học 1/1,64 (250/410), kỹ thuật hạt nhân 1/13 (50/650), kỹ thuật điện tử, truyền thông 1/2,9 (200/580) và hải dương học 1/3,2.

(250/1.700); địa chất 1/8,7 (150/1.300); khoa học môi trường 1/15,5 (150/2.330); công nghệ kỹ thuật môi trường 1/8,9 (120/1.070); khoa học vật liệu 1/5,94 (180/1.070); sinh học 1/4,6 (300/1.390).

Trường Đại học Y dược TP.HCM ghi nhận ngành xét nghiệm y học có tỷ lệ chọi cao nhất, đạt 1/36,2 với 60 chỉ tiêu trên 2.173 thí sinh Các ngành khác cũng có tỷ lệ chọi đáng chú ý như bác sĩ đa khoa 1/8,2 (600/4.895), bác sĩ răng hàm mặt 1/13,2 (120/1.578), dược học 1/17,8 (300/5.347), y học cổ truyền 1/10,5 (150/1.581), y học dự phòng 1/6,8 (100/681), điều dưỡng 1/23,7 (180/4.258), y tế công cộng 1/12,1 (60/724), vật lý trị liệu, phục hồi chức năng 1/20,9 (30/627), kỹ thuật y học hình ảnh 1/20,6 (30/617) và kỹ thuật phục hình răng 1/15 (30/449).

Trường Đại học Tài chính - Marketing ghi nhận ngành kế toán dẫn đầu với tỷ lệ 1/16,6 (200 chỉ tiêu trên 3.310 thí sinh), tiếp theo là quản trị kinh doanh 1/16,3 (450/7.325), quản trị khách sạn 1/16 (240/3.816), marketing 1/15,8 (260/4.104), bất động sản 1/3,3 (100/329), kinh doanh quốc tế 1/7,5 (250/1.886), tài chính ngân hàng 1/7,4 (700/5.170), hệ thống thông tin quản lý 1/5,5 (100/552), và ngôn ngữ Anh 1/13,5 (100/1.350) Theo quy định của Bộ GD-ĐT, năm 2012, trường không tổ chức xét tuyển nguyện vọng bổ sung trong ngày làm thủ tục dự thi như thông báo ban đầu.

Trường ĐH Luật TP.HCM: Ngành quản trị - luật 1/14,2 (100 CT/1.417 HS); luật học 1/9,7 (1.300/12.658); quản trị kinh doanh: 1/11,1 (100/1.110).

Tại các trường tốp dưới, bao gồm các trường công lập tự chủ tài chính và trường tư nhân, tỷ lệ chọi rất thấp Cụ thể, Đại học Văn hóa TP.HCM có tỷ lệ chọi 1/1,26, trong khi Đại học Công nghiệp TP.HCM là 1/4,56 Đại học Hoa Sen có tỷ lệ 1/5, Đại học Quốc Tế Hồng Bàng là 1/0,34, và Đại học Công nghiệp thực phẩm TP.HCM là 1/3,96 Cuối cùng, Đại học Tôn Đức Thắng có tỷ lệ chọi 1/8,41.

Chất lượng học sinh đầu vào không đều giữa các trường

Tình trạng thiếu thí sinh nghiêm trọng tại một số trường và ngành đào tạo đã trở nên rõ ràng trong các mùa tuyển sinh gần đây Để đảm bảo đủ chỉ tiêu, nhiều trường đã áp dụng các biện pháp như gia hạn thời gian xét tuyển, hạ điểm xét tuyển, và thậm chí "xóa sổ" những ngành quá kén thí sinh Hiện tại, điểm trúng tuyển của nhiều trường chủ yếu là mức điểm nhận hồ sơ xét tuyển, khiến thí sinh không phải cạnh tranh mà chỉ cần nộp hồ sơ là được đỗ.

Chất lượng đào tạo đại học và cao đẳng đang đối mặt với nguy cơ đáng lo ngại khi điểm chuẩn trúng tuyển quá thấp, đặc biệt là ở ngành sư phạm Hiện tại, nhiều trường sư phạm có điểm trúng tuyển chỉ bằng điểm sàn, như trường Đại học Vinh với mức điểm chuẩn kỷ lục thấp ở hầu hết các ngành Mùa tuyển sinh 2010 cho thấy sự lo ngại về chất lượng giáo viên tương lai khi tỷ lệ "chọi" không cao nhưng điểm chuẩn vẫn ở mức cận sàn Cụ thể, ngành sư phạm tin có điểm chuẩn 13,0, ngành sư phạm Vật lý 13,0, ngành sư phạm Hóa học 14,5 và ngành sư phạm Sinh học khối B là 14,0, cho thấy sự tương đồng với các ngành thuộc khối A, B vốn thường có điểm chuẩn cao hơn.

Nhiều trường hiện nay đang hạ điểm chuẩn để đủ chỉ tiêu tuyển sinh, mặc dù điều này có thể ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo Một số trường, đặc biệt là các trường dân lập, đã hạ mức điểm trúng tuyển xuống bằng điểm sàn của Bộ GD-ĐT, thậm chí có trường cho phép thí sinh chỉ cần đạt tổng ba môn thi từ 7 điểm để trở thành sinh viên Một số trường chỉ thu hút khoảng 70% thí sinh đến nhập học, buộc phải hạ điểm chuẩn xuống mức không thể chấp nhận, như 6 điểm Nếu tính thêm điểm chênh lệch khu vực và đối tượng ưu tiên, thí sinh chỉ cần 3 điểm cũng có thể trúng tuyển.

Chất lượng đầu ra không đảm bảo

Chất lượng đầu vào của sinh viên hiện nay đang ở mức thấp, điều này ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng đào tạo Nếu các trường đại học và cao đẳng chỉ chú trọng vào số lượng tuyển sinh mà không nâng cao chất lượng giáo dục, thì tình trạng tuyển sinh ồ ạt với tiêu chuẩn thấp sẽ khiến cho các trường khó có thể được công nhận và chấp nhận bởi người học trong tương lai.

Mặc dù gia đình và nhà trường có vai trò định hướng, nhưng nhiều người vẫn chủ yếu dựa vào cảm tính và sở thích cá nhân, bị ảnh hưởng bởi cuộc sống xã hội hiện đại Điều này dẫn đến việc họ ít chú ý đến năng lực bản thân và đặc điểm của công việc.

Ảnh hưởng tới các ngành nói riêng và ngành giáo dục nói chung 26 3.5 Tăng tỉ lệ thất nghiệp của nhiều ngành, hiện trạng thừa thầy thiếu thợ tràn lan 26

Kết quả khảo sát cho thấy có sự thay đổi đáng kể trong xu hướng chọn ngành thi cử, với khối ngành Kinh tế - Tài chính - Ngoại thương vẫn chiếm ưu thế, khi gần 60% học sinh được hỏi bày tỏ mong muốn theo đuổi lĩnh vực này.

Khối ngành Tài chính – Ngân hàng đã chứng kiến sự giảm sút đáng kể trong nguyện vọng theo học, từ 37% vào năm 2011 xuống chỉ còn 23% năm nay Mặc dù con số này vẫn được coi là cao theo đánh giá từ các doanh nghiệp tuyển dụng trong lĩnh vực tài chính, nhưng dự báo tỷ lệ thất nghiệp trong ngành này có thể sẽ tăng cao trong vòng 5 năm tới Do đó, các thí sinh cần cân nhắc kỹ lưỡng trước khi quyết định theo học ngành này.

Sự hấp dẫn của khối ngành Tài chính – Ngân hàng có xu hướng giảm, trong khi khối ngành Du lịch – Khách sạn – Nhà hàng lại ghi nhận sự tăng trưởng, với tỷ lệ lựa chọn tăng từ dưới 10% lên gần 15% trong năm 2012 Đồng thời, các khối ngành CNTT – Điện tử viễn thông cũng có sự gia tăng nhẹ so với năm 2011 Tuy nhiên, khối ngành Khoa học cơ bản đang gặp khó khăn khi lượng thí sinh lựa chọn tiếp tục giảm mạnh, chỉ còn dưới 1% trong năm nay.

Theo ông Chu Tuấn Anh, Giám đốc Hệ thống Đào tạo Lập trình viên Quốc tế Aprotrain-Aptech, nhu cầu nhân lực trong ngành CNTT đang gia tăng và ổn định Tuy nhiên, xã hội vẫn chưa có sự quan tâm và hiểu biết đầy đủ về lĩnh vực này Đáng chú ý, hầu hết sinh viên theo học CNTT đến từ các thành phố lớn, trong khi nhiều học sinh có tiềm năng lại không chọn ngành này do chạy theo xu hướng.

Theo TS Lê Thị Thanh Mai từ ĐHQG TP.HCM, xu hướng chọn ngành đang có sự thay đổi rõ rệt Tỉ lệ thí sinh dự thi vào nhóm ngành kinh doanh năm 2011 đã giảm đáng kể so với năm 2010, trong khi nhóm ngành CNTT cũng ghi nhận sự sụt giảm về số lượng thí sinh Ngược lại, nhóm ngành y học đã tăng 1,2 lần số thí sinh dự thi so với năm trước, và nhóm ngành chế biến lương thực, thực phẩm và đồ uống tăng 1,6 lần.

Từ năm 2010 đến 2011, một số ngành học như kế toán - kiểm toán, luật, công nghệ kỹ thuật cơ khí, kỹ thuật điện, điện tử và viễn thông, cùng với dịch vụ y tế đã ghi nhận sự gia tăng đáng kể về số lượng thí sinh đăng ký dự thi.

3.5 Tăng tỉ lệ thất nghiệp của nhiều ngành, hiện trạng thừa thầy thiếu thợ tràn lan

Tình trạng sinh viên lựa chọn ngành học theo trào lưu đã dẫn đến cung vượt cầu, gây ra tình trạng thất nghiệp cho nhiều ngành "hot" như tài chính ngân hàng, quản trị kinh doanh và kế toán, trong khi đó lại thiếu nhân lực cho các lĩnh vực khác.

Theo báo cáo mới của Tổng cục Thống kê và Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), lao động trẻ trong độ tuổi từ 15 đến 24 chiếm đến 46,8% tổng số người thất nghiệp.

Báo cáo điều tra Lao động việc làm năm 2012 cho thấy tỷ lệ thất nghiệp trong 9 tháng đầu năm đạt 2,17%, trong khi tỷ lệ thiếu việc làm là 2,98% So với cùng kỳ năm 2011, tỷ lệ thất nghiệp giảm nhẹ từ 2,18% xuống 2,17%, và tỷ lệ thiếu việc làm cũng giảm từ 3,15% xuống 2,98%.

Theo thống kê, cả nước hiện có 984.000 người thất nghiệp và 1,36 triệu người thiếu việc làm, trong đó 1,1 triệu người thiếu việc làm ở nông thôn, cao hơn so với 246.000 người ở thành phố Số người thất nghiệp tại khu vực thành thị là 494.000, trong khi khu vực nông thôn có 459.000 người Tỷ lệ thất nghiệp ở thành phố đạt 3,53%, vượt trội hơn so với 1,55% ở nông thôn.

Trong 9 tháng qua cũng ghi nhận số lao động trẻ, tuổi từ 15-24 bị thất nghiệp khá cao, chiếm tới 46,8% trong tổng số thất nghiệp, tỷ trọng này ở khu vực thành thị là 38,1% và ở khu vực nông thôn là 56,2%.

Theo số liệu năm 2012, TP HCM dẫn đầu cả nước về tỷ lệ thất nghiệp với 3,92% Tiếp theo là vùng đồng bằng sông Cửu Long, Bắc Trung bộ và duyên hải miền Trung với tỷ lệ 2,21% Tại Hà Nội, tỷ lệ thất nghiệp là 2,15% Khu vực có tỷ lệ thất nghiệp thấp nhất là trung du và miền núi phía Bắc, chỉ đạt 0,77%.

Vùng đồng bằng sông Cửu Long dẫn đầu cả nước về tỷ lệ thiếu việc làm với 4,6%, trong khi Hà Nội ghi nhận tỷ lệ 0,98% Tỷ lệ thiếu việc làm thấp nhất thuộc về TP Hồ Chí Minh, chỉ đạt 0,54%.

Trong năm 2012, lao động tại khu vực có vốn đầu tư nước ngoài và khu vực Nhà nước đã giảm dần, với mức giảm 3% từ quý I đến quý III Ngược lại, khu vực ngoài Nhà nước, bao gồm những người tự tạo việc làm, hộ kinh doanh cá thể, doanh nghiệp tư nhân và hợp tác xã, lại có xu hướng tăng trưởng.

Báo cáo chỉ ra rằng bất bình đẳng giới vẫn tồn tại trong thị trường lao động, với 2,5% phụ nữ không có việc làm so với 1,7% nam giới Đặc biệt, thanh niên từ 15 đến 24 tuổi gặp khó khăn trong việc tìm kiếm việc làm, chiếm đến 47% tổng số người thất nghiệp.

Giải pháp vận dụng việc phân tích xu hướng chọn ngành nghề trong kì thi tuyển

4.2.1 Giaỉ pháp về phía xã hội:

Gần đây, Thành phố Hồ Chí Minh và Việt Nam đã phát triển một hệ thống thông tin tư vấn hướng nghiệp và thị trường lao động phong phú Các trường đại học, cao đẳng, trung cấp thường xuyên tổ chức các buổi trao đổi thông tin về ngành nghề đào tạo Các cơ quan truyền thông như Báo Giáo dục, Báo Thanh niên, Báo Tuổi trẻ, và Báo Người Lao Động cũng thực hiện các chương trình tư vấn hướng nghiệp cụ thể Nhiều trường trung học phổ thông đã kết nối với các cơ sở giáo dục đại học và trung cấp để tổ chức chương trình tư vấn tuyển sinh và hướng dẫn thủ tục thi tuyển Đặc biệt, trong mùa tuyển sinh năm 2011, nhiều ngành học mới được mở ra, giúp thí sinh có thêm cơ hội lựa chọn ngành đăng ký dự thi.

Tại thành phố Hồ Chí Minh, thí sinh có thể dễ dàng tìm thấy thông tin về nhu cầu lao động trong các ngành nghề khác nhau của xã hội.

Các trang web của các cơ quan báo chí như Báo Giáo dục, Báo Thanh niên, Báo Tuổi trẻ, Báo Người Lao Động, và Báo Pháp Luật, cùng nhiều nguồn thông tin khác, đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp tin tức và thông tin đa dạng cho độc giả.

- Các trang website của các trường Đại học, Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp.

- Website Trung tâm Dự báo nhu cầu nhân lực và Thông tin thị trường lao động

TP.HCM “dubaonhanluchcmc.gov.vn”.

- Website của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động – Thương binh và xã hội, Cục việc làm

- Các trung tâm hỗ trợ và quan hệ doanh nghiệp, trung tâm tư vấn tuyển sinh của các trường Đại học – Cao đẳng, dạy nghề.

(theo dự báo nguồn nhân lực )

4.2.2 Về phía thí sinh và gia đình:

Vai trò của tư vấn hướng nghiệp

Công tác tư vấn hướng nghiệp đóng vai trò quan trọng đối với thí sinh trong việc lựa chọn ngành nghề Mặc dù thí sinh hiện nay có nhiều kênh thông tin để tiếp cận, nhưng việc ra quyết định vẫn không hề đơn giản Đặc biệt, nhiều thí sinh chưa hiểu rõ cấu trúc ngành nghề trong xã hội, dẫn đến tình trạng rối rắm thông tin khi chọn ngành và trường Để cải thiện tình hình này, thí sinh và gia đình nên thực hiện các bước chuẩn bị cần thiết.

Để lựa chọn ngành học phù hợp, thí sinh cần xác định rõ sở thích và định hướng nghề nghiệp của bản thân Nhiều thí sinh vẫn chưa rõ ràng về mong muốn của mình khi điền nguyện vọng Do đó, việc lập danh sách các sở thích, năng lực, tính cách, và quan điểm sống là rất quan trọng Thí sinh cũng nên thực hiện một số bài trắc nghiệm để tìm ra ngành học thực sự phù hợp với mình.

Niềm đam mê là yếu tố quan trọng trong việc chọn ngành học phù hợp, giúp chúng ta học tốt hơn khi theo đuổi môn mình yêu thích Tuy nhiên, nhiều thí sinh hiện nay lại lựa chọn ngành học theo số đông mà không cân nhắc đến sự phù hợp với bản thân Chỉ khi theo đuổi lĩnh vực mà mình đam mê, chúng ta mới có thể vượt qua khó khăn và đạt được thành công.

Trước khi quyết định chọn ngành và trường học, thí sinh nên đến trường để thu thập thông tin và tham gia các buổi hội thảo, định hướng nghề nghiệp Internet là công cụ hữu ích giúp thí sinh tìm hiểu về ngành học, bao gồm học phí, học bổng, thời gian học và cơ hội việc làm sau khi tốt nghiệp.

Hãy tìm kiếm ý kiến từ những người có kinh nghiệm trong lĩnh vực bạn muốn theo đuổi, như các anh chị đang học tập hoặc làm việc trong ngành đó Họ sẽ cung cấp cho bạn thông tin quý giá về yêu cầu bằng cấp, môi trường học tập và làm việc, cơ hội phát triển, cũng như những khó khăn và thách thức mà bạn có thể gặp phải.

Thí sinh nên nhanh chóng tìm kiếm cơ hội làm việc như làm thêm, làm bán thời gian, tình nguyện viên hoặc thực tập trong lĩnh vực mình quan tâm để trau dồi kinh nghiệm Những trải nghiệm này không chỉ hữu ích mà còn giúp thí sinh xác định xem họ có thực sự phù hợp với lĩnh vực đó hay không.

Theo các giáo viên có kinh nghiệm, thí sinh nên xác định khối thi ngay từ khi bắt đầu cấp Trung học phổ thông, dựa trên thiên hướng và năng lực của mình trong các môn học Phần lớn học sinh đã lựa chọn khối thi từ lớp 10, 11, giúp tạo sự chuẩn bị tâm lý vững vàng cho quá trình học tập.

Nhiều thí sinh hiện nay đã biết lựa chọn ngành học dựa vào cơ hội việc làm và điểm chuẩn của các mùa tuyển sinh trước Họ cân nhắc khả năng học tập của bản thân để quyết định ngành thi phù hợp Đặc biệt, những học sinh có học lực trung bình hoặc trung bình khá thường chọn các ngành kỹ thuật có điểm chuẩn "cận sàn" như công nghệ kỹ thuật nhiệt lạnh, công nghệ hóa học, công nghệ điện, và công nghệ dệt may.

Trong xu hướng chọn trường thi mùa tuyển sinh năm nay, những trường thuộc

Nhiều thí sinh có học lực khá và giỏi vẫn đang nhắm đến các trường đại học hàng đầu như ĐH Bách khoa, Đại học Kinh tế Quốc dân, Học viện Ngân hàng và Học viện Tài chính Trong khi đó, học sinh có học lực trung bình thường chọn các trường đại học dân lập, mặc dù mức học phí tại đây cao hơn từ 2 đến 3 lần so với các trường công lập.

Dự đoán xu hướng chọn ngành của thí sinh trong kì thi tuyển sinh Đại học, Cao đẳng trong năm 2013

Chiến lược nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011-2020 tập trung vào việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong các lĩnh vực quan trọng như quản lý nhà nước, giảng dạy đại học, khoa học - công nghệ, y tế, tài chính - ngân hàng và công nghệ thông tin Thời kỳ hội nhập mở ra nhiều cơ hội việc làm với yêu cầu cao hơn cho người lao động, đặc biệt trong các ngành kinh doanh, kinh tế, luật, môi trường và đô thị Sự gia tăng nguồn nhân lực trong các lĩnh vực này hoàn toàn phù hợp với quy hoạch phát triển nhân lực và chiến lược xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam.

Theo báo cáo, nhiều ngành nghề có tỷ lệ việc làm cao nhưng lại có xu hướng giảm vào năm 2015, bao gồm khai khoáng, công nghiệp chế biến - chế tạo, sản xuất và phân phối điện, khí đốt, cung cấp nước, xây dựng, vận tải và kho bãi, khách sạn, nhà hàng, thông tin, truyền thông, giáo dục, y tế và hoạt động trợ giúp xã hội, nghệ thuật và vui chơi giải trí Ngành khai khoáng ghi nhận tỷ lệ giảm cao nhất, giảm từ 10,6% trong năm 2015.

Đến năm 2015, có 9 ngành nghề dự kiến sẽ tăng nhu cầu việc làm, bao gồm tài chính, ngân hàng, bảo hiểm; kinh doanh bất động sản; khoa học công nghệ; hành chính và dịch vụ hỗ trợ; hoạt động Đảng, đoàn thể, tổ chức chính trị xã hội; làm thuê trong các hộ gia đình; các tổ chức quốc tế và các hoạt động dịch vụ khác Trong số đó, ngành có nhu cầu việc làm cao nhất là hoạt động Đảng, đoàn thể, tổ chức chính trị, xã hội và hành chính, dịch vụ hỗ trợ.

Dựa trên các thông tin dự báo, thí sinh cần cân nhắc kỹ lưỡng trước khi điền vào hồ sơ đăng ký dự thi cho các kỳ tuyển sinh sắp tới.

Năm 2013, nhiều trường đại học đã nhanh chóng mở thêm các ngành học mới để đáp ứng nhu cầu việc làm trong tương lai Trường Đại học FPT, do Hiệu trưởng Lê Trường Tùng lãnh đạo, sẽ khai giảng 4 chuyên ngành công nghệ thông tin, bao gồm hệ thống thông tin, điện tử và truyền thông, kỹ thuật máy tính, và khoa học máy tính, cùng với chuyên ngành kế toán ứng dụng công nghệ thông tin Ông Tùng nhấn mạnh rằng việc mở thêm các chuyên ngành này nhằm đảm bảo định hướng phát triển của trường, tập trung vào việc đào tạo nguồn nhân lực công nghệ thông tin chất lượng cao.

Trường Đại Học Khoa học và Công nghệ Hà Nội, một trường đại học công lập quốc tế theo mô hình tiên tiến, thông báo tuyển sinh 120 sinh viên cho hệ cử nhân khoa học và công nghệ cùng 100 học viên cho hệ thạc sĩ chính quy Các chuyên ngành đào tạo bao gồm công nghệ sinh học - dược học, khoa học vật liệu - công nghệ nano, nước - môi trường - đại dương học, và khoa học công nghệ thông tin và truyền thông, với bằng cấp đạt chuẩn quốc tế LMD (hệ cử nhân 3 năm).

Trường Cao Đẳng Công nghiệp Quảng Ninh sẽ mở thêm 5 ngành học mới, bao gồm công nghệ kỹ thuật cơ điện, công nghệ kỹ thuật điện tử, công nghệ kỹ thuật cơ - điện tử, quản trị kinh doanh và kỹ thuật trắc địa bản đồ Đồng thời, Trường Đại Học Hà Tĩnh cũng thông báo mở thêm 3 ngành mới là tài chính ngân hàng, marketing và Việt Nam học.

Vào năm 2008, ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản là lĩnh vực thu hút nhiều lao động nhất với gần 23 triệu người Tuy nhiên, dự báo đến năm 2020, số lao động trong nhóm ngành này sẽ giảm xuống còn 21,1 triệu.

Ngày đăng: 15/12/2021, 09:11

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Hình 1.1 Thực tế chọn ngành đăng ký dự thi của thí sinh từ năm 2009-2011 - PHÂN TÍCH XU HƯỚNG CHỌN NGÀNHCỦA THÍ SINH TRONG CÁC KÌ THI ĐẠIHỌC
Hình 1.1 Thực tế chọn ngành đăng ký dự thi của thí sinh từ năm 2009-2011 (Trang 12)
Bảng 1.1 Tỉ lệ thí sinh dự thi theo nhóm ngành - PHÂN TÍCH XU HƯỚNG CHỌN NGÀNHCỦA THÍ SINH TRONG CÁC KÌ THI ĐẠIHỌC
Bảng 1.1 Tỉ lệ thí sinh dự thi theo nhóm ngành (Trang 13)

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w