TỔNG QUAN
Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính
Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (BPTNMT) là một bệnh hô hấp phổ biến, có thể phòng ngừa và điều trị BPTNMT đặc trưng bởi triệu chứng hô hấp kéo dài và hạn chế luồng khí, gây ra bởi những bất thường ở đường thở hoặc phế nang Các bệnh lý kèm theo và các đợt kịch phát có thể làm tình trạng bệnh trở nên nghiêm trọng hơn.
BPTNMT không phải là một bệnh mà là thuật ngữ chỉ các bệnh phổi mạn tính gây hạn chế lưu thông khí, thường tiến triển từ từ do phản ứng viêm bất thường của phổi với các phân tử nhỏ và khí độc, trong đó khói thuốc là nguyên nhân chính Tuy nhiên, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính có thể được phòng ngừa và điều trị hiệu quả.
Yếu tố nguy cơ chính gây bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD) là hút thuốc lá và thuốc lào, bao gồm cả tiếp xúc với khói thuốc thụ động Ngoài ra, ô nhiễm không khí, khói chất đốt và nhiễm trùng đường hô hấp dưới thường xuyên từ nhỏ cũng là những yếu tố nguy cơ khác Đợt cấp của COPD (AECOPD) xảy ra khi chức năng đường thở và triệu chứng hô hấp của bệnh nhân đột ngột xấu đi, với các biểu hiện như khó thở tăng, khạc đờm nhiều hơn và thay đổi màu sắc của đờm, điều này đòi hỏi phải điều chỉnh trong phương pháp điều trị.
1.1.2 Đặc điểm dịch tễ bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính
Theo Tổ chức Y tế thế giới, đến năm 1997 trên toàn thế giới đã có khoảng
Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính hiện đang ảnh hưởng đến khoảng 600 triệu người trên toàn thế giới Đây là nguyên nhân gây tử vong đứng thứ tư và cũng là nguyên nhân chính gây tàn phế cho nhiều người.
Dự báo của WHO cho thấy, đến năm 2020, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (BPTNMT) sẽ trở thành nguyên nhân gây tử vong đứng thứ ba toàn cầu, tăng từ vị trí thứ sáu vào năm 1990 Năm 2015, khoảng 3,2 triệu người đã chết vì BPTNMT, tăng 11,6% so với năm 1990, với tỷ lệ mắc bệnh tăng 44,2% Mỗi năm, khoảng 400.000 người chết vì BPTNMT ở các nước công nghiệp và khoảng 650.000 người ở Nam Á và Đông Nam Á, chủ yếu ở Ấn Độ Năm 2016, có khoảng 251 triệu người mắc BPTNMT, chiếm 12% dân số trên 40 tuổi, gây ra khoảng 3,2 triệu ca tử vong, tương đương 5% tổng số ca tử vong toàn cầu Tại Hoa Kỳ, BPTNMT đứng thứ ba trong nguyên nhân gây tử vong, với ước tính năm 2011 có khoảng 13,7 triệu người mắc bệnh, trong đó tỷ lệ mắc ở nam giới cao hơn nữ giới (16,8% so với 10,4%) Tổng chi phí cho BPTNMT năm 2010 ước tính là rất lớn.
50 tỷ USD Bệnh nhân mắc BPTNMT thường mắc đồng thời nhiều bệnh như là các bệnh tim mạch, ung thư phổi, tiểu đường [38], [28]
Theo nghiên cứu của N Snell và cộng sự năm 2011, tại Anh có khoảng 1,2 triệu người được chẩn đoán mắc bệnh Parkinson (BPTNMT), chiếm khoảng 2% dân số, với tỷ lệ mắc và tử vong ở nam giới cao hơn nữ giới Mỗi năm, BPTNMT gây ra khoảng 30.000 ca tử vong, trở thành nguyên nhân tử vong thứ năm tại Anh Từ năm 2004 đến 2012, tỷ lệ tử vong do BPTNMT tăng lên, khiến bệnh này trở thành nguyên nhân gây tử vong hàng thứ ba tại châu Âu, với hơn 140.000 ca nhập viện và hơn 1 triệu ngày nằm viện mỗi năm, trong đó khoảng 97% bệnh nhân phải nhập khoa Cấp cứu.
Tại Trung Quốc, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (BPTNMT) đứng thứ ba trong danh sách nguyên nhân gây tử vong, với tỷ lệ mắc trung bình là 5,87%, dao động từ 1,2% đến 8,87% giữa các tỉnh, thành phố khác nhau Đặc biệt, tỷ lệ mắc ở vùng nông thôn là 7,62%, cao hơn so với 6,09% ở khu vực thành thị Ngoài ra, tỷ lệ mắc bệnh ở nam giới (7,76%) cũng cao hơn so với nữ giới.
5 với 4,07%) Hút thuốc lá và phơi nhiễm với khí thải nguyên liệu, khí ga là hai yếu tố nguy cơ quan trọng nhất của BPTNMT ở nước này [39]
Bệnh nhân BPTNMT thường gặp nhiều bệnh lý kèm theo, đặc biệt là ở những trường hợp nặng, điều này có thể ảnh hưởng đến quá trình chẩn đoán và tiên lượng bệnh Các bệnh lý thường gặp bao gồm bệnh tim mạch như suy tim và tăng huyết áp, tình trạng loãng xương, bệnh chuyển hóa, đái tháo đường, hội chứng GERD, và viêm phổi Một nghiên cứu phân tích dữ liệu từ 20.296 đối tượng từ 45 tuổi trở lên đã chỉ ra mối liên quan giữa các bệnh mắc kèm như bệnh tim mạch, tiểu đường và tăng huyết áp ở bệnh nhân BPTNMT.
BPTNMT ở giai đoạn GOLD 3 và GOLD 4 có nguy cơ mắc các bệnh như tiểu đường, tăng huyết áp và bệnh tim mạch cao hơn, với tỷ lệ chênh lệch lần lượt là 1,5, 1,6 và 2,4 (khoảng tin cậy 95% CI) Một nghiên cứu năm 2003 tại 12 nước châu Á Thái Bình Dương cho thấy khoảng 56,6 triệu người mắc BPTNMT, tỷ lệ trung bình là 6,3% Tỷ lệ này khác nhau giữa các quốc gia, với Hong Kong và Hàn Quốc là 3,5%, Trung Quốc 6,5%, và cao nhất là Việt Nam với 6,7% (khoảng 2,1 triệu ca).
Nghiên cứu của Nguyễn Viết Nhung và cộng sự năm 2015 cho thấy tỷ lệ mắc BPTNMT ở người không hút thuốc tại Việt Nam là 6,9%, trong đó nam giới chiếm 12,9%, cao gấp ba lần so với nữ giới là 4,4% Đặc biệt, tỷ lệ mắc BPTNMT ở Việt Nam cao hơn Indonesia với 8,1% so với 6,3%.
Năm 2010 một nghiên cứu dịch tễ bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính toàn quốc được thực hiện trên 25.000 người lớn từ 15 tuổi trở lên tại 70 điểm thuộc 48
Từ tháng 9 năm 2006 đến tháng 6 năm 2007, nghiên cứu tại 6 tỉnh thành phố cho thấy tỷ lệ mắc BPTNMT toàn quốc là 2,2%, với tỷ lệ ở nam giới là 3,4% và nữ giới là 1,1% Đặc biệt, tỷ lệ mắc BPTNMT ở nhóm tuổi ≥40 là 4,2%, trong khi nhóm dưới 40 tuổi chỉ là 0,4% Sự khác biệt giữa nam và nữ trong độ tuổi này là rõ rệt (7,1% so với 1,9%, p