Tính cấp thiết của đề tài
Viện kiểm sát nhân dân ra đời đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong việc kiểm sát tuân thủ pháp luật, đảm bảo pháp luật được thực thi nghiêm chỉnh và thống nhất, đồng thời bảo vệ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Ngành kiểm sát nhân dân ra đời nhằm bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, đồng thời đóng vai trò quan trọng trong việc đấu tranh phòng chống các hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm.
Việc xác định rõ vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng là rất quan trọng để phát huy khả năng của bộ máy này Đặc biệt, trong tố tụng hành chính, vai trò của Viện kiểm sát cần được khẳng định rõ ràng nhằm nâng cao hiệu quả xét xử hành chính và giám sát việc thực thi pháp luật.
Tình hình nghiên c ứ u
Nhiều tác giả đã nghiên cứu về vị trí, vai trò và chức năng của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng, đặc biệt là trong lĩnh vực tố tụng hành chính Tuy nhiên, hiện tại vẫn còn thiếu các nghiên cứu tổng thể về vai trò của Viện kiểm sát trong hoạt động tố tụng hành chính.
M ục đích củ a Khóa lu ậ n
Khóa luận nghiên cứu vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính, bao gồm thẩm quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm và các phương thức thực thi vai trò này Bên cạnh đó, bài viết phân tích thực trạng, ưu điểm và hạn chế của hệ thống pháp luật liên quan đến Viện kiểm sát trong tố tụng hành chính Dựa trên những phân tích đó, khóa luận đưa ra các đề xuất và giải pháp cụ thể nhằm nâng cao vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong lĩnh vực này.
7 của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động xét xử hành chính nói riêng và trong tiến trình cải cách tư pháp nói chung ở Việt Nam hiện nay.
Đối tượ ng và ph ạ m vi nghiên c ứ u c ủ a Khóa lu ậ n
Đối tượng nghiên cứu
Khóa luận nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trò của
Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng hành chính.
Ph ạ m vi nghiên c ứ u
Khóa luận tập trung vào việc phân tích và đánh giá các vấn đề lý luận liên quan đến vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính Nội dung chính bao gồm việc xem xét, đánh giá Luật tố tụng hành chính và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, nhằm làm rõ sự ảnh hưởng và thực tiễn áp dụng pháp luật trong lĩnh vực này.
Cơ sở khoa h ọc và phương pháp nghiên cứ u
V ề cơ sở khoa h ọ c
Khóa luận này được xây dựng dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác – Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về Nhà nước và pháp luật, cùng với các quan điểm về cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam Mục tiêu của khóa luận là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, đồng thời khai thác các học thuyết và quan điểm khoa học pháp lý liên quan đến vai trò của Viện kiểm sát.
Về phương pháp nghiên cứu
Khóa luận áp dụng phương pháp duy vật biện chứng của triết học Mác - Lenin, kết hợp với phương pháp phân tích và tổng hợp, nhằm tạo ra sự liên kết giữa lý luận và thực tiễn Bên cạnh đó, khóa luận còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể khác như phương pháp lôgic, cùng với các phương pháp so sánh và đối chiếu để nâng cao tính chính xác và độ tin cậy của nghiên cứu.
Ý nghĩa lý luậ n và th ự c ti ễ n c ủ a Khóa lu ậ n
Bài viết này nhằm làm rõ lý luận và thực tiễn về việc đổi mới vị trí pháp lý, vai trò và hoàn thiện mô hình hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính Việc này không chỉ góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của Viện kiểm sát mà còn đảm bảo tính công bằng và minh bạch trong quá trình tố tụng hành chính.
Nâng cao chất lượng kiểm sát trong việc giải quyết các vụ án hành chính là điều cần thiết, nhằm đảm bảo tính khách quan và tuân thủ pháp luật trong quá trình xét xử tại Tòa án.
Khóa luận không chỉ là tài liệu nghiên cứu và tham khảo hữu ích cho các nhà khoa học và người làm công tác thực tiễn, mà còn là nguồn tài liệu quý giá cho việc giảng dạy và nghiên cứu tại các cơ sở đào tạo khoa học pháp lý.
Đề tài này cung cấp tài liệu phản ánh các vấn đề thực tiễn, hỗ trợ liên ngành Viện kiểm sát và Tòa án trong việc nghiên cứu và ban hành thông tư, hướng dẫn nhằm khắc phục những bất cập trong áp dụng Bộ luật tố tụng hành chính Đồng thời, đề xuất với cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiếp tục chỉnh lý, sửa đổi và bổ sung Bộ luật tố tụng hành chính, đảm bảo việc thực hiện pháp luật tố tụng hành chính được nghiêm chỉnh và thống nhất trên toàn quốc.
K ế t c ấ u c ủ a Khóa lu ậ n
Ngoài phần Lời nói đầu, mởđầu, kết luận, mục lục, danh mục tham khảo, Khóa luận gồm 3 chương
Chương I: Khái quát chung về Viện kiểm sát nhân dân
Chương II: Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính theo pháp luật Việt Nam
Chương III: Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về Viện kiểm sát nhân dân
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
Sơ lược về sự hình thành của Viện kiểm sát nhân dân
Năm 1945, cuộc Tổng khởi nghĩa cách mạng tháng Tám đã thành công, giúp nước ta giành được chính quyền và độc lập Tuy nhiên, chính quyền mới còn non trẻ và phải đối mặt với nhiều thách thức sau cuộc khởi nghĩa Trong bối cảnh rối ren, việc thành lập một cơ quan công tố là cần thiết để giải quyết các vấn đề tồn đọng và kiểm soát hành vi của người dân Cơ quan công tố đã xuất hiện từ sớm trên thế giới, bắt đầu từ thế kỷ 13 tại Pháp, với nhiệm vụ đại diện cho nhà Vua trong việc phát hiện và xử lý các vi phạm pháp luật Mô hình Viện công tố hiện nay được chia thành ba nhóm, trong đó có những nước mà Viện kiểm sát thuộc Bộ Tư pháp.
Mỹ, Pháp, Nhật Bản và Hà Lan là những quốc gia mà cơ quan công tố hoạt động hoàn toàn trong hệ thống tư pháp, được đặt tại các Tòa án nhưng vẫn đảm bảo tính độc lập.
Có mười loại Tòa án khác nhau về mặt chức năng, như ở Tây Ban Nha và Bulgaria Cuối cùng, một nhóm các quốc gia có Viện kiểm sát hoặc cơ quan công tố hoạt động như một hệ thống riêng biệt, trực thuộc Quốc hội hoặc Nguyên thủ quốc gia, điển hình là Trung Quốc, Việt Nam, Triều Tiên và một số nước ở châu Mỹ - Latin.
Trong thời kỳ Pháp thuộc, Viện công tố được thành lập tại Việt Nam và tiếp tục tồn tại sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, trở thành một phần trong cấu trúc tổ chức của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, vẫn chịu ảnh hưởng từ hệ thống pháp lý của Pháp.
Hiến pháp năm 1946 tuy không đề cập đến Viện công tốnhưng trong cơ cấu của
Toà án có vai trò quan trọng trong việc xét xử các vụ án hình sự, với các Công tố viên đại diện cho Nhà nước để thực hiện nhiệm vụ buộc tội Kể từ khi hòa bình được lập lại ở miền Bắc, hệ thống tư pháp đã trải qua nhiều thay đổi để đáp ứng yêu cầu của xã hội.
Năm 1958, Viện công tố được tách ra khỏi Toà án và trực thuộc Chính phủ, hình thành một hệ thống cơ quan Nhà nước độc lập với Toà án từ Trung ương đến địa phương Hoạt động chủ yếu của Viện công tố là thực hiện công tố trước Toà án Để đáp ứng yêu cầu của công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, Hiến pháp năm 1959 đã quy định hình thành một loại hình cơ quan Nhà nước mới trong bộ máy Nhà nước, nhằm đảm bảo pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân Việt Nam đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển, phản ánh sự thay đổi trong nhận thức và mức độ phát triển của xã hội Quá trình hình thành và phát triển của Viện kiểm sát nhân dân có thể được chia thành các giai đoạn lịch sử khác nhau, mỗi giai đoạn đều đáp ứng các yêu cầu thực tiễn của thời kỳ đó.
1.1.1 Giai đoạn từnăm 1945 đến năm 1959
Sau khi nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành nhiều Sắc lệnh quan trọng liên quan đến tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp Một trong những Sắc lệnh đầu tiên là Sắc lệnh số 33A vào ngày 14/09/1945, quy định rằng mỗi khi có trường hợp bắt người, cơ quan chức năng phải thông báo ngay cho ông Biện lý.
Thẩm phán làm nhiệm vụ công tố) [35]
Từ năm 1946 đến 1959, Nhà nước ta chưa thành lập cơ quan thực hành quyền công tố riêng biệt, dẫn đến việc hoạt động điều tra không chỉ tập trung ở một Cơ quan điều tra mà còn được thực hiện bởi nhiều bộ phận khác nhau, như Kiểm soát viên Kiểm lâm.
Hoả xa, Thương chính và các viên chức được pháp luật giao nhiệm vụ cho tư pháp công an có trách nhiệm xử lý các vụ việc phạm pháp trong từng lĩnh vực cụ thể.
3 sắc lệnh số 131) Trong cơ cấu Toà án, các Thẩm phán được chia làm hai loại:
- Các Thẩm phán xét xửdo Chánh án Toà thượng thẩm đứng đầu
Các Thẩm phán công tố viên, hay còn gọi là Thẩm phán buộc tội, tạo thành một đoàn thể độc lập được gọi là công tố viện, do Chưởng lý đứng đầu.
Vào cuối những năm 50, Viện công tố đã được kiện toàn và củng cố một cách quan trọng, hình thành nên một hệ thống tổ chức mới.
- Viện công tố thành phố, tỉnh
- Viện công tố huyện và các đơn vịhành chính tương đương;
Viện công tố quân sự các cấp đánh dấu bước phát triển quan trọng trong tổ chức và hoạt động của Viện công tố, hướng tới việc thành lập Viện kiểm sát nhân dân vào giữa năm 1960 Trong giai đoạn này, toàn bộ hoạt động điều tra đều thuộc quyền kiểm soát của Công tố Viện, với vai trò chủ chốt của Biện lý, Phó Biện lý và Chưởng lý ở Toà thượng thẩm Quy định pháp luật cho thấy hoạt động điều tra thực chất là hoạt động công tố trong giai đoạn tiền công tố, giúp cơ quan công tố đại diện cho Nhà nước buộc tội người phạm tội trước Toà án Các nhân viên và cơ quan điều tra phải tuân theo sự chỉ đạo của Công tố Viện, không theo sự chỉ đạo của cơ quan chủ quản hành chính, và pháp luật đảm bảo rằng các cơ quan này phải tuân thủ chỉ đạo đó.
Theo Điều 13 của Sắc lệnh số 131, việc bổ sung, thăng thưởng và xử lý kỷ luật đối với các ủy viên Tư pháp công an không phải là Thẩm phán viên sẽ được thực hiện sau khi tham khảo ý kiến của Biện lý và Chưởng lý.
Trong giai đoạn đầu từ 1945 đến 1950, hoạt động điều tra bao gồm điều tra ban đầu và điều tra thẩm cứu, với thẩm quyền điều tra của các nhân viên và cơ quan ngày càng rõ ràng Đối với những đối tượng có đặc quyền miễn trừ tư pháp như Thẩm phán, Bộ trưởng, Thứ trưởng và Đại biểu Quốc hội, thẩm quyền điều tra thuộc về Công tố Viện Pháp luật cũng quy định rằng Chưởng lý Toà thượng thẩm có quyền chủ động trong các hoạt động điều tra của Công tố Viện.
V ị trí và ch ức năng củ a Vi ệ n ki ể m sát nhân dân
Ở nước ta, quyền tư pháp cùng với quyền lập pháp và quyền hành pháp tạo thành quyền lực thống nhất của Nhà nước, được quy định tại khoản 3 Điều 2:
Quyền lực nhà nước được thể hiện qua sự thống nhất và phân công giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp Mục tiêu của quyền tư pháp là xử lý vi phạm pháp luật và giải quyết tranh chấp xã hội qua các thủ tục tố tụng công bằng và minh bạch, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân Viện kiểm sát là cơ quan độc lập với hành pháp và tư pháp, nhưng có vai trò quan trọng trong việc giám sát và bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật Quyền tư pháp thuộc về Tòa án, nơi giải quyết xung đột xã hội theo quy định của pháp luật Mặc dù Viện kiểm sát chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát tối cao, nhưng vẫn có khả năng ngăn chặn lạm dụng quyền lực hành chính và bảo đảm tính khách quan trong hoạt động tư pháp.
Viện kiểm sát thực hiện quyền công tố nhưng không có chức năng phân định đúng sai như Tòa án, vì vậy không thể xếp Viện kiểm sát vào nhánh tư pháp Việc phân chia quyền lực nhà nước thành ba nhánh nhằm mục đích phân định quyền lực rõ ràng, nhưng sự độc lập giữa các nhánh này gây ra mâu thuẫn Khi nhà nước trao quyền lực công cho Viện kiểm sát, điều này làm giảm tính độc lập mà Viện kiểm sát được kỳ vọng có Quyền lực công này thực chất là quyền thực hành, sử dụng quyền lực để thực hiện nhiệm vụ, do đó, có thể xem xét xếp Viện kiểm sát vào nhánh quyền lực hành pháp.
Vị trí của Viện kiểm sát nhân dân được xác lập rõ ràng trong Hiến pháp
Theo Điều 107 của Bộ luật năm 2013 và Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, cùng với các nghị quyết của Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc hội, vị trí của Viện kiểm sát nhân dân trong Bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được xác định rõ ràng Điều này thể hiện qua các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Bộ máy nhà nước nói chung, cũng như nguyên tắc riêng của Viện kiểm sát nhân dân.
1 Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp.
2 Viện kiểm sát nhân dân gồm Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các
Viện kiểm sát khác do luật định
3 Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.”
Bên cạnh đó, luật Tổ chức Viện kiểm sát cũng có quy định về chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân như sau:
“Điề u 2 Ch ức năng, nhiệ m v ụ c ủ a Vi ệ n ki ể m sát nhân dân
1 Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa xã hội chủnghĩa Việt Nam
2 Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.”
Viện kiểm sát nhân dân đóng vai trò quan trọng trong hệ thống nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Các quy định cụ thể về chức năng và nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân giúp làm rõ hơn tổ chức và hoạt động của cơ quan này.
Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hiện quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, đảm bảo pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất Các Viện kiểm sát nhân dân địa phương cũng thực hiện quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp tại địa phương Đối với các Viện kiểm sát quân sự, họ thực hiện quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp theo quy định của pháp luật Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, cụ thể là Điều 3 và 4, quy định rõ ràng về chức năng và nhiệm vụ của các Viện kiểm sát.
Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình bằng những công tác sau đây:
“Điề u 3 Ch ức năng thự c hành quy ề n công t ố c ủ a Vi ệ n ki ể m sát nhân dân
1 Thực hành quyền công tố là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người
Trong quá trình giải quyết tố giác và tin báo về tội phạm, cùng với việc kiến nghị khởi tố, các hành vi phạm tội có thể xảy ra ngay từ giai đoạn đầu Điều này tiếp tục diễn ra trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử các vụ án hình sự.
2 Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố nhằm bảo đảm: a) Mọi hành vi phạm tội, người phạm tội phải được phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử kịp thời, nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội, không để lọt tội phạm và người phạm tội; b) Không để người nào bị khởi tố, bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế quyền con người, quyền công dân trái luật
3 Khi thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: a) Yêu cầu khởi tố, hủy bỏ quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án trái pháp luật, phê chuẩn, không phê chuẩn quyết định khởi tố bị can của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; trực tiếp khởi tố vụ án, khởi tố bị can trong những trường hợp do Bộ luật tố tụng hình sự quy định; b) Quyết định, phê chuẩn việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong việc khởi tố, điều tra, truy tố theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự; c) Hủy bỏ các quyết định tố tụng trái pháp luật khác trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong việc khởi tố, điều tra của
Cơ quan điều tra có nhiệm vụ thực hiện các hoạt động điều tra và có quyền đề ra yêu cầu điều tra khi cần thiết.
Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm yêu cầu các cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu để làm rõ tội phạm và người phạm tội Họ trực tiếp giải quyết tố giác và tin báo về tội phạm, đồng thời tiến hành các hoạt động điều tra để xác định căn cứ buộc tội Viện kiểm sát cũng điều tra các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, tham nhũng và chức vụ xảy ra trong lĩnh vực này Họ có quyền quyết định áp dụng thủ tục rút gọn trong giai đoạn điều tra và truy tố, cũng như quyết định việc truy tố tại phiên tòa Trong trường hợp phát hiện oan, sai hoặc bỏ lọt tội phạm, họ có thể kháng nghị bản án và quyết định của Tòa án Ngoài ra, Viện kiểm sát còn thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn khác liên quan đến việc buộc tội theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
1 Kiểm sát hoạt động tư pháp là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân để kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp, được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự; trong việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư pháp khác theo quy định của pháp luật
3 Khi thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp, Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: a) Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động tư pháp theo đúng quy định của pháp luật; tự kiểm tra việc tiến hành hoạt động tư pháp thuộc thẩm quyền và thông báo kết quả cho Viện kiểm sát nhân dân; cung cấp hồ sơ, tài liệu để Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định trong hoạt động tư pháp; b) Trực tiếp kiểm sát; xác minh, thu thập tài liệu để làm rõ vi phạm pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp; c) Xử lý vi phạm; yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền khắc phục, xử lý nghiêm minh vi phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp; kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp phòng ngừa vi phạm pháp luật và tội phạm; d) Kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án có vi phạm pháp luật; kiến nghị hành vi, quyết định của Tòa án có vi phạm pháp luật; kháng nghị hành vi, quyết định có vi phạm pháp luật của cơ quan, người có thẩm quyền khác trong hoạt động tư pháp; đ) Kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền; e) Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong kiểm sát hoạt động tư pháp theo quy định của pháp luật.”
Nhi ệ m v ụ và quy ề n h ạ n c ủ a Vi ệ n ki ể m sát nhân dân trong t ố
Hiến pháp 2013 và Bộ luật Tố tụng hành chính 2015 xác định Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan chịu trách nhiệm kiểm soát việc tuân thủ pháp luật Để thực hiện hiệu quả các quyền năng và biện pháp, Nhà nước đã giao cho Viện kiểm sát nhân dân những nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể.
Nhiệm vụ, theo định nghĩa trong Đại Từ điển tiếng Việt, là công việc cần thực hiện với mục đích cụ thể và trong khoảng thời gian nhất định Điều này có nghĩa là nhiệm vụ mang tính chất bắt buộc, yêu cầu sự hoàn thành trong thời gian đã được xác định.
Nhiệm vụ của chủ thể trong quan hệ xã hội được xác định bởi tư cách của họ và quy định của pháp luật Mỗi chủ thể có thể có những nhiệm vụ khác nhau tùy thuộc vào các mối quan hệ xã hội mà họ tham gia Đối với Viện kiểm sát nhân dân, nhiệm vụ của họ bao gồm các hoạt động cụ thể trong một khoảng thời gian nhất định, nhằm thực hiện chức năng và nhiệm vụ được giao theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.
Nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong tố tụng hành chính được quy định rõ ràng bởi Nhà nước trong Hiến pháp và Luật Tổ chức, thể hiện vai trò quan trọng của cơ quan này trong việc đảm bảo tính hợp pháp và công bằng trong quá trình tố tụng.
Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm thực hiện Luật Tố tụng hành chính cùng các văn bản pháp luật liên quan, thông qua các giải pháp, hình thức và phương thức cụ thể trong quá trình giải quyết vụ việc hành chính.
“Điề u 22 Trách nhi ệ m c ủa cơ quan tiế n hành t ố t ụng, ngườ i ti ế n hành t ố t ụ ng
1 Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải tôn trọng Nhân dân và chịu sự giám sát của Nhân dân
2 Tòa án có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân
Viện kiểm sát có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ pháp luật, quyền con người và quyền công dân, đồng thời bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và lợi ích của Nhà nước Ngoài ra, Viện cũng đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần vào việc thực thi pháp luật một cách nghiêm chỉnh và thống nhất.
(Theo Luật Tố tụng hành chính 2015)
Quyền hạn được hiểu là quyền theo cương vị, chức vụ cho phép một cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân thực hiện các nhiệm vụ nhất định Theo quy định pháp luật, quyền hạn này được xác định dựa trên phạm vi nội dung, lĩnh vực hoạt động, cấp bậc, chức vụ và vị trí công tác trong không gian và thời gian cụ thể Trong khoa học pháp lý, quyền hạn thường gắn liền với các cơ quan, tổ chức trong bộ máy nhà nước hoặc với cá nhân có thẩm quyền của những cơ quan, tổ chức đó Quyền hạn của cơ quan, tổ chức cho phép họ quyết định và giải quyết công việc trong phạm vi thẩm quyền của mình, trong khi quyền hạn của cá nhân có thẩm quyền cho phép họ thực hiện các quyết định trong giới hạn quyền hạn của bản thân.
Viện kiểm sát nhân dân có quyền hạn rõ ràng trong tố tụng hành chính, được quy định cụ thể trong các bộ luật và văn bản liên quan Vai trò của Viện kiểm sát là kiểm sát việc tuân thủ pháp luật trong quá trình tố tụng hành chính, nhằm đảm bảo việc giải quyết các vụ án hành chính diễn ra kịp thời và đúng quy định của pháp luật.
“Điề u 25 Ki ể m sát vi ệ c tuân theo pháp lu ậ t trong t ố t ụ ng hành chính
1 Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hành chính nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ án hành chính kịp thời, đúng pháp luật
2 Viện kiểm sát kiểm sát vụ án hành chính từ khi thụ lý đến khi kết thúc việc giải quyết vụ án; tham gia các phiên tòa, phiên họp của Tòa án; kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong công tác thi hành bản án, quyết định của Tòa án; thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghịtheo quy định của pháp luật
3 Đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi
Theo quy định, nếu người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc người có khó khăn trong nhận thức không có người khởi kiện, Viện kiểm sát sẽ kiến nghị Ủy ban nhân dân cấp xã nơi họ cư trú cử người giám hộ để khởi kiện vụ án hành chính, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ.
(Theo Luật Tố tụng hành chính 2015)
Nguyên t ắ c t ổ ch ứ c và ho ạt độ ng c ủ a Vi ệ n ki ể m sát nhân dân 28 1 Nguyên tắc tập trung, thống nhất lãnh đạo trong ngành
Viện kiểm sát nhân dân hoạt động dựa trên các nguyên tắc tổ chức của bộ máy nhà nước, nhưng do đặc thù về vị trí, chức năng và nhiệm vụ, hệ thống này được quy định theo những nguyên tắc riêng nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và đáp ứng yêu cầu bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa Các nguyên tắc này được nêu rõ trong Điều 108, 109 của Hiến pháp năm 2013 và Điều 7 của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, bao gồm nguyên tắc tập trung, thống nhất lãnh đạo trong ngành và nguyên tắc độc lập, không phụ thuộc vào bất kỳ cơ quan nhà nước nào ở địa phương.
1.4.1 Nguyên tắc tập trung, thống nhất lãnh đạo trong ngành
Nguyên tắc phụ thuộc hai chiều trong quản lý nhà nước đảm bảo tính thống nhất của pháp chế, với các cơ quan địa phương vừa thuộc Chính phủ, vừa thuộc Hội đồng nhân dân hoặc ủy ban nhân dân Tuy nhiên, Viện kiểm sát nhân dân không hoạt động theo nguyên tắc này mà tuân theo nguyên tắc tập trung và thống nhất lãnh đạo trong ngành.
Theo nguyên tắc lãnh đạo, Viện kiểm sát nhân dân được điều hành bởi Viện trưởng, trong khi Viện trưởng của các Viện kiểm sát nhân dân cấp dưới phải tuân thủ sự lãnh đạo của Viện trưởng cấp trên.
Viện kiểm sát nhân dân cấp trên Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân các địa
Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp hoạt động dưới sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, theo quy định tại Điều 109 Hiến pháp 2013 và Điều 7 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 Các vị trí như Viện trưởng, Phó viện trưởng và Kiểm sát viên tại các địa phương cũng nằm trong cơ cấu tổ chức này.
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân có quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm và cách chức các Điều tra viên của Viện kiểm sát quân sự quân khu và khu vực, theo quy định tại Điều 9 của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002.
“Điề u 7 Nguyên t ắ c t ổ ch ứ c và ho ạt độ ng c ủ a Vi ệ n ki ể m sát nhân dân
1 Viện kiểm sát nhân dân do Viện trưởng lãnh đạo Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp trên Viện trưởng các Viện kiểm sát cấp dưới chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao
Viện kiểm sát cấp trên có trách nhiệm kiểm tra và xử lý các vi phạm pháp luật của Viện kiểm sát cấp dưới một cách nghiêm minh Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên có quyền rút, đình chỉ hoặc hủy bỏ các quyết định trái pháp luật của Viện trưởng Viện kiểm sát cấp dưới, theo quy định tại Điều 109 Hiến pháp 2013.
1 Viện kiểm sát nhân dân do Viện trưởng lãnh đạo Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp trên Viện trưởng các Viện kiểm sát cấp dưới chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao […]”.
Tất cả các Viện kiểm sát nhân dân tạo thành một hệ thống thống nhất, với mọi hoạt động đều dưới sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân chịu trách nhiệm cá nhân về toàn bộ hoạt động của Viện kiểm sát mà mình lãnh đạo trước Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Viện kiểm sát nhân dân tối cao có trách nhiệm cá nhân đối với toàn bộ hoạt động của ngành kiểm sát, báo cáo trực tiếp trước Quốc hội, ủy ban Thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước.
Nguyên tắc tập trung và thống nhất lãnh đạo trong ngành kiểm sát đảm bảo sự đồng bộ và nhất quán ở tất cả các cấp, từ đó nâng cao hiệu quả trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát.
1.4.2 Nguyên tắc không lệ thuộc vào bất kỳ cơ quan nhà nước nào ở địa phương
Viện kiểm sát nhân dân hoạt động độc lập, không chịu sự chi phối từ bất kỳ cơ quan nhà nước nào ở địa phương, điều này liên quan chặt chẽ đến nguyên tắc tập trung và thống nhất lãnh đạo trong ngành Nguyên tắc này tạo điều kiện cho ngành kiểm sát thực hiện tốt nhiệm vụ bảo đảm pháp luật được thi hành nghiêm chỉnh và thống nhất Đồng thời, nó cũng nhằm đảm bảo sự công bằng, vô tư, khách quan và nghiêm túc trong công tác giám sát, đảm bảo thực thi đầy đủ và nghiêm chỉnh theo quy định của pháp luật.
Viện kiểm sát nhân dân hoạt động độc lập, không bị chi phối bởi bất kỳ cơ quan nhà nước nào ở địa phương, chỉ chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao Các Viện kiểm sát này tuân thủ Hiến pháp, các đạo luật và văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, đồng thời thực hiện theo chỉ thị của Viện trưởng.
Viện kiểm sát nhân dân tối cao là cơ quan độc lập, không chịu sự can thiệp từ các cơ quan nhà nước địa phương trong hoạt động của mình Điều này đảm bảo tính khách quan và công bằng trong việc thực thi pháp luật.
Theo Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân địa phương không hoàn toàn độc lập mà phải chịu sự giám sát của Hội đồng nhân dân cùng cấp Viện trưởng có trách nhiệm báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân và trả lời chất vấn của các đại biểu về tình hình chấp hành pháp luật và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân tại địa phương.
Những thay đổi trong quan điểm về vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong pháp luật tố tụng hành chính
trong pháp luật tố tụng hành chính
Hiện nay, có nhiều ý kiến trái chiều về vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính và dân sự Vai trò này đang được thảo luận và phân tích sâu rộng, nhấn mạnh tầm quan trọng của Viện kiểm sát trong việc bảo vệ công lý và đảm bảo tính minh bạch của các quy trình tố tụng.
Viện kiểm sát luôn là chủ đề nóng trong các kỳ họp Quốc hội, với hai luồng ý kiến trái chiều từ các đại biểu.
Viện kiểm sát là cơ quan tiến hành tố tụng, trong khi đó phần ý kiến còn lại lại
34 phản bác nhận định này và khẳng định rằng, Viện kiểm sát hãy nên làm đúng vai trò của mình với tư cách là một cơ quan kiểm sát
Viện kiểm sát nhân dân đã thực hiện tốt vai trò của mình trong tố tụng và chức năng kiểm sát xét xử, do đó nhiều ý kiến cho rằng không cần thiết phải sửa đổi vai trò này và nên tiếp tục duy trì.
Trong tố tụng hành chính và dân sự, Viện kiểm sát chỉ có chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp mà không phải là bên có quyền phân xử vụ kiện, khác với vai trò trong tố tụng hình sự Do đó, Viện kiểm sát nên được gọi là cơ quan kiểm sát, không phải là cơ quan tiến hành tố tụng Khái niệm cơ quan tiến hành tố tụng chỉ áp dụng trong tố tụng hình sự, nơi cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án thực hiện công quyền Nhiều người đồng tình với quan điểm này và mong muốn có sự thay đổi, vì can thiệp quá sâu của Viện kiểm sát trong vụ án hành chính có thể dẫn đến bất công và sự nhập nhằng Chức năng kiểm sát hoạt động xét xử hành chính của Viện kiểm sát nhân dân đã được khẳng định trong Hiến pháp, và đây là hoạt động đặc thù chỉ có ở các nước xã hội chủ nghĩa Sự cần thiết của một cơ quan độc lập để giám sát hoạt động của cá nhân và tổ chức trong xã hội xuất phát từ nguyên lý tổ chức quyền lực nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Trong hệ thống tổ chức quyền lực xã hội chủ nghĩa, Tòa án không đảm nhiệm vai trò giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, chủ yếu là bộ máy hành chính, dẫn đến việc cần thiết phải có chức năng kiểm sát chung để bù đắp cho sự thiếu vắng này Theo quan sát của các học giả phương Tây, thiết chế Viện kiểm sát chỉ tồn tại trong các hệ thống hành chính của các nước xã hội chủ nghĩa, nơi mà vai trò của Tòa án không được phát huy.
Tòa án hành chính, hoặc có Tòa án hành chính nhưng chỉ phôi thai hay không được coi trọng lắm” [36]
Mặc dù nguyên lý tổ chức không thay đổi, chức năng kiểm sát chung của Viện kiểm sát đã bị bãi bỏ do trùng lặp với các hoạt động khác như thanh tra, kiểm tra của cơ quan hành chính và giám sát của cơ quan quyền lực Tuy nhiên, kiểm sát xét xử vẫn được duy trì vì tình hình thực tiễn của nước ta vẫn cần thiết cho hoạt động này Kiểm sát xét xử giúp giải quyết những khó khăn còn tồn tại trong quá trình xét xử, do các nguyên nhân khách quan như chiến tranh và thất lạc giấy tờ, cũng như nguyên nhân chủ quan như trình độ hạn chế của thẩm phán và đương sự Do đó, vai trò giám sát của Viện kiểm sát trong các phiên tòa là rất quan trọng để đảm bảo tính hợp pháp và tính vô tư trong xét xử của Tòa án.
Kiểm sát xét xử hiện nay có cần thiết hay không là một câu hỏi quan trọng Chức năng này có thể ảnh hưởng đến hoạt động xét xử hành chính, và điều này phụ thuộc vào quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong quá trình xét xử các vụ án hành chính.
Viện kiểm sát đóng vai trò quan trọng trong tất cả các giai đoạn của quá trình tố tụng hành chính, và theo quy định, một số vụ án yêu cầu sự hiện diện bắt buộc của Viện kiểm sát.
Viện kiểm sát đóng vai trò quan trọng trong quá trình tố tụng tại các cấp xét xử Ở cấp sơ thẩm, Viện kiểm sát phải tham gia vào các vụ án do chính mình khởi kiện, cũng như những vụ án liên quan đến đương sự chưa thành niên hoặc có nhược điểm về thể chất, tinh thần, và các vụ án áp dụng biện pháp cưỡng chế hành chính đặc biệt Tại cấp phúc thẩm, Viện kiểm sát tiếp tục hiện diện trong các vụ việc đã tham gia từ giai đoạn sơ thẩm Đặc biệt, ở cấp giám đốc thẩm và tái thẩm, sự có mặt của Viện kiểm sát là bắt buộc.
Viện kiểm sát không chỉ tham gia vào các vụ xét xử hành chính mà còn nắm giữ những thẩm quyền quan trọng có thể tác động đến quá trình này Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Viện kiểm sát có quyền đề nghị chuyển giao hồ sơ và yêu cầu Tòa án thực hiện các biện pháp điều tra bổ sung như xác minh và thu thập chứng cứ Trong trường hợp đặc biệt, Viện kiểm sát có thể tự tiến hành điều tra Tại phiên tòa, Viện kiểm sát tham gia trực tiếp, kiểm soát diễn biến và có quyền đề nghị triệu tập nhân chứng, người giám định hay phiên dịch, cũng như cung cấp chứng cứ bổ sung Đặc biệt, trong giai đoạn thẩm vấn, đại diện Viện kiểm sát có quyền đặt câu hỏi và tham gia xét hỏi trực tiếp.
“Điều 89 Trưng cầu giám đị nh, yêu c ầu giám đị nh
5 Việc giám định lại được thực hiện trong trường hợp có căn cứ cho rằng kết luận giám định lần đầu không chính xác, có vi phạm pháp luật hoặc trong trường hợp đặc biệt theo quyết định của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao theo quy định của Luật giám định tư pháp.
37 Điề u 93 Yêu c ầu cơ quan, tổ ch ứ c, cá nhân cung c ấ p tài li ệ u, ch ứ ng c ứ
Khi Viện kiểm sát yêu cầu cung cấp tài liệu và chứng cứ, các cơ quan, tổ chức và cá nhân phải thực hiện nghĩa vụ này theo quy định tại khoản tương ứng.
Trong giai đoạn này, Viện kiểm sát nắm giữ quyền lực lớn khi đọc kết luận của mình, thể hiện nhận định chủ quan và định hướng xét xử của vụ án Vai trò của đại diện Viện kiểm sát không chỉ dừng lại ở việc trình bày kết luận trước Hội đồng xét xử, mà còn có quyền kháng nghị trong tất cả các thủ tục phúc thẩm, tái thẩm và giám đốc thẩm Điều này khác biệt với pháp luật nước ngoài, nơi vai trò kháng nghị chỉ thuộc về đương sự Kháng nghị của Viện kiểm sát có hiệu lực bắt buộc, buộc Tòa án phải tiến hành các thủ tục xét xử tiếp theo nếu bản án bị kháng nghị.
Kiểm sát xét xử là cần thiết để đảm bảo tuân thủ pháp luật trong hoạt động của Tòa án, nhưng Viện kiểm sát cũng có quyền kháng nghị bản án hoặc phán quyết Điều này đặt ra câu hỏi về khả năng Viện kiểm sát gây áp lực và thay đổi kết luận của bản án thông qua quyền kháng nghị Nếu quyền này được sử dụng đúng cách, nó có thể nâng cao hiệu quả xét xử và tăng cường niềm tin của đương sự vào Viện kiểm sát Ngược lại, nếu sử dụng sai mục đích, quyền kháng nghị có thể can thiệp vào hoạt động xét xử, ảnh hưởng đến nguyên tắc độc lập của Tòa án Do đó, chức năng này có thể không thực sự cần thiết, nhất là khi còn nhiều phương thức khác để kiểm sát tuân thủ pháp luật và bảo vệ quyền lợi đương sự, như quyền kháng cáo của đương sự, kháng nghị của Tòa án cấp trên, và giám sát tư pháp từ cơ quan quyền lực nhà nước Vì vậy, Viện kiểm sát trong tố tụng hành chính chỉ nên giữ vai trò hỗ trợ.
38 là cơ quan kiểm sát hoạt động việc tuân thủ pháp luật và thủ tục hành chính trong vụ án hành chính
Viện Kiểm sát đóng vai trò quan trọng trong hệ thống pháp luật, không chỉ trong việc giám sát và bảo vệ pháp luật mà còn là người khởi kiện trong các vụ án hành chính, theo quy định tại Điều
Nh ững điể m m ớ i v ề vai trò c ủ a Vi ệ n ki ể m sát trong lu ậ t t ố t ụ ng hành chính 2015
Kinh tế đất nước phát triển và đời sống nhân dân được cải thiện đã dẫn đến những thay đổi về pháp luật Các quy định cũ không còn phù hợp với sự tiến bộ của xã hội, đòi hỏi sự điều chỉnh để thích ứng với tình hình hiện đại Đặc biệt trong lĩnh vực hành chính, các thủ tục phức tạp không đáp ứng nhu cầu của người dân trong việc giải quyết các vụ án hành chính, vì vậy cải cách Luật Tố tụng hành chính là điều cần thiết.
Luật Tố tụng hành chính năm 2015 bao gồm 23 chương và 372 điều, tăng 5 chương và 107 điều so với luật năm 2010, nhằm khắc phục những hạn chế và vướng mắc trước đó Luật này kế thừa những quy định hợp lý và tham khảo kinh nghiệm quốc tế, đảm bảo không cản trở việc thực hiện các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia Điểm mới nổi bật trong Luật Tố tụng hành chính 2015 là sự thay đổi về vai trò, nhiệm vụ và quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, đánh dấu một bước đột phá quan trọng trong việc công nhận sự cần thiết của Viện kiểm sát trong quá trình xét xử các vụ án hành chính.
2.2.1 Về sự có mặt của Kiểm sát viên tại các phiên tòa, phiên họp trong tố tụng hành chính
Luật Tố tụng hành chính 2015 có quy định về sự có mặt của Viện kiểm sát nhân dân tại phiên tòa như sau:
“Điề u 156 S ự có m ặ t c ủ a Ki ể m sát viên
1 Kiểm sát viên được Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp phân công có nhiệm vụ tham gia phiên tòa, nếu vắng mặt thì Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử
2 Trường hợp Kiểm sát viên bị thay đổi tại phiên tòa hoặc không thể tiếp tục tham gia phiên tòa xét xử, nhưng có Kiểm sát viên dự khuyết thì người này được tham gia phiên tòa xét xử tiếp vụ án nếu họ có mặt tại phiên tòa từ đầu.”
Với quy định trên chúng ta có thể thấy Luật Tố tụng hành chính năm
Luật Tố tụng hành chính năm 2015 đã kế thừa những điểm quan trọng từ Luật Tố tụng hành chính năm 2010, bao gồm việc yêu cầu kiểm sát viên do Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp phân công phải có mặt tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hành chính Ngoài ra, nếu kiểm sát viên bị thay đổi hoặc không thể tiếp tục tham gia phiên tòa, kiểm sát viên dự khuyết có thể tham gia tiếp nếu có mặt từ đầu phiên tòa.
2015 có một điểm sửa đổi so với quy định của Luật Tố tụng hành chính năm
Năm 2010, quy định mới cho phép Hội đồng xét xử tiếp tục phiên tòa mà không cần sự có mặt của kiểm sát viên, nhằm đảm bảo tiến độ giải quyết các vụ án hành chính kịp thời và đúng thời hạn tố tụng Điều này cho thấy sự không quan trọng của việc có mặt hay không của kiểm sát viên trong các vụ án hành chính Theo Điều 224 Luật Tố tụng hành chính 2015, sự có mặt của kiểm sát viên trong phiên tòa phúc thẩm vẫn được quy định rõ ràng.
“Điề u 224 S ự có m ặ t c ủ a Ki ể m sát viên
1 Kiểm sát viên được Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp phân công có nhiệm vụ tham gia phiên tòa Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa khi Kiểm sát viên vắng mặt trong trường hợp Viện kiểm sát có kháng nghị
2 Trường hợp Kiểm sát viên vắng mặt hoặc không thể tiếp tục tham gia phiên tòa, nhưng có Kiểm sát viên dự khuyết tham gia phiên tòa từ đầu thì người này được thay thế Kiểm sát viên vắng mặt tham gia phiên tòa xét xử vụ án.”
Luật Tố tụng hành chính năm 2015 kế thừa quy định từ Luật Tố tụng hành chính năm 2010, cho phép kiểm sát viên dự khuyết tham gia phiên tòa phúc thẩm để thay thế kiểm sát viên vắng mặt Trong khi Điều 194 của Luật Tố tụng hành chính năm 2010 yêu cầu hoãn phiên tòa nếu không có kiểm sát viên dự khuyết, Luật Tố tụng hành chính năm 2015 quy định rằng Hội đồng xét xử chỉ quyết định hoãn phiên tòa khi Viện kiểm sát có kháng nghị Đối với thủ tục phúc thẩm, theo khoản 4 Điều 243, kiểm sát viên cùng cấp tham gia phiên họp và phát biểu ý kiến trước khi Hội đồng xét xử ra quyết định, và phiên họp sẽ bị hoãn nếu kiểm sát viên vắng mặt trong trường hợp cần thiết.
Theo quy định, nếu kiểm sát viên vắng mặt trong vụ án hành chính nhưng có kháng cáo từ đương sự mà không phải là kháng nghị của Viện kiểm sát, thì phiên tòa vẫn được tiến hành bình thường mà không cần hoãn.
Luật Tố tụng hành chính năm 2015 kế thừa quy định từ Luật Tố tụng hành chính năm 2010, theo đó Điều 267 nêu rõ rằng "Phiên tòa giám đốc thẩm phải có sự tham gia của Viện kiểm sát cùng cấp" Điều này đảm bảo sự hiện diện của kiểm sát viên trong các phiên tòa giám đốc thẩm, góp phần vào tính minh bạch và công bằng của quá trình tố tụng.
Theo Điều 290, trong thủ tục đặc biệt xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có trách nhiệm tham dự phiên họp để xem xét các kiến nghị từ Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, kiến nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, hoặc đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, theo quy định tại khoản 4 Điều 287 của Luật này.
Quy định mới này gia tăng quyền hạn của Viện trưởng Viện kiểm sát trong việc tham gia xem xét kiến nghị tái thẩm vụ án hành chính, từ đó nâng cao khả năng tái thẩm cho các vụ án này.
2.2.2 Phát biểu của Kiểm sát viên tại các phiên tòa, phiên họp trong tố tụng hành chính
So với quy định của Luật Tố tụng hành chính năm 2010, quy định của
Luật Tố tụng hành chính năm 2015 về phát biểu của kiểm sát viên tại phiên tòa xét xửsơ thẩm vụ án hành chính có sự sửa đổi quan trọng
“Điề u 190 Phát bi ể u c ủ a Ki ể m sát viên
Sau khi các bên tham gia tố tụng hoàn tất việc tranh luận và đối đáp, Kiểm sát viên sẽ đưa ra ý kiến về việc thực hiện đúng quy định của pháp luật tố tụng bởi Thẩm phán.
Hội thẩm nhân dân, Thư ký phiên tòa và các bên tham gia tố tụng đóng vai trò quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án, từ khi tiếp nhận hồ sơ cho đến trước khi Hội đồng xét xử tiến hành nghị án và đưa ra ý kiến về cách giải quyết vụ án.
Ngay sau khi kết thúc phiên tòa, Kiểm sát viên phải gửi văn bản phát biểu ý kiến cho Tòa án đểlưu vào hồsơ vụán.”
(Theo điều 190 Luật Tố tụng hành chính 2015)
Điể m m ớ i v ề vai trò c ủ a Vi ệ n ki ể m sát nhân dân trong Lu ậ t T ổ
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 xác định rõ vị trí của Viện kiểm sát là một thiết chế Hiến định trong bộ máy nhà nước, có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp, pháp luật, cũng như quyền con người và quyền công dân Luật này quy định chi tiết phạm vi, nội dung và mục đích của các chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp Viện kiểm sát thực hành quyền công tố từ giai đoạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm đến điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự Đối với chức năng kiểm sát, Luật đã bổ sung quy định về việc tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, cũng như kiểm sát trong giai đoạn truy tố và giải quyết khiếu nại, tố cáo Ngoài ra, Luật cũng phân định rõ các trường hợp mà Viện kiểm sát thực hiện quyền kháng nghị hoặc quyền kiến nghị, tuy nhiên, vẫn cần làm rõ hơn trong từng trường hợp cụ thể.
Viện kiểm sát thực hiện quyền kháng nghị khi phát hiện các hành vi, bản án, quyết định vi phạm pháp luật nghiêm trọng, xâm phạm quyền con người, quyền công dân, và lợi ích hợp pháp của nhà nước, tổ chức, cá nhân Ngoài ra, Viện kiểm sát còn thực hiện quyền kiến nghị đối với các vi phạm pháp luật ít nghiêm trọng hoặc khi phát hiện sơ hở trong hoạt động quản lý của cơ quan, tổ chức Luật cũng quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc giải quyết và trả lời kháng nghị, kiến nghị của Viện kiểm sát, nhằm đảm bảo hiệu lực và hiệu quả trong việc thực hiện các quyền này.
Luật Tổ chức Viện kiểm sát 2014 quy định 04 cấp Viện kiểm sát, bao gồm Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân cấp cao, Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh và Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao là cấp kiểm sát mới, có nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp đối với các vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp cao Cụ thể, Viện kiểm sát nhân dân cấp cao có quyền thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử phúc thẩm và giám đốc thẩm Việc bổ sung cấp Viện kiểm sát này được kỳ vọng sẽ giảm thiểu các vụ án oan sai và vi phạm trong thủ tục xét xử, đồng thời đảm bảo tuân thủ quy trình pháp lý, dân chủ, công khai, minh bạch và hiệu quả trong hoạt động tố tụng.
Luật Tố tụng hành chính năm 2015 đã kế thừa và phát huy những quy định quan trọng về vai trò của Viện kiểm sát trong hoạt động tố tụng, đảm bảo tính minh bạch và công bằng trong quá trình xét xử.
Luật Tố tụng hành chính năm 2010 đã được sửa đổi và bổ sung nhiều quy định mới nhằm phù hợp với sự phát triển của đất nước và tính thời sự của xã hội hiện đại Những thay đổi này đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động của Viện kiểm sát, giúp thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, quyền con người, quyền công dân, và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân theo quy định tại Điều 22 của Luật Tố tụng hành chính năm 2015.