Pháp luật về hợp đồng cung ứng dịch vụ pháp lý – Thực tiễn thực hiện tại Văn phòng luật sư Hiệp và Liên danhPháp luật về hợp đồng cung ứng dịch vụ pháp lý – Thực tiễn thực hiện tại Văn phòng luật sư Hiệp và Liên danhPháp luật về hợp đồng cung ứng dịch vụ pháp lý – Thực tiễn thực hiện tại Văn phòng luật sư Hiệp và Liên danhPháp luật về hợp đồng cung ứng dịch vụ pháp lý – Thực tiễn thực hiện tại Văn phòng luật sư Hiệp và Liên danhPháp luật về hợp đồng cung ứng dịch vụ pháp lý – Thực tiễn thực hiện tại Văn phòng luật sư Hiệp và Liên danhPháp luật về hợp đồng cung ứng dịch vụ pháp lý – Thực tiễn thực hiện tại Văn phòng luật sư Hiệp và Liên danhPháp luật về hợp đồng cung ứng dịch vụ pháp lý – Thực tiễn thực hiện tại Văn phòng luật sư Hiệp và Liên danhPháp luật về hợp đồng cung ứng dịch vụ pháp lý – Thực tiễn thực hiện tại Văn phòng luật sư Hiệp và Liên danhPháp luật về hợp đồng cung ứng dịch vụ pháp lý – Thực tiễn thực hiện tại Văn phòng luật sư Hiệp và Liên danhPháp luật về hợp đồng cung ứng dịch vụ pháp lý – Thực tiễn thực hiện tại Văn phòng luật sư Hiệp và Liên danhPháp luật về hợp đồng cung ứng dịch vụ pháp lý – Thực tiễn thực hiện tại Văn phòng luật sư Hiệp và Liên danhPháp luật về hợp đồng cung ứng dịch vụ pháp lý – Thực tiễn thực hiện tại Văn phòng luật sư Hiệp và Liên danhPháp luật về hợp đồng cung ứng dịch vụ pháp lý – Thực tiễn thực hiện tại Văn phòng luật sư Hiệp và Liên danhPháp luật về hợp đồng cung ứng dịch vụ pháp lý – Thực tiễn thực hiện tại Văn phòng luật sư Hiệp và Liên danhPháp luật về hợp đồng cung ứng dịch vụ pháp lý – Thực tiễn thực hiện tại Văn phòng luật sư Hiệp và Liên danh
Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế, nhu cầu sử dụng dịch vụ pháp lý (DVPL) ngày càng tăng cao từ các tổ chức và cá nhân để đảm bảo an toàn pháp lý cho giao dịch Quá trình toàn cầu hóa đã thúc đẩy sự phát triển của DVPL, với các giao dịch thường xuyên liên quan đến pháp luật trong nước và quốc tế Để các giao dịch diễn ra an toàn, cần có sự trợ giúp pháp lý từ các nhà cung cấp DVPL, thể hiện qua hợp đồng dịch vụ pháp lý (HĐDVPL) Để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của bên sử dụng DVPL và phòng ngừa tranh chấp, pháp luật về HĐDVPL cần liên tục hoàn thiện và phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết Mặc dù DVPL tại Việt Nam đã phát triển từ những năm 90, nhưng kinh nghiệm của giới luật sư vẫn còn hạn chế so với các nước phát triển Hơn nữa, thói quen sử dụng DVPL trong hoạt động của tổ chức, cá nhân còn yếu kém, trong khi tình trạng quan liêu và thiếu hiểu biết của một bộ phận cán bộ nhà nước và người dân vẫn tồn tại, tạo ra nhu cầu cấp thiết cho sự hỗ trợ từ các nhà cung cấp DVPL.
Pháp luật điều chỉnh hợp đồng dịch vụ pháp lý (HĐDVPL) tại Việt Nam hiện chưa hoàn chỉnh, với quy định rải rác trong nhiều văn bản pháp luật như Bộ luật Dân sự năm 2015, Luật Thương mại năm 2005 và các đạo luật chuyên ngành Mặc dù đã tạo ra cơ sở pháp lý cho hoạt động của các nhà cung cấp dịch vụ pháp lý, nhưng các văn bản này không quy định trực tiếp về HĐDVPL, dẫn đến tình trạng chồng chéo và mâu thuẫn trong các quy định Hệ quả là một số vấn đề không được điều chỉnh hoặc quy định không rõ ràng, gây khó khăn cho các bên liên quan, cũng như cho hoạt động quản lý nhà nước và giải quyết tranh chấp liên quan đến HĐDVPL.
Xuất phát từ thực tiễn trong hoạt động cung ứng dịch vụ pháp lý tại Văn phòng luật sư Hiệp và Liên danh, tôi nhận thấy rằng các văn bản pháp luật về hợp đồng dịch vụ pháp lý cần được sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện hơn Do đó, tôi quyết định chọn đề tài “Pháp luật về hợp đồng cung ứng dịch vụ pháp lý – Thực tiễn thực hiện tại Văn phòng luật sư Hiệp và Liên danh” cho khoá luận tốt nghiệp Tôi hy vọng nghiên cứu này sẽ mang lại lợi ích cho bản thân và cung cấp nguồn tham khảo cho Văn phòng luật sư Hiệp và Liên danh trong việc xây dựng và hoàn thiện hợp đồng dịch vụ pháp lý, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của mình.
Tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan
Từ những năm 90 của thế kỷ 20, dịch vụ pháp lý (DVPL) tại Việt Nam đã được ghi nhận và hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực luật sư, với sự phát triển mạnh mẽ trong hơn hai thập kỷ qua Trong thời gian này, nhiều nghiên cứu về DVPL đã được thực hiện, tập trung vào các khía cạnh khác nhau như giáo trình và sách chuyên khảo, nhưng chủ yếu dưới dạng bài viết đăng trên tạp chí, kỷ yếu hội thảo và đề tài nghiên cứu của cá nhân, tổ chức Một số công trình nghiên cứu tiêu biểu đã được thực hiện trong lĩnh vực này.
Hoàng Thị Vịnh (2014) trong luận văn tiến sĩ "Hợp đồng dịch vụ pháp lý tại Việt Nam" đã nghiên cứu các quy định cơ bản liên quan đến hợp đồng dịch vụ pháp lý, bao gồm chủ thể, nội dung, thực hiện, điều kiện có hiệu lực và trách nhiệm vi phạm Tác giả đã xây dựng hệ thống lý luận về dịch vụ pháp lý và thương mại dịch vụ pháp lý, đồng thời phân tích thực tiễn quan hệ cung ứng dịch vụ pháp lý Luận án cũng đánh giá tính phù hợp của pháp luật hợp đồng dịch vụ pháp lý với thực tiễn hoạt động trong lĩnh vực này và đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật.
Vũ Quỳnh Anh (2006) trong luận văn thạc sĩ luật học “Hợp đồng dịch vụ pháp lý trong hành nghề luật sư, một số vấn đề lý luận và thực tiễn” đã nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến hợp đồng dịch vụ pháp lý (HĐDVPL) trong lĩnh vực hành nghề luật sư, đồng thời phân tích thực trạng áp dụng quy định pháp luật về loại hợp đồng này Đề tài mang ý nghĩa lý luận quan trọng và góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật, tuy nhiên vẫn còn thiếu các nghiên cứu cụ thể trong từng lĩnh vực thực hiện HĐDVPL để chỉ ra những bất cập và hạn chế hiện có.
Nguyễn Mai Anh (2015) trong luận văn thạc sĩ luật học "Hợp đồng tư vấn pháp lý ở Việt Nam" đã nghiên cứu sâu các quy định pháp luật liên quan đến hợp đồng tư vấn pháp lý Tác giả đã xây dựng khái niệm về hợp đồng tư vấn pháp lý, so sánh với thực tiễn và đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện khung pháp lý cho loại hình dịch vụ này Tuy nhiên, do giới hạn nghiên cứu chỉ tập trung vào tư vấn pháp lý như một dạng dịch vụ pháp lý của tổ chức hành nghề luật sư, luận văn chưa đề cập đến các loại hình dịch vụ pháp lý khác trong việc giao kết và thực hiện hợp đồng dịch vụ pháp lý.
Nguyễn Thị Mơ (2011) trong luận văn tốt nghiệp tại Trường Đại học quốc gia Hà Nội đã nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến hợp đồng dịch vụ, đặc biệt là việc giải quyết tranh chấp Mặc dù các nghiên cứu hiện có đã đánh giá nhiều khía cạnh của hợp đồng dịch vụ pháp lý (HĐDVPL), nhưng do mục tiêu nghiên cứu khác nhau, chúng chưa cung cấp cái nhìn toàn diện và hệ thống về lý luận cũng như quy định pháp luật liên quan Các tác giả chưa đi sâu vào nghiên cứu quy trình giao kết, thực hiện HĐDVPL và quyền, nghĩa vụ của các bên, dẫn đến thông tin về HĐDVPL còn hạn chế Do đó, việc áp dụng quy định pháp luật về HĐDVPL vào thực tiễn gặp nhiều khó khăn và đa dạng trong cách thức thực hiện.
Xác lập và tuyên bố vấn đề nghiên cứu
Từ ngày 22/2/2021 đến 16/4/2021, quá trình tìm hiểu về hợp đồng cung ứng dịch vụ pháp lý của Văn phòng luật sư Hiệp và Liên danh đã chỉ ra rằng, bên cạnh những kết quả tích cực, vẫn tồn tại những hạn chế trong việc hoàn thiện các hợp đồng này Do đó, vấn đề giao kết và thực hiện hợp đồng cung ứng dịch vụ pháp lý là rất quan trọng và cần thiết, ảnh hưởng quyết định đến quá trình cung cấp dịch vụ pháp lý của văn phòng Để cải thiện tình hình, cần có các biện pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện hợp đồng dịch vụ pháp lý cho các tổ chức hành nghề luật sư Trên cơ sở đó, tôi đã chọn đề tài: “Pháp luật về hợp đồng cung ứng dịch vụ pháp lý và thực tiễn thực hiện tại Văn phòng luật sư Hiệp và Liên danh” cho khóa luận tốt nghiệp của mình.
Đối tượng, mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của khóa luận tốt hướng tới hai đối tượng chính:
Bài viết này tập trung vào hai vấn đề chính: đầu tiên là các quy định pháp luật liên quan đến hợp đồng cung ứng dịch vụ pháp lý; thứ hai là việc nghiên cứu thực trạng các quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động cung ứng dịch vụ pháp lý tại Việt Nam, cùng với thực tiễn thực hiện tại Văn phòng luật sư Hiệp và Liên danh.
Khóa luận này nghiên cứu các quy định pháp luật hiện hành về hợp đồng dịch vụ pháp lý (HĐDVPL) và thực tiễn áp dụng tại Văn phòng luật sư Hiệp và Liên danh, nhằm mục tiêu làm rõ các vấn đề liên quan đến HĐDVPL và cải thiện quy trình thực hiện các quy định pháp luật trong lĩnh vực này.
Thứ nhất, nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về HĐDVPL tại Việt Nam Từ đó hệ thống hóa được pháp luật về HĐDVPL về mặt lý luận.
Phân tích và đánh giá thực trạng quy định pháp luật cùng với việc thực hiện hợp đồng dịch vụ pháp lý tại Văn phòng luật sư Hiệp và Liên danh, từ đó chỉ ra những ưu điểm và hạn chế của hệ thống pháp luật điều chỉnh hợp đồng dịch vụ pháp lý.
Khóa luận nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn, từ đó đưa ra kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về hợp đồng dịch vụ pháp lý tại Văn phòng luật sư Hiệp và Liên danh, góp phần nâng cao hiệu quả trong lĩnh vực này ở Việt Nam.
Khoá luận này nghiên cứu thực tiễn thực hiện hợp đồng cung ứng dịch vụ pháp lý tại Văn phòng luật sư Hiệp và Liên danh, với sự chú ý đến những hạn chế về năng lực và thời gian.
Khóa luận này nghiên cứu các quy định pháp luật liên quan đến hợp đồng dịch vụ pháp lý (HĐDVPL) từ năm 2015 đến nay, đặc biệt chú trọng vào những sửa đổi, bổ sung của Luật Luật sư (LLS), Bộ luật Dân sự (BLDS) và các quy phạm pháp luật khác.
Nghiên cứu quy định pháp luật điều chỉnh hợp đồng dịch vụ pháp lý (HĐDVPL) tại Việt Nam, cùng với thực tiễn thực hiện tại Văn phòng luật sư Hiệp và Liên danh, tập trung vào các hoạt động tư vấn và tranh tụng.
Phạm vi khoá luận tập trung vào pháp luật liên quan đến giao kết, thực hiện, sửa đổi, chấm dứt và giải quyết tranh chấp đối với hợp đồng dịch vụ pháp lý (HĐDVPL) Nội dung này đặc biệt chú trọng vào hoạt động tư vấn pháp lý và các hoạt động tranh tụng của Văn phòng luật sư Hiệp và Liên danh.
Phương pháp nghiên cứu
Đề tài này nghiên cứu việc áp dụng các phương pháp của Chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác - LêNin để giải quyết các vấn đề lý luận và pháp lý liên quan đến hợp đồng cung ứng dịch vụ pháp lý Bài viết tập trung vào việc sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp và so sánh pháp luật nhằm làm rõ mối quan hệ giữa quy định về hợp đồng dịch vụ pháp lý trong Bộ luật Dân sự 2015 và các quy định về cung ứng dịch vụ pháp lý trong Luật Thương mại 2005 và Luật Luật sư 2006.
Đề tài này sử dụng các phương pháp thu thập và xử lý số liệu, cùng với khảo sát thực tiễn, nhằm tìm hiểu việc áp dụng quy phạm pháp luật về hợp đồng cung ứng dịch vụ pháp lý tại Văn phòng luật sư Hiệp và Liên danh Mục tiêu là làm rõ thực trạng áp dụng các quy định pháp luật liên quan đến hợp đồng cung ứng dịch vụ, từ đó đề xuất các kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực thi các quy định này tại văn phòng luật sư.
Phương pháp thu thập dữ liệu:
Trong quá trình nghiên cứu đề tài khóa luận, việc thu thập dữ liệu sơ cấp được thực hiện thông qua việc tìm hiểu các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến hợp đồng cung ứng dịch vụ Đặc biệt, văn phòng luật sư Hiệp và Liên danh đã cung cấp thông tin quý giá từ các tài liệu nội bộ, báo cáo hàng năm và các văn bản pháp lý, từ đó tạo dựng cơ sở dữ liệu cần thiết cho nghiên cứu.
Việc nghiên cứu thông thường bắt đầu bằng việc thu thập dữ liệu thứ cấp, bao gồm nguồn tài liệu nội bộ từ đơn vị thực tập như báo cáo hoạt động và dịch vụ tư vấn pháp lý, cùng với tài liệu bên ngoài như văn bản quy phạm pháp luật, sách báo chuyên ngành và báo cáo khoa học Trong khóa luận, phương pháp này đã được áp dụng để phân tích thực trạng tại Văn phòng luật sư Hiệp và Liên danh.
Phương pháp phân tích dữ liệu:
Phương pháp thống kê là cách quan sát gián tiếp các hiện tượng kinh tế, từ đó chọn lọc thông tin cần thiết cho nghiên cứu Phương pháp này sử dụng công cụ thống kê như ghi chép và nghiên cứu tài liệu có sẵn, khai thác thông tin qua internet, sách báo và tạp chí Để viết bài, cần nắm bắt nội dung cơ bản của vấn đề nghiên cứu và tìm kiếm thông tin liên quan Ngoài ra, tham khảo các bản tin và đánh giá cá nhân về vấn đề nghiên cứu cũng rất quan trọng Phương pháp phân tích và tổng hợp được áp dụng để đánh giá thực trạng áp dụng các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến hoạt động cung ứng dịch vụ pháp lý tại Văn phòng luật sư Hiệp và Liên danh.
Phương pháp so sánh là kỹ thuật quan trọng trong việc đối chiếu dữ liệu giữa các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh hợp đồng cung ứng dịch vụ pháp lý với các văn bản pháp luật liên quan, nhằm xác định sự tương đồng và khác biệt trong quy định pháp lý.
Phương pháp nghiên cứu bao gồm quan sát, điều tra, phỏng vấn và khảo sát nhằm đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về hợp đồng cung ứng dịch vụ pháp lý tại Văn phòng luật sư Hiệp và Liên danh.
Kết cấu khóa luận tốt nghiệp
Bài viết bao gồm một chương mở đầu cùng với các mục liên quan như lời cảm ơn, mục lục, danh mục và các từ viết tắt, danh mục tài liệu tham khảo, và phụ lục, trong đó có ba chương chính.
- Chương 1: Những lý luận cơ bản về pháp luật điều chỉnh hợp đồng cung ứng dịch vụ pháp lý;
- Chương 2: Thực trạng pháp luật điều chỉnh hợp đồng cung ứng dịch vụ pháp lý và thực tiễn áp dụng tại Văn phòng Luật sư Hiệp và Liên danh;
- Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện hơn pháp luật về hợp đồng cung ứng dịch vụ pháp lý.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG CUNG ỨNG DỊCH VỤ PHÁP LÝ VÀ PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG CUNG ỨNG DỊCH VỤ PHÁP LÝ
Khái quát chung về hợp đồng cung ứng dịch vụ pháp lý
1.1.1 Khái niệm và đặc điểm của dịch vụ pháp lý a Khái niệm về dịch vụ pháp lý
Trong những năm gần đây, cụm từ “dịch vụ pháp lý” đã trở nên quen thuộc trong đời sống hàng ngày Tuy nhiên, vẫn chưa có định nghĩa rõ ràng về dịch vụ pháp lý (DVP), dẫn đến nhiều quan điểm khác nhau khi thảo luận về khái niệm này.
Dịch vụ pháp lý, theo Từ điển Luật học của Viện khoa học pháp lý, là dịch vụ do các tổ chức và cá nhân có chuyên môn và kiến thức pháp luật thực hiện, được Nhà nước tổ chức hoặc cho phép Mục đích của dịch vụ này là đáp ứng nhu cầu tư vấn, hỗ trợ và cung cấp thông tin pháp lý cho các tổ chức và cá nhân trong xã hội.
Theo Hoàng Thị Vịnh, hầu hết các nghiên cứu về dịch vụ pháp lý tại Việt Nam đều tiếp cận từ góc độ thương mại Đến nay, khái niệm về dịch vụ pháp lý vẫn chưa hoàn chỉnh Dịch vụ pháp lý được định nghĩa là loại hình dịch vụ liên quan đến pháp luật, do Nhà nước hoặc các tổ chức hành nghề cung cấp, nhằm đáp ứng nhu cầu pháp lý của cá nhân và tổ chức trong xã hội.
Dịch vụ pháp lý, theo Nguyễn Văn Tuân 3, bao gồm tổng thể các dịch vụ tư vấn pháp luật và đại diện pháp lý Phạm vi dịch vụ này được xác định bao gồm: dịch vụ tư vấn pháp luật, đại diện pháp lý trong các lĩnh vực như tố tụng tư pháp, thủ tục hành chính, tố tụng trọng tài, và đại diện theo ủy quyền trong các vấn đề pháp lý Ngoài ra, còn có các hoạt động dịch vụ pháp lý khác như soạn thảo hợp đồng và các giấy tờ pháp lý.
Ngoài ra, tại Điều 4 Luật Luật sư 2006 sửa đổi, bổ sung năm 2012 có quy định:
Dịch vụ pháp lý của luật sư bao gồm tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật, đại diện ngoài tố tụng cho khách hàng và nhiều dịch vụ pháp lý khác.
Dịch vụ pháp lý (DVPL) được hiểu là một lĩnh vực dịch vụ liên quan đến pháp luật, do các chuyên gia cung cấp nhằm hỗ trợ cá nhân và tổ chức trong việc giải quyết các vấn đề pháp lý.
1 Từ điển Luật học của Viện Khoa học pháp lý, tr.218.
2 Hoàng Thị Vịnh (2014), Hợp đồng dịch vụ pháp lý ở Việt Nam, luận án tiến sĩ luật học, Học viện Khoa học xã hội.
Dịch vụ pháp lý đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp giải pháp pháp lý cho các vấn đề phát sinh trong hoạt động của cá nhân, tổ chức và doanh nghiệp Những người có kiến thức về pháp luật có trách nhiệm đưa ra những giải pháp phù hợp nhằm đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ hợp pháp cho các bên liên quan.
Dịch vụ pháp lý là một loại hình dịch vụ đặc biệt, khác biệt so với các dịch vụ thông thường, với những đặc điểm riêng biệt như tính chuyên môn cao, yêu cầu kiến thức pháp luật sâu rộng và khả năng tư vấn, đại diện cho khách hàng trong các vấn đề pháp lý.
Hoạt động cung ứng dịch vụ pháp lý gắn liền với pháp luật, bao gồm việc trang bị kiến thức cho khách hàng về các lĩnh vực pháp luật cụ thể thông qua tư vấn pháp luật Ngoài ra, dịch vụ này còn bao gồm việc bào chữa và bảo vệ quyền lợi của khách hàng tại Tòa, cũng như đại diện cho khách hàng trong các thủ tục tố tụng để thực hiện quyền và nghĩa vụ của họ, nhằm mang lại lợi ích tốt nhất cho khách hàng.
Hoạt động cung ứng dịch vụ pháp lý (DVPL) là một hình thức kinh doanh có điều kiện, yêu cầu các chủ thể phải đáp ứng các quy định pháp luật để hoạt động trên thị trường Đối với tổ chức hành nghề, cần phải được thành lập hợp pháp và các cá nhân trong tổ chức cũng phải thỏa mãn các điều kiện kinh doanh Nếu hành nghề cá nhân, ngoài việc có chứng chỉ hành nghề, còn phải thực hiện đăng ký kinh doanh theo quy định Đặc biệt, khi đăng ký hành nghề trong lĩnh vực DVPL, chủ thể không được phép đăng ký thêm ngành nghề hoặc dịch vụ khác.
Chất lượng dịch vụ pháp lý (DVPL) khó có thể được ước lượng một cách cụ thể, vì việc ký kết hợp đồng DVPL đồng nghĩa với việc bên cung cấp phải thực hiện công việc liên quan đến pháp luật cho bên sử dụng, nhưng kết quả lại mang tính vô hình và không thể xác định rõ ràng Thiếu thước đo về chất lượng DVPL dẫn đến việc các tổ chức và cá nhân hành nghề cần nỗ lực không ngừng để củng cố uy tín và thương hiệu, đồng thời khẳng định sự tận tâm và nhiệt huyết, nhằm đạt hiệu quả cao trong công việc phục vụ bên sử dụng DVPL.
1.1.2 Khái niệm, đặc điểm và phân loại hợp đồng cung ứng dịch vụ pháp lý a Khái niệm về hợp đồng cung ứng dịch vụ pháp lý Để làm rõ khái niệm về HĐDVPL thì trước hết cần làm rõ khái niệm về hợp đồng Theo đó, khái niệm hợp đồng dân sự được định nghĩa theo BLDS như sau:
“Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự” 4
Hợp đồng dịch vụ pháp lý (HĐDVPL) là sự thỏa thuận nhằm xác nhận, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ trong quan hệ cung ứng dịch vụ pháp lý Theo các nguyên tắc pháp lý cơ bản, khi điều chỉnh quan hệ HĐDVPL, cần tuân thủ các nguyên tắc và quy định liên quan đến hợp đồng dịch vụ trong Bộ luật Dân sự (BLDS).
2015 và LTM 2005 cũng được áp dụng cho HĐDVPL.
Theo Điều 513 Bộ luật Dân sự 2015, hợp đồng dịch vụ được định nghĩa là thỏa thuận giữa hai bên, trong đó bên cung cấp dịch vụ thực hiện công việc cho bên sử dụng dịch vụ, và bên sử dụng dịch vụ có nghĩa vụ thanh toán tiền cho bên cung cấp.
Theo Khoản 9 Điều 3 LTM 2005, cung ứng dịch vụ được định nghĩa là hoạt động thương mại, trong đó bên cung ứng dịch vụ có trách nhiệm thực hiện dịch vụ cho bên sử dụng dịch vụ (khách hàng) và nhận thanh toán Khách hàng có nghĩa vụ thanh toán cho bên cung ứng dịch vụ theo thỏa thuận đã được thống nhất.
Khái quát chung về pháp luật điều chỉnh hợp đồng cung ứng dịch vụ pháp lý
1.2.1 Khái quát về pháp luật điều chỉnh hợp đồng cung ứng dịch vụ pháp lý a Khái niệm về pháp luật điều chỉnh hợp đồng cung ứng dịch vụ pháp lý
Khái niệm về pháp luật
Pháp luật là tập hợp các quy tắc do Nhà nước ban hành, mang tính quy phạm và xác định rõ ràng về hình thức Nó thể hiện ý chí của giai cấp thống trị và được Nhà nước đảm bảo thực hiện, nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội một cách trật tự và ổn định.
Khái niệm về HĐDVPL đã nêu ở phần 1.1.2
Hợp đồng cung ứng dịch vụ pháp lý là thỏa thuận giữa bên cung ứng và bên thuê dịch vụ, trong đó bên cung ứng cam kết cung cấp một hoặc nhiều dịch vụ pháp lý và nhận thù lao từ bên thuê Bên sử dụng dịch vụ có trách nhiệm thanh toán và sử dụng dịch vụ theo các điều khoản đã thỏa thuận.
Khái niệm về pháp luật điều chỉnh hợp đồng cung ứng dịch vụ pháp lý
Pháp luật về hợp đồng cung ứng dịch vụ pháp lý tại Việt Nam là một phần của hệ thống pháp luật, bao gồm các quy định do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, nhằm điều chỉnh các quan hệ pháp luật liên quan đến hoạt động cung ứng dịch vụ pháp lý Đặc điểm của pháp luật điều chỉnh hợp đồng này thể hiện rõ trong việc bảo vệ quyền lợi của các bên tham gia, đảm bảo tính minh bạch và công bằng trong các giao dịch pháp lý.
Pháp luật điều chỉnh hợp đồng cung ứng dịch vụ pháp lý tại Việt Nam có một số đặc điểm cơ bản như sau:
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, hợp đồng cung ứng dịch vụ pháp lý là một lĩnh vực mới, với khung pháp lý ra đời muộn hơn so với các lĩnh vực khác Do đó, các quy định liên quan đến hợp đồng này còn phân tán trong nhiều văn bản pháp luật và chưa đạt được sự đồng bộ, hoàn chỉnh.
Thứ hai, các chủ thể của HĐDVPL phải đáp ứng một số điều kiện bắt buộc khi tiến hành giao kết hợp đồng.
Theo quy định của các luật chuyên ngành về dịch vụ pháp lý, nhà đầu tư muốn thành lập tổ chức cung ứng dịch vụ pháp lý tại Việt Nam cần đáp ứng các điều kiện về tư cách pháp lý của người sáng lập và quản lý doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp.
Theo quy định tại Luật Đầu tư 2005 và các tài liệu liên quan, chỉ những nhà đầu tư cá nhân đáp ứng đủ điều kiện chuyên môn và kỹ năng hành nghề luật, được cấp chứng chỉ hành nghề, mới có quyền thành lập hoặc tham gia thành lập các tổ chức cung ứng dịch vụ pháp lý (DVPL) Nếu nhà đầu tư không đạt tiêu chuẩn này, họ không được phép thành lập tổ chức kinh doanh nhằm mục đích lợi nhuận trong lĩnh vực DVPL Đối với bên sử dụng DVPL, cá nhân phải từ 18 tuổi trở lên để thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự, trong khi pháp nhân cần có người đại diện hợp pháp để ký kết hợp đồng Ngoài ra, Văn bản hợp nhất số 03 về Luật Luật sư cũng quy định hình thức hành nghề luật sư, đây là điều kiện quan trọng để bên cung ứng DVPL tham gia giao kết hợp đồng.
“Điều 23 Hình thức hành nghề của luật sư
Luật sư được lựa chọn một trong hai hình thức hành nghề sau đây:
1 Hành nghề trong tổ chức hành nghề luật sư được thực hiện bằng việc thành lập hoặc tham gia thành lập tổ chức hành nghề luật sư; làm việc theo hợp đồng lao động cho tổ chức hành nghề luật sư.
2 Hành nghề với tư cách cá nhân theo quy định tại Điều 49 của Luật này.”
Bên cung ứng dịch vụ pháp lý (DVPL) phải là tổ chức hành nghề hợp pháp hoặc cá nhân hành nghề Bên sử dụng DVPL có thể là bất kỳ tổ chức, cá nhân nào có nhu cầu và năng lực hợp pháp Mục tiêu của bên cung ứng DVPL là sinh lợi, trong khi bên sử dụng DVPL nhằm đáp ứng nhu cầu về dịch vụ này.
Theo quy định hiện hành, bên cung ứng dịch vụ pháp lý (DVPL) phải đáp ứng đủ điều kiện về chuyên môn và giấy phép để hoạt động Tuy nhiên, tiêu chuẩn cho bên cung ứng DVPL vẫn còn chung chung và thiếu cụ thể, dẫn đến tình trạng kiểm soát lỏng lẻo các điều kiện như chứng chỉ hành nghề Điều này tạo cơ hội cho việc làm giả chứng chỉ và các hành vi “đi cửa sau” để né tránh kiểm soát Mặc dù pháp luật đã quy định đầy đủ cho bên sử dụng dịch vụ, nhưng cần xem xét thay đổi độ tuổi sử dụng DVPL để bảo vệ quyền lợi của tất cả công dân trong xã hội.
1.2.2 Nguồn của pháp luật điều chỉnh về hợp đồng cung ứng dịch vụ pháp lý tại Việt Nam hiện nay a Lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật về hợp đồng cung ứng dịch vụ pháp lý tại Việt Nam
Lịch sử pháp luật về hợp đồng dịch vụ pháp lý (HĐDVPL) tại Việt Nam gắn liền với sự phát triển của nghề luật sư, công chứng và thừa phát lại Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, HĐDVPL trở thành yếu tố quan trọng đối với nền kinh tế thị trường đang phát triển của Việt Nam Nhu cầu hỗ trợ pháp lý gia tăng, đặc biệt trong các giao dịch tài sản và thương mại, dẫn đến việc hình thành và phát triển pháp luật điều chỉnh HĐDVPL là điều tất yếu Pháp luật về hợp đồng dịch vụ đã có từ thời kỳ thuộc địa Pháp, với bộ luật hợp đồng bao gồm hợp đồng dân sự và thương mại Ngày 25/9/1989, Hội đồng Nhà nước Việt Nam đã thông qua pháp lệnh hợp đồng kinh tế, quy định rõ về quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng kinh tế nhằm thúc đẩy sản xuất và trao đổi hàng hóa, dịch vụ.
Pháp lệnh luật sư năm 1987 định nghĩa dịch vụ pháp lý (DVPL) là sự hỗ trợ pháp luật, bao gồm tham gia tố tụng với vai trò bào chữa cho bị can, bị cáo, hoặc đại diện cho bên bị hại và các đương sự khác trong vụ án hình sự, kể cả tại Tòa án quân sự Ngoài ra, DVPL còn bao gồm tư vấn pháp luật cho các tổ chức kinh tế nhà nước, tập thể, tư nhân và tổ chức kinh tế nước ngoài, đại diện cho các bên trong các vụ án hôn nhân, lao động, cùng với việc cung cấp các dịch vụ pháp lý khác cho công dân và tổ chức.
Pháp lệnh Luật sư năm 2001 quy định dịch vụ pháp lý (DVPL) bao gồm ba lĩnh vực chính: tố tụng, tư vấn pháp luật và DVPL khác Mặc dù cả hai Pháp lệnh luật sư 1987 và 2001 đều đề cập đến "DVPL khác", nhưng không xác định rõ ràng nội dung của DVPL này Hiện tại, Pháp lệnh luật sư 1987 đã hết hiệu lực, trong khi Pháp lệnh luật sư 2001 vẫn còn hiệu lực thi hành.
Pháp lệnh hợp đồng kinh tế quy định 8 điều quan trọng, tuy nhiên hiện tại vẫn thiếu văn bản hướng dẫn cho các dịch vụ pháp lý khác Do đó, các dịch vụ pháp lý khác vẫn phải tuân theo hướng dẫn cũ tại Điều 30 của Quy chế đoàn Luật sư, được ban hành kèm theo Nghị định 15/HĐBT ngày 21/02/1989 của Hội đồng.